Các hộ ngành nghề chủ yếu sử dụng lao động gia đình.Trình độ văn hoá và ngành nghề của người lao động thấp.Bên cạnh một số nghệ nhân có tay nghề cao,thì 55 % lao động trong các cơ sở chuyên ngành chưa qua đào tạo,36 % không có chuyên môn kỹ thuật.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở và các ngành nghề ở nông thôn rất thấp,chỉ có 18,6 % các cơ sở có nhà xưởng kiên cố;85 % có sử dụng điện;37 % công việc được cơ khí hoá,còn 63 % làm bằng tay.
Vốn của các cơ sở và hộ ngành nghề thấp,chủ yếu là vốn tự có.Bình quân một cơ sở có 370 triệu đồng,1 hộ chuyên : 36 triệu đồng ,1 hộ kiêm:10 triệu đồng,trong đó,vốn vay chiếm khoảng 20 %.
Sản phẩm của ngành nghề nông thôn chủ yếu phục vụ thị trường trong nước,chỉ có một phần hàng thủ công mỹ nghệ tham gia xuất khẩu đạt giá trị cao.
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1741 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ày càng văn minh tiến bộ. Hiên đại hoá nông thôn không chỉ bao gồm công nghiệp hoá, nâng cao trình độ kỹ thuật – công nghệ và tổ chức trong các lĩnh vực khác của sản xuất vật chất ở nông thôn, mà còn cả việc bao gồm cả việc không ngừng nâng cao đời sống văn hoá - tinh thần, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội, hệ thống giáo dục, đào tạo, y tế, và các dịch vụ phục vụ đời sống khác ở nông thôn. Về bản chất, hiện đại hoá là quá trình phát triển toàn diện có kế thừa ở nông thôn. Hiện đại hóa hoàn toàn không có nghĩa là xoá bỏ toàn bộ những gì đã tạo dựng trong quá khứ, càng không có nghĩa là phải đưa toàn bộ công nghệ, thiết bị tiên tiến và hiện đại vào nông thôn ngay một lúc, mà là tận dụng, cải tiến, hoàn thiện từng bước nâng cao trình độ khoa học – kỹ thuật – công nghệ và tổ chức, quản lý nền sản xuất và đời sống xã hội ở nông thôn lên ngang tầm với trình độ thế giới.
Hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình không ngừng nâng cao trình độ khoa học – kỹ thuật – công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là quá trình cần được thực hiện một cách liên tục vì luôn có những tiến bộ kỹ thuật mới xuất hiện và được ứng dụng trong sản xuất.
II. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn:
1.Vì sao phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn:
ở nước ta, 80% dân số sống ở nông thôn, trên 70% lực lượng lao động xã hội làm việc ở nông thôn. Việc phát triển toàn diện nông thôn có ý nghĩa to lớn đối với phát triển kinh tế – xã hội của cả nước. Kinh nghiệm thế giới đã chỉ ra rằng, nếu không phát triển nông thôn thỉ không một nước nào có thể phát triển ổn định, bền vững với tốc độ cao một cách lâu dài được. Các nước công nghiệp phát triển hiện nay cũng đã phải giải quyết mối quan hệ giữa công nghiệp hoá và phát triển các đô thị, với công nghiệp hóa, hiện đại hoá và cả đô thị hoá nông thôn. Những nước chưa giải quyết vấn đề này một cách thoả đáng đang phải trả giá bằng những hành động khắc phục hậu quả của lịch sử công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước đây. Vừa qua, không chỉ các nhà kinh tế thế giới bàn luận nhiều về vấn đề này, mà nhiều tổ chức quốc tế cũng đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo về phát triển nông thôn, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Vì vậy, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là một tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta nhằm :
Thúc đẩy quá trình phân công lao động ở nông thôn, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, tăng khả năng tích luỹ từ nội bộ nông thôn, nâng cao khả năng đầu tư và tiếp nhận đầu tư vào khu vực nông thôn. Điều này thể hiện ở chỗ thu nhập giữa các hộ thuần nông và các hộ ngành nghề ở nông thôn nước ta đang có sự chênh loch ngày càng lớn và thực tế là sau khi đưa vào chế biến nông nghiệp, giá trị của các sản phẩm nông nghiệp sẽ cao hơn rất nhiều.
