MỤC LỤC
Trang
A - PHẦN MỞ ĐẦU 1
B - NỘI DUNG CHÍNH 2
I. Lý luận về công nghiệp hoá, hiện đại hoá 2
II. Thực trạng công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 3
III. Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH các ngành, các lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam trong thời gian tới 7
C - KẾT LUẬN 12
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2042 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ận quá trình này từ hai mặt thống nhất với nhau: Thứ nhất, đó là quá trình xây dựng nền công nghiệp hiện đại, cũng có nghĩa là tạo lập nền tảng vật chất - kỹ thuật (lực lượng sản xuất) của nền kinh tế; và thứ hai, đó là quá trình cải cách hệ thống thể chế và cơ chế kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, hội nhập.
- Thứ ba: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta cần và có thể được “rút ngắn”. Việc cần được “rút ngắn” ở đây là đòi hỏi khách quan của nhiệm vụ thoát khỏi tình trạng tụt hậu phát triển. Về cơ bản, cách để nước ta có thể thực hiện được CNH, HĐH rút ngắn bao gồm hai mặt: Thứ nhất, đạt và duy trì một tốc độ tăng trưởng cao hơn các nước đi trước liên tục trong một thời gian dài để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ so với các nước đó; và thứ hai, lựa chọn và áp dụng một phương thức CNH, HĐH cho phép bỏ qua một số bước đi vốn là bắt buộc theo kiểu phát triển tuần tự, để đạt tới một nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn. Hai mặt này không đối lập mà có thể thống nhất với nhau, và đang tiếp tục được làm rõ để định hình sáng tỏ hơn con đường đẩy nhanh CNH, HĐH ở nước ta.
- Thứ tư: ở nước ta, quá trình CNH, HĐH có quan hệ chặt chẽ với việc từng bước phát triển kinh tế tri thức. Trong thời gian qua, tại không ít diễn đàn khoa học và công trình nghiên cứu, mối quan hệ hai chiều giữa CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức đã từng bước được làm rõ. Về đại thể, có mạnh dạn đi ngay vào phát triển kinh tế tri thức mới có khả năng thay đổi phương thức và đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH. Quá trình CNH, HĐH ở nước ta phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nông nghiệp và các ngành kinh tế hiện có, đồng thời phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức, vào khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức.
II. Thực trạng công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
1, Những thuận lợi và khó khăn của quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam
Bối cảnh trong nước và quốc tế ngày nay hàm chứa nhiều thuận lợi nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn đối với quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Những thuận lợi và khó khăn này tồn tại đan xen với nhau, có thể chuyển hóa cho nhau. Việc phân định một cách tương đối và nhận thức rõ những thuận lợi và khó khăn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hoạch định mục tiêu, nội dung và phương pháp tiến hành CNH, HĐH cũng như việc thực hiện các nhiệm vụ trong thực tế. Về đại thể, những thuận lợi và khó khăn được khái quát hóa ở một số điểm sau đây:
a. Thuận lợi
- Thứ nhất: Sau 20 năm đổi mới, thế và lực kinh tế của nước ta đã thay đổi mạnh mẽ, thể hiện ở những cái “mới” như:
+ Cấu trúc kinh tế mới: Cơ chế thị trường thay cho cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò và chức năng mới của Nhà nước, xã hội năng động hơn, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế- xã hội được kết nối chặt chẽ hơn.
+ Tiềm lực kinh tế mới: GDP tăng trưởng với tốc độ khá cao liên tục trong nhiều năm, với cơ cấu ngành biến đổi theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
+ Thế phát triển mới: Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng cấm vận kinh tế, quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế mở rộng, đã gia nhập ASEAN, ASEM, APEC, WTO, ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, v.v.
+ Động lực mới: Xuất hiện những động lực phát triển mới mạnh mẽ: cạnh tranh thị trường, sự mở rộng các cơ hội, sức mạnh của tinh thần dân tộc trong cuộc đua tranh phát triển.