Mở rộng thị trường, tạo cơ sở phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và các ngành kinh tế khác ở nông thôn cũng như trên cả nước. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, khi các doanh nghiệp nước ta đang gặp phải sự cạnh tranh rất gay gắt trên thị trường quốc tế, trong khi đó thị trường trong nước, thị trường nông thôn có tiềm năng lớn nhưng chưa được khai thác tốt.
Giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội ở nông thôn, đặc biệt là vấn đề việc làm, khai thác các nguồn lực ở mỗi địa phương, khắc phục sự chênh loch không đáng có giữa các địa phương, giữa các dân tộc, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Hiện nay nước ta có khoảng 5 triệu người đang cần có việc làm hoặc có thêm việc làm, riêng ở nông thôn, ngoài số lao động có việc làm thường xuyên, còn phải giải quyết việc làm tạm thời cho người lao động lúc nông nhàn. Khắc phục tình trạng này là một nhiệm vụ đặt ra cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. ở đây cần khắc phục quan niệm cổ điển xem việc đưa máy móc thiết bị tiến hành công nghiệp hoá nông thôn là làm giảm bớt số lao động ở nông thôn. Bởi lẽ nó sẽ làm giảm số lao động trực tiếp thực hiện công việc trước đay phải làm thủ công, xong lại tạo ra nhiều chỗ làm việc mới cho các hoạt động khác.
+ Thực hiện đô thị hoá nông thôn, giảm bớt sức ép của dòng dân cư từ nông thôn chuyển vào đô thị, tạo điều kiện để các đô thị có thể phát triển thuận lợi.
2.Thực trạng của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
2.1. Nông nghiệp đã phát triển nhanh về sản lượng,đặc biệt là lương thực,nhưng chất lượng nông sản còn thấp,khả năng cạnh tranh yếu,hiệu quả thấp.
Từ năm 1981 đến nay,nông nghiệp đã phát triển với nhịp độ bình quân 4,5 % là tốc dộ phát triển khá cao.Sản xuất lương thực đã tăng nhanh,khắc phục được tình trạng thiếu lương thực và có dư để xuất khẩu.Đồng thời,trong những năm gần đây,sản xuất các mặt hàng nông sản khác đều tăng nhanh so với nhu cầu trong nước; hàng hoá cần được xuất khẩu cũng tăng nhanh.Hiện nay chúng ta chỉ còn phải nhập khẩu với số lượng đáng kể 6 mặt hàng nông sản gồm: bông,dầu thực vật,sữa bò,thịt bò cao cấp,bột giấy và gỗ. Do vậy,giá cả hàng nông sản trong nước nói chung phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu.Trong thời gian vừa qua,nhiều nơi,nhiều lúc giá một số mặt hàng nông sản như lúa gạo,hoa quả,thịt lợn,thịt gà đã xuống thấp,chủ yếu do xuất khẩu kém hiệu quả.
Do vậy trong hệ thống các biện pháp thúc đẩy nông nghiệp phát triển, thì việc tiêu thụ sản phẩm phải là vấn đề ưu tiên hàng đầu. Để làm được việc này,đối với sản xuất nông nghiệp cần phải nhanh chóng thay đổi cơ cấu và chất lượng giống,áp dụng các qui trình và công nghệ tiên tiến và đồng bộ từ sản xuất đến chế biến,bảo quản để nâng cao chất lượng hàng hoá,trong đó phát triển công nghiệp chế biến để nâng cao chất lượng hàng nông sản xuất khẩu là yếu tố hết sức quan trọng.Đồng thời, để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản nước ta,thì trên cơ sở đa dạng hoá sản xuất,tập trung phát triển những mặt hàng chiến lược dựa vào những lợi thế so sánh của cả nước và từng vùng.
2.2 Hình thành các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh tập trung như:lúa,cao su,cà phê, điều,mía,rau quả,lợn,bò,tôm,cá,nhưng nhìn chung sản xuất còn phân tán,manh mún;quy mô sản xuất hộ gia đình nhỏ bé,trước mắt có thể có hiệu quả,nhưng về lâu dài là trở ngại lón cho quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông nghiệp.
Trong khi các vùng chuyên canh cao su,cà phê và chè đã khá ổn định thì các vùng chuyên canh khác còn đang trong quá trình hình thành,ít về số lượng và nhỏ bé về qui mô,lại chưa ổn định.Các vùng cây ăn quả,chăn nuôi gia súc chủ yếu phát triển dựa trên cơ sở các vùng truyền thống,thiếu sự tác động của khoa học công nghệ,chưa đáp ứng được các yêu cầu nguyên liệu của công nghiệp.
Hiện nay cả nước có gần 10 triệu hộ dân với đất nông nghiệp bình quân 0,8 ha/hộ và có tới hàng triệu thửa đất nhỏ và manh mún,quả thật chỉ phù hợp với sản xuất bằng lao động thủ công,nếu không sử lý thì không thể công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn,nhất là đồng bằng sông Hồng và miền Trung.
2.3. Nông nghiệp nước ta đã bước đầu được thuỷ lợi hoá,hoá học hoá,cơ khí hoá,điện khí hoá và áp dụng các thành tựu của cách mạng sinh học,nhưng cơ sở hạ tầng còn thấp kém,lao động thủ công vẫn còn phổ biến,trình độ khoa học công nghệ còn thấp,thua kém nhiều nước trên khu vực và thế giới
Trong nhiều năm qua,Nhà nước và nhân dân đã đầu tư lớn vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp và cơ sở hạ tầng nông thôn.Tới năm 1995,các công trình thuỷ lợi đã tưới cho 3 triệu ha đất canh tác ( chiếm 53 % ),tiêu 1,4 triệu ha, ngăn mặn 0,7 triệu ha và chống lũ cho hơn 2 triệu ha; có 94 % số xã có đường ô tô tới khu trung tâm; 63 % số xã với 51 % số hộ đã có điện để dùng.Tuy vậy,chất lượng các công trình thuỷ lợi còn thấp,cần tiếp tục tu bổ,nâng cấp và xây dựng mới.Đường được dùng cho bơm nước,các cơ sở chế biến ngành nghề và thắp sáng,nhưng mức độ sử dụng còn thấp,chất lượng đIện nông thôn kém.
Trình độ cơ giới hoá còn thấp,tỷ lệ cơ giới hoá làm đất mới đạt 26 %,riêng đồng bằng sông Cửu Long đạt 60 %.
Việc sử dụng các loại hoá chất trong nông nghiệp nước ta cũng ngày càng tăng,nhưng so với thế giới vẫn chỉ thuộc nhóm các nước trung bình. Mặc dù các loại hoá chất đã góp phần quan trọng trong việc gia tăng sản lượng nông phẩm,nhưng cũng đang đặt ra những vấn đề về môi trường, do vậy cần được quản lí và hướng dẫn chặt chẽ để sử dụng hợp lý.
Về ứng dụng thành tựu cách mạng sinh học: trong 10 năm gần đây đã tạo ra được nhiều giống lúa, ngô, rau, cây ăn quả, cây lâm nghiệp, nhất là các loại giống lai cho năng suất cao. Những tiến bộ khoa học trong lĩnh vực chăn nuôi và thuỷ sản như :lợn có tỷ lệ lạc cao, sinh hoá có thể trọng lớn và gà công nghiệp có tốc độ sinh trưởng nhanh, tiêu tốn ít thức ăn cũng đã được cung cấp rộng rãi. Tuy nhiên, trình độ áp dụng thành tựu cách mạng sinh học của nước ta còn thấp so với các nước láng giềng.
2.4. Công nghiệp chế biến nông lâm sản đã có bước tiến bộ đáng kể nhưng còn nhỏ bé và có trình độ thấp.
+ Về chế biến nông sản.
Nhìn chung, công nghiệp chế biến nông sản của nước ta đã bước đầu vượt qua được những khó khăn của thời kì đầu chuyển sang cơ chế thị trường và đã có một số tiến bộ. Những năm vừa qua, là thời kì tập trung cao cho công nghiệp chế biến nông sản. Hầu hết các doanh nghiệp chế biến nông sản đã đi vào đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu, đổi mới thiết bị và công nghệ, tăng thêm cơ sở và công suất, làm cho năng lực chế biến nông sản tăng nhanh, đặc biệt là công nghệ chế biến mía đường.