+ Lực lượng- chủ thể phát triển mới: Năng lực của các chủ thể phát triển (Nhà nước, nhân dân, doanh gia, đội ngũ trí thức và quản trị) được nâng cao. Các yếu tố bên ngoài (vốn, công nghệ - kỹ thuật, tri thức, thị trường...) trở thành lực lượng thúc đẩy phát triển quan trọng.
- Thứ hai: Bối cảnh quốc tế với những xu hướng ưu trội bao gồm toàn cầu hoá kinh tế, phát triển kinh tế tri thức, và hoà bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển giữa các quốc gia đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã và đang theo đuổi thực hiện chính sách chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. Việc tham gia vào các quá trình liên doanh, liên kết, hợp tác song phương và đa phương, hợp tác khu vực và quốc tế của nước ta góp phần phát huy hữu hiệu lợi thế so sánh của đất nước, thu hút được những nguồn lực dồi dào về vốn, công nghệ, tri thức, kỹ năng,… của thế giới cho công cuộc CNH, HĐH. Bên cạnh đó, việc tham gia vào toàn cầu hóa kinh tế cũng tạo động lực cho việc đẩy mạnh những cải cách trong nước theo hướng hiện đại, phù hợp với khung khổ chung của quốc tế.
- Thứ ba: Là một nước tiến hành CNH muộn, Việt Nam có thể tận dụngđược những lợi thế của “nước đi sau”. Bên cạnh việc thu hút những nguồn lực vật chất và trí tuệ quan trọng như nêu trên, các nước đi sau như Việt Nam còncó thể học hỏi kinh nghiệm phong phú về CNH, HĐH của các nước đi trước. Với những kinh nghiệm đổi mới của chính bản thân mình, Việt Nam có điều kiện để học hỏi và sáng tạo liên quan đến nhiều khía cạnh của CNH, HĐH. Một lợi thế nữa của nước đi sau là nền kinh tế nước ta dễ chuyển đổi cơ cấu, vì không lệ thuộc nhiều vào những cơ sở vật chất đã có (các phí tổn không phải là quá lớn khi thay đổi những cái cũ cần thay đổi). Điều này tạo dễ dàng cho chúng ta bắt tay vào phát triển kinh tế theo các định hướng cơ cấu đã chọn lựa, bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế.
- Thứ tư: Nước ta có vị trí địa kinh tế thuận lợi, nằm ở trung tâm vùng kinh tế năng động Đông Nam Á, thuận lợi cho việc giao lưu và hội nhập quốc tế. Nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phú để phát triển một số ngành công nghiệp quan trọng. Đặc biệt, nước ta có lực lượng lao động dồi dào, cơ cấu trẻ và giá nhân công thấp, năng lực trí tuệ con người Việt Nam không thua kém các nước, tiếp thu nhanh các tri thức mới, dễ đào tạo, có khả năng sáng tạo. Bên cạnh đó, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là nền tảng cho sự phát triển các khả năng sáng tạo. Những yếu tố trên tạo nên lợi thế quan trọng trong cạnh tranh quốc tế, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi đểphát triển những ngành, những lĩnh vực hiện đại, có thể theo hướng rút ngắn.
b. Khó khăn
- Thứ nhất: Tăng trưởng kinh tế chưa được đặt trên cơ sở đủ vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh chưa cao, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, lạc hậu và còn nghiêng về hướng nội,v.v. là những đặc tính của nền kinh tế nước ta sau 20 năm đổi mới. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta chỉ mới đang hình thành, chưa đồng bộ và chưa vận hành tốt, môi trường kinh doanh chưa bình đẳng và chưa có tính khuyến khích cao,v.v. Nói một cách ngắn gọn, nền kinh tế nước ta còn đang phát triển và đang chuyển đổi (thể chế mới chưa hoàn thiện trong khi thể chế cũ chưa hoàn toàn bị loại bỏ). Thực tế này là khó tránh khỏi đối với một quốc gia đang phát triển, có tính tạm thời và được khắc phục dần trong quá trình đổi mới, tuy nhiên nó đang là một trở ngại lớn đối với quá trình CNH, HĐH ở nước ta trong môi trường cạnh tranh quyết liệt hiện nay. Trong đó, thách thức đặt ra là nguy cơ bị tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
- Thứ hai: Tuy bối cảnh quốc tế thể hiện rõ ba xu thế ưu trội như nêu trên đây, song tình hình thế giới luôn luôn có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường. Việc tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình toàn cầu hoá đặt nền kinh tế đất nước trước những khó khăn do cạnh tranh gay gắt, sự dễ bị tổn thương trước các cú sốc từ bên ngoài, và những ảnh hưởng “mặt trái” khác của kiểu toàn cầu hóa hiện nay. Nếu chúng ta không có chính sách, biện pháp để hạn chế và vượt qua những khó khăn trên, thì chúng có thể có những tác động mang tính “phá huỷ” ghê gớm, kéo lùi tiến trình phát triển của đất nước nhiều năm.