Các doanh nghiệp cũng đã xúc tiến nhanh việc tiếp cận thị trường trong và ngoài nước,bố trí lại sản xuất,đa dạng hoá sản phẩm và cải tiến mẫu mã phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Sản phẩm chè chế biến từ 7 mặt hàng (3 loại chè đen và 4loại chè hương),nay đã có 45 mặt hàng chè tham gia vào thị trường;về cà phê, ngoài cà phê nhân đã có các mặt hàng cà phê hoà tan, cà phê rang xay xuất khẩu;mặt hàng gạo xuất khẩu cũng đa dạng hơn.
Sản lượng công nghiệp chế biến nông sản cũng đã tăng đáng kể: sản lượng ngô,gạo qua chế biến là 12,5 triệu tấn,tăng 4,5 triệu tấn so với 5 năm trước đó;đường mật các loại 393.000 tấn,tăng 70.000 tấn. Đặc biệt là gạo chất lượng cao đã tăng rất nhanh chiếm 75 %, làm thay đổi hẳn cơ cấu và giá trị gạo xuất khẩu ở nước ta.
Như vậy, giá trị sản lượng chế biến nông sản liên tục tăng với tốc độ cao, giá trị sản lượng chế biến lương thực tăng 17,4 % năm, giá trị sản lượng chế biến thực phẩm tăng 12,7 % năm.
Tuy nhiên,trong lĩnh vực chế biến nông sản cũng còn nhiều mặt yếu kém, nổi bật là: tỷ trọng nông sản được chế biến công nghiệp còn thấp,chỉ đạt 30 % sản lượng mía,gần 60 % chè, dưới 20 % rau quả.
Phần lớn các cơ sở chế biến lúa, gạo,chè được xây dựng đã lâu, thiết bị và quy trình công nghệ lạc hậu.Tuy nhiên, hiện nay đã có một số nhà máy mới được xây dựng có máy móc thiết bị tương đối hiện đại,nhất là các cơ sở liên doanh hay đầu tư vốn nước ngoài, nhưng số lượng các cơ sở này chưa nhiều.Chất lượng nông sản chế biến chưa cao nên sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế kém,làm cho nông dân nước ta phải chịu nhiều thua thiệt.
+ Về chế biến lâm sản
Đến nay, công nghiệp chế biến gỗ nước ta đã phát triển thành một mạng lưới toàn quốc, gồm hơn 800 doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp nhà nước là 271, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 473,doanh nghiệp liên doanh với nước ngoàI là 30. Tuy các doanh nghiệp đã cố gắng đầu tư chiều sâu, nhập thiết bị công nghệ mới để tinh chế và nâng cao chất lượng sản phẩm,nhưng nhìn chung công nghiệp chế biến gỗ ở nước ta đang ở trình độ thấp, sản xuất chủ yếu là quy mô nhỏ, phân tán, nguyên liệu chủ yếu là gỗ rừng tự nhiên;tỷ lệ thành phẩm thấp;sản phẩm chủ yếu là gỗ xẻ và đồ mộc các loại từ gỗ nguyên chiếm tỷ lệ 68,5 % ; đồ mỹ nghệ 3,0 %.ván nhân tạo chỉ đạt11,3%.
Mặc dù vậy,việc kết hợp sử dụng nhân công với tay nghề truyền thống cao, hàng lâm sản chế biến của nước ta đã cạnh tranh chiếm lĩnh có hiệu quả thị trường của một số mặt hàng,như thị trường đồ gỗ ngoàI trời ở EU.
2.5. Ngành nghề nông thôn đang phát triển nhanh ,đóng góp vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm và tăng thu nhập ở nông thôn,nhưng công nghệ,kỹ thuật,chất lượng sản phẩm còn thấp.
Hiện nay ở nông thôn nước ta có nhiều cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, chế tạo và sửa chữa cơ khí, rèn đúc, xây dựng,dệt, may,thêu ren,làm đồ gốm,sứ,thuỷ tinh,da, nhựa,giấy,thủ công mỹ nghệ và dịch vụ.Cả nước có khoảng 300 làng nghề,trong đó có hơn 100 làng nghề truyền thống.Đại đa số các hộ và cơ sở ngành nghề phân tán rảI rác khắp nơI trong nước dưới các hộ và cơ sở chuyên ngành nghề và các hộ kiêm.
Qua điều tra ở 9 tỉnh cho thấyhiện có tới 15,tổng số hộ hoặc cơ sở chuyên và 24,3 % hộ kiêm ngành nghề,thu hút số lượng lao động lớn.Trong đó,60,6 % số hộ và cơ sở này được hình thành từ năm 1989 trở lại đây,tốc độ tăng bình quân 8,6 %/ năm,riêng 4 năm gần đây tăng 10 %/ năm.
Bình quân môĩ cơ sở chuyên ngành nghề tạo ra được việc làm ổn định cho 25 lao động,còn mỗi hộ chuyên ngành nghề cho 4-6 lao động.Thu nhập bình quân của một lao động ở cơ sở chuyên ngành nghề là 430 nghìn đồng/ tháng, ở hộ chuyên : 236 nghìn đồng/ tháng,bằng 1,6 – 3,9 lần so với lao động thuần nông.
Các hộ ngành nghề chủ yếu sử dụng lao động gia đình.Trình độ văn hoá và ngành nghề của người lao động thấp.Bên cạnh một số nghệ nhân có tay nghề cao,thì 55 % lao động trong các cơ sở chuyên ngành chưa qua đào tạo,36 % không có chuyên môn kỹ thuật.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở và các ngành nghề ở nông thôn rất thấp,chỉ có 18,6 % các cơ sở có nhà xưởng kiên cố;85 % có sử dụng điện;37 % công việc được cơ khí hoá,còn 63 % làm bằng tay.
Vốn của các cơ sở và hộ ngành nghề thấp,chủ yếu là vốn tự có.Bình quân một cơ sở có 370 triệu đồng,1 hộ chuyên : 36 triệu đồng ,1 hộ kiêm:10 triệu đồng,trong đó,vốn vay chiếm khoảng 20 %.
Sản phẩm của ngành nghề nông thôn chủ yếu phục vụ thị trường trong nước,chỉ có một phần hàng thủ công mỹ nghệ tham gia xuất khẩu đạt giá trị cao.
Nhìn chung, mặt hàng đơn điệu,chất lượng thấp,mẫu mã, bao bì kém.
2.6. Thu nhập và đời sống của một bộ phận lớn nông dân đã được cảI thiện,nhưng nhìn chung còn thấp,bấp bênh,tình trạng thiếu việc làm,nghèo đói,du canh, du cư,di dân tự do đang đặt ra rất gay gắt cần có giảI pháp khắc phục.
Từ khi có “ Đổi mới” đời sống cuả đa số dân cư nông thôn đã được cải thiện rõ rệt,đIều kiện ăn,ở, đi lại,học hành,chữa bệnh đã tốt hơn nhiều.Tuy vậy, thu nhập của đa số nông dân còn rất thấp,phần thu nhập về nông nghiệp mới chỉ khoảng 100 USD/ người/ năm.Tỷ lệ nghèo đói còn cao,một số nơi rất cao,như Hoà Bình 56 %; Kon Tum 54 %;Quảng Bình 46 %; Gia Lai 45 %; Lai Châu 42 %. Thu nhập và đời sống của số lượng lớn dân cư nông dân,kể cả ở những vùng nông nghiệp trù phú như Đồng bằng sông Cửu Long, vẫn bị chi phối mạnh bởi thiên tai :bão,lũ,lụt và sự lên xuống thất thường của giá cả thị trường.
Hơn nữa,do kinh tế nông thôn vẫn chủ yếu là nông nghiệp (75 %GDP nông thôn là nông nghiệp) nên thu nhập của nông dân tăng chậm,chênh lệch về thu nhập giữa dân cư nông thôn với thành thị và giữa các vùng nông thôn đang tăng lên.
Mặc dù Nhà nước đã có nhiều cố gắng và đã đạt được kết quả to lớn,tới nay vẫn còn khoảng 2,5 triệu người thuộc các dân tộc khác nhau trong diện vận động định canh định cư, trong đó có 10 vạn hộ đặc biệt khó khăn.
Tính đến nay đã có khoảng 222 nghìn hộ với khoảng 1 triệu người di cư tự do,phần lớn là các tỉnh Tây Nguyên và Đông Nam Bộ,chủ yếu do nghèo túng, đã gây ra nhiều khó khăn cho các địa phương có dân đến và nạn phá rừng tăng nhanh.