- Thứ ba: Là nước tiến hành CNH muộn, bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam gặp phải những khó khăn của “nước đi sau”. Khó khăn rõ nét là chúng ta thường phải ở thế bất lợi trong cạnh tranh quốc tế, do năng suất thấp, chất lượng sản phẩm thấp, hàm lượng vốn và trí tuệ trong sản phẩm không cao, lại thường bị động trong việc tuân thủ các luật lệ kinh tế quốc tế… Bên cạnh đó, trong quá trình CNH, HĐH, nước ta phải đối mặt với các vấn đề về tài nguyên - môi trường, dân số và công ăn việc làm ngày càng gay gắt. Mức độ suy kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng với sự xuống cấp của môi trường sống là hệ quảcủa CNH, HĐH trên quy mô toàn cầu, nhưng người gánh chịu lại chủ yếu là các nước chậm phát triển, trong đó có nước ta, đó là một khó khăn không thể lường hết được. Bởi vì nó làm cho chi phí của công cuộc CNH, HĐH tăng lên đáng kểđồng thời làm giảm tính bền vững của quá trình này. Trong khi đó, sự gia tăng của dân số, của lực lượng lao động nhanh hơn tốc độ tăng việc làm gây ra áp lực lớn giải quyết công ăn việc làm. ở nước ta, đây là một bài toán chưa có lời giải hữu hiệu.
2. Tiến trình CNH, HĐH ở Việt Nam từ nay đến năm 2020
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, Đảng ta đã xác
định mục tiêu tổng quát là “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta chưa xác định được cụ thể các tiêu chí quan trọng khi nước ta trở thành một nước công nghiệp để làm đích hướng tới. Nếu theo tiêu chí của các nước đã hoàn thành CNH, HĐH thì nước ta khó có thể đạt tới vào năm 2020. Bên cạnh đó, các bước đi của cả quá trình CNH, HĐH cũng chưa được làm rõ. Khi chúng ta chủ trương thực hiện CNH, HĐH “rút ngắn”, thì việc nghiên cứu và hoạch định các chặng đường CNH,
HĐH từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo là đặc biệt cần thiết và có ý nghĩa then chốt. Phần này phác họa một cách đại thể những mục tiêu, nhiệm vụ CNH, HĐH chủ yếu của các chặng đường từ nay đến năm 2020. Cụ thể, những mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu là:
- Thứ nhất: Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Đẩy mạnh chuyển dịch và nâng cấp cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH có hiệu quả và bền vững. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP và tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm; ở nông thôn có nền nông nghiệp và kết cấu hạ tầng cơ bản hiện đại, phát triển đa dạng các ngành công nghiệp và dịch vụ, thực hiện sự chuyển biến căn bản bộ mặt nông thôn Việt Nam phù hợp với một xã hội công nghiệp. Công nghiệp có đủ khả năng hợp tác và cạnh tranh ngang bằng với các nước trong khu vực, có chỗ đứng vững chắc trên thị trường quốc tế. Khu vực dịch vụ phát triển đa dạng, trong đó dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn thông phát triển hiện đại, tiếp cận trình độ quốc tế.