Nhìn về tổng thể,những năm vừa qua nông nghiệp và nông thôn đã có những chuyển biến tích cực nhưng những vấn đề đặt ra cũng rất lớn và gay gắt.Để khai thác các tiềm năng,vượt qua được những thách thức và yếu kém hiện nay,con đường duy nhất là phải đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
3.Những nội dung của công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
3.1.Phát triển nền nông nghiệp hàng hoá đa dạng, xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất trên qui mô lớn và từng bước hiện đại hoá.
Trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh của từng vùng về tiềm năng đất đai,khí hậu và kinh nghiệm truyền thống,cùng với việc đẩy nhanh tiến độ các thành tựu khoa học kỹ thuật để tạo ra nhiều loại nông sản hàng hoá đa dạng đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.Để đạt được mục tiêu nêu trên không thể không tiến hành quy hoạch và thực hiện các biện pháp đồng bộ để tạo ra các vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá lớn gắn kết liên hoàn giữa trước sản xuất,trong sản xuất và sau sản xuất, giữa sản xuất – chế biến và tiêu thụ,tạo hành lang thông suốt từ sản xuất của nông dân đến thị trường tiêu thụ.
Phát triển và nâng cao sức cạnh tranh của ngành sản xuất truyền thống,từng bước phát triển các ngành sản xuất mới có khả năng, coi trọng các ngành sản xuất nông sản quý hiếm có lợi thế để phát huy tiềm lực đa dạng của nền nông nghiệp,đảm bảo sức cạnh tranh bền vững của nông sản hàng hoá Việt Nam trong quá trình hội nhập với thị trường khu vực và thế giơí.Trước hết,tập trung xây dựng một số ngành chủ lực sau đây:
+ Các vùng chuyên canh trồng lúa xuất khẩu ở Đồng Bằng sông Cửu Long và một vài tỉnh ở Đồng bằng sông Hồng,tổng diện tích khoảng 0,8-1 triệu ha để hàng năm làm ra 70 % lượng gạo xuất khẩu đạt chất lượng cao;
+ Các vùng chuyên canh ngô ở Đồng bằng sông Cửu Long,Đông Nam Bộ,Tây Nguyên,Đồng bằng sông Hồng và miền núi phía Bắc,với tổng diện tích khoảng 1 triệu ha để hàng năm sản xuất khoảng 4-5 triệu tấn ngô hàng hoá.
+ Các vùng trồng cao su ở Tây Nguyên và các tỉnh Duyên hải Trung Bộ để tới năm 2010 đưa tổng diện tích cao su của cả nước lên trên 700 ha;
+ Các vùng cà phê thâm canh cao ở Tây Nguyên, với diện tích khoảng 300.000 ha ;
+ Các vùng chè xuất khẩu tập trung ở miền núi phía Bắc với diện tích khoảng 100.000 ha ;
+Vùng chuyên canh đIều ở Duyên hải miền trung,Đông nam bộ và một phần ở Tây Nguyên, với diện tích khoảng 300.000 ha;
+ Các vùng ăn quả tập trung,gồm cây ăn quả nhiệt đới ở Nam Bộ và cây ăn quả á nhiệt đới ở miền núi phía Bắc,khoảng 500.000 ha;
+ Các vùng rau xuất khẩu ở miền núi phía Bắc,Đồng bằng sông Hồng và một phần Tây Nguyên;
+ Các vùng mía phục các nhà máy đường với diện tích khoảng 500.000 ha;
+ Các vùng chăn nuôi bò thịt chất lượng tốt ở miền Trung và Tây Nguyên;
+ Các vùng chăn nuôi lợn xuất khẩu ở các tỉnh Đồng bằng sông Hồng và Đông bằng sông Cửu Long;
+ Các vùng rừng nguyên liệu công nghiệp với tổng diện tích 3,5 triệu ha tới năm 2010 và 5 triệu ha vào năm 2020, tập trung ở miền núi Bắc Bộ,Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên.
+ Vùng nuôi tôm và thuỷ sản xuất khẩu Đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh ven biển miền Trung.
3.2.Thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn
3.2.1.Thuỷ lợi hoá
Tiếp tục mở mang diện tích được tưới tiêu bằng công trình,nâng cao năng lực quản lí và vận hành các hệ thống thuỷ nông và hiện đại hoá ngành thuỷ lợi bằng việc áp dụng các phương pháp tưới tiêu tiên tiến,thiết bị hiện đại.Đến năm 2020,hoàn thành cơ bản việc xây dựng các công trình tưới tiêu nước cho các vùng trồng lúa,tưới nước và tiêu úng cho 2 triệu ha rau màu,nâng cao mức độ an toàn kĩ thuật cho các hệ thỗng đê sông và đê biển.
Tới năm 2000 cần hoàn thành các công trình thuỷ lợi để đảm bảo tưới cho 6 triệu ha lúa,1 triệu ha rau màu và cây công nghiệp; giải quyết cơ bản yêu cầu nước tưới và thoát lũ cho vùng ngập lũ,ngọt hoá vùng mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long; tiêu úng ở Đồng bằng sông Hồng và Bắc Khu Bốn cũ trong điều kiện mưa với tần suất 10 % đảm bảo cơ bản yêu cầu về thuỷ lợi đối với lúa và hạn chế tác hại của bão,lũ đối với vùng Duyên hải miền Trung,Tây Nguyên và các vùng khác; giải quyết nước sinh hoạt cho 1 triệu người; nâng cấp một bước hệ thống đê sông, đê biển,đê ngăn mặn.
3.2.2.Phát triển hệ thống giao thông nông thôn
Phát triển hệ thống đường giao thông chất lượng tốt tới các tụ điểm nông nghiệp nông thôn và trong các vùng chuyên canh tập trung,từng bước làm đường tới những xã chưa có đường ô tô tới trung tâm xã và nâng cao hệ thống đường giao thông ở các vùng khác trong nước.Tới năm 2000 cần duy tu và nâng cấp 5.000 km đường cấp huyện,hỗ trợ nâng cấp 5.000 km đường xã hiện có,xây dựng mới khoảng 6.500 km đường ô tô, xây dựng và cảI tạo khoảng 3.000 cầu cống.
3.2.3.Cơ giới hóa
Thực hiện cơ giới các khâu việc nặng
Thực hiện cơ giới các khâu việc nặng
nhọc,thời vụ khẩn trương,sử dụng các loại máy móc thiết bị có công suất thích hợp để nâng cao năng suất lao động,tới năm 2010,tỷ lệ cơ giới hoá khâu làm đất ít nhất là 70 %,tuốt lúa 80 %,cơ giới hóa khâu tưới tiêu nước 70 %;áp dụng trên diện rộng máy thu hoạch lúa,ngô,mía…máy móc trong làm vườn…
Để phục vụ quá trình cơ giới hoá,cần hỗ trợ các cơ sở chế tạo cỡ vừa và nhỏ như các loại máy kéo 6-12 mã lực,động cơ 4,6,9,12 mã lực,máy nông nghiệp,các thiết bị chế biến nông lâm sản.
3.2.4.Điện khí hoá và thông tin liên lạc.
Phát triển mạng lưới cung cấp điện ở nông thôn để tới năm 2010 toàn bộ dân cư nông thôn có điện,đảm bảo đáp ứng yêu cầu về điện của các ngành sản xuất nông thôn;phát triển sản xuất các loại máy phát điện cỡ nhỏ,động cơ điện dùng trong nông nghiệp và nông thôn.Trước mắt, tới năm 2000,đảm bảo 100 % xã ở Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ,60-80 % số xã ở các vùng khác có điện.
Nhà nước tập trung đầu tư để nhanh chóng hoàn thành các chương trình phủ sóng phát thanh và truyền hình,phát triển mạng điện thoại,đa dạng hoá và hỗ trợ các hình thức đưa thông tin tới nông dân,nhất là thông tin và thị trường công nghiệp.
3.2.5 .ứng dụng thành tựu của cách mạng sinh học.
áp dụng nhanh các thành tựu của các cách sinh học để tạo và nhân nhanh giống cây trồng,vật nuôi,đặc biệt là áp dụng thành tựu về giống có ưu thế lai;kỹ thuật cấy truyền hợp tử;kỹ thuật gen hócmon sinh trưởng;áp dụng công nghệ sản xuất các loại phân vi sinh cố định Nitơ để thay thế dần phân đạm hoá học;các chế phẩm vi sinh để bảo vệ cây trồng thay dần các loại thuốc hoá học độc hại với người và gia súc;các loại thuốc thú y và các loại vacxin thế hệ mới.
3.3. Phát triển công nghiệp,dịch vụ nông thôn.
Nước ta đất chật,người đông,mật độ dân số vẫn còn cao,lao động trong nông thôn hiện đã dư thừa nhiều.Quá trình hiện đại hóa nông nghiệp từ nay về sau lại tiếp tục tăng thêm số lao động làm cho sức ép về việc làm trong nông thôn đã gay gắt lại càng gay gắt thêm.Phát triển công nghiệp dịch vụ của đất nước,trước hết là công nghiệp dịch vụ nông thôn nhằm tạo ra thị trường thu hút số lao động được gíải phóng ra khỏi nông nghiệp,giải quyết được việc làm trong quá trình hiện đại hoá nông nghiệp.Không những vậy,với năng suất lao động cao hơn nhiều lần so với nông nghiệp,công nghiệp và dịch vụ nông thôn sẽ tăng thu nhập cho nhân dân nông thôn.
Bởi vậy,phát triển công nghiệp dịch vụ nông thôn là lối thoát cơ bản của nền nông nghiệp hiện đại hoá,là hướng chủ yếu và lâu dài để tạo việc làm,tăng thu nhập cho nông dân,từng bước công nghiệp hóa,đô thị hoá nông thôn,rút ngắn khoảng cách về mức sống giữa nông thôn và thành thị trong quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước.
3.3.1. Công nghiệp hoá chế bíên nông lâm sản.
+Về chế biến nông sản.
Công nghiệp chế biến nông sản tập trung vào những mặt hàng xuất khẩu chủ lực,có thế mạnh cạnh tranh quốc tế,đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn cho đất nước như: gạo, cao su, chè, hạt điều,rau quả,thịt,đảm bảo nhịp độ tăng trưởng không thấp hơn 12 %/năm.Tới năm 2010 phảI đạt kim ngạch xuất khẩu trên 3,5 tỷ USD,năm 2020 trên 6 tỷ USD.
Từ nay tới năm 2020 phải khẩn trương phát triển hệ thống kho tàng,cơ sở phơI sấy lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long,đồng thời mở rộng công suất chế biến gạo xuất khẩu chất lượng cao,đảm bảo hàng năm xuất khẩu khoảng 3,5-4 triệu tấn gạo; đối với cao su,cà phê,hạt điều cần nhanh chóng phát triển các cơ sở chế biến sâu,tới năm 2010 phải đạt công suất chế biến cao su mủ khô 300 nghìn tấn,cà phê nhân 400 nghìn tấn,hạt điều 100 nghìn tận/năm.Phải đổi mới công nghệ và xây dựng các nhà máy chế biến chè đạt công suất 50 nghìn/năm; xây dựng các cơ sở chế biến nước quả,rau quả hộp,mứt…quy mô vừa và nhỏ để đáp ứng nhu cầu chế biến khối lượng hoa quả đang tăng nhanh (ít nhất khoảng 200 nghìn tấn); nâng cấp các cơ sở chế biến thịt đảm bảo chất lượng xuất khẩu đạt công suất 50-70/tấn/nghìn tấn/năm.
Đồng thời cần phát triển chế biến hoa màu,đường,thức ăn chăn nuôi,dầu thực vật (lạc,dừa,sở,…) đáp ứng nhu cầu trong nước và tiến tới xuất khẩu.Riêng về đường,tới năm 2010 hoàn thành việc xây dựng các nhà máy để đạt công suất 1 triệu tấn/năm gắn với công nghiệp sau đường.
+Về chế biến lâm sản:
Cần phát triển ngành công nghiệp chế biến lâm sản của nước ta để tới năm 2020 đạt ngang tầm với các nước ASEAN và sau đó là các nước châu á khác.Trước hết phát triển công nghiệp giấy để tới năm 2010 đạt sản lượng 1,2 triệu tấn/năm,đảm bảo đáp ứng nhu cầu trong nước 13 kg/người,tới năm 2020 đạt 2,5 triệu tấn hay 24 kg/người;sản xuất ván nhân tạo,từ năm 2005 đạt sản lượng1,3 triệu m3 thành phẩm/năm;sản xuất đồ gỗ gia dụng, tới năm 2010 đạt sản lượng1 triệu m3 sản phẩm/năm,trong đó xuất khẩu 500 nghìn m3,ổn định việc làm cho gần 100
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21134.doc