- Thứ hai: Hình thành hoàn chỉnh thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tương hợp với trình độ quốc tế. Mở rộng hội nhập quốc tế ở mức độ sâu hơn trong các lĩnh vực đầu tư, tài chính, tiền tệ, lao động, công nghệ, thông tin.Tham gia có hiệu quả vào WTO và các tổ chức quốc tế khác, về kinh tế có vịthế của một nước có trình độ phát triển trung bình trên thế giới.
- Thứ ba: Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo kịp trình độ quốc tế. Hình thành đội ngũ các nhà quản lý nhà nước tinh thông nghiệp vụ, trung thành, trung thực và tận tụy với công việc; đội ngũ doanh nhân giỏi, năng động, nhạy bén và sáng tạo; đội ngũ trí thức có trình độ cao, tâm huyết; và đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề theo kịp yêu cầu phát triển đất nước đi dần tới hiện đại hóa và nền kinh tế tri thức. Chỉ số HDI đạt mức trên trung bình trên thế giới.
- Thứ tư: Tạo dựng và phát huy năng lực công nghệ nội sinh, kể cả các lĩnh vực công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, chế tạo máy, tự động hóa, hóa dầu, năng lượng,… và sự kết hợp các công nghệ đó; có chỗ đứng vững chắc trên thị trường công nghệ, đạt trình độ tiên tiến về công nghệ trong khu vực. Tăng cường ứng dụng và nâng cao hiệu quả ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho sự “rút ngắn” trong một số ngành, lĩnh vực, tiến thẳng đến trình độ hiện đại.
- Thứ năm: Hình thành lối sống và đạo đức trong xã hội lành mạnh, văn minh, hiện đại, gắn kết cá nhân với cộng đồng và dân tộc; nền dân chủ được mở rộng, mọi người dân có điều kiện tiếp cận và hưởng thụ công bằng các thành quả phát triển; Quản lý xã hội có hiệu quả; các tệ nạn xã hội không còn là điều suy tư, lo lắng của gia đình và xã hội; môi trường tự nhiên và sinh thái được giữ gìn, hài hòa với cuộc sống con người. An ninh chính trị, xã hội luôn luôn được củng cố vững chắc. Đối với các tiêu chí cụ thể đánh giá nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, trên cơ sở tham khảo các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội được coi là đã hoàn thành CNH, có thể sơ bộ nêu ra một số tiêu chí chủ yếu sau đây:
- Về cơ cấu kinh tế: Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP đạt 90% trở lên, trong đó tỷ trọng công nghiệp đạt khoảng 40-45% GDP, tỷ trọng nông nghiệp còn khoảng 10% trở xuống; tổng đầu tư xã hội/GDP đạt trên dưới 40%; kết cấu hạ tầng đáp ứng đầy đủ cho phát triển kinh tế và đời sống xã hội.
- Về hội nhập kinh tế quốc tế: Đạt trình độ cao (độ mở cửa nền kinh tế đạt trên 90%; tốc độ tăng xuất khẩu gấp 2-3 lần tốc độ tăng GDP; hội nhập với thị trường thế giới về nhiều lĩnh vực; hội nhập với thông lệ quốc tế về các thể chế,…).
- Về trình độ hiện đại hóa: Năng suất lao động xã hội đạt khoảng 10.000 USD/lao động/năm; áp dụng công nghệ hiện đại khoảng 60% trở lên; tỷ trọng lao động phi nông nghiệp đạt 70-75% trở lên; tỷ trọng lao động có trình độ cao đạt khoảng 30% trở lên; áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước và quản lý nền kinh tế (100% công sở và doanh nghiệp sử dụng công nghệ thông tin),…
- Về mức sống và văn hóa - xã hội: Chỉ số HDI đạt nhóm 30 - 40 số nước trên cùng của thế giới; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.000 USD; tỷ lệ lao động được đào tạo đạt trên 70%; hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong phạm vi cả nước; tuổi thọ bình quân là 75; nhà ở đô thị đạt trên 20m2/người; cả nước không còn hộ nghèo; hệ số GINI (bất bình đẳng trong phân phối thu nhập) nhỏ hơn 0,4.
Tựu trung lại, sau khi kết thúc chặng đường CNH, HĐH 2010-2020, trình độ “cơ bản là một nước công nghiệp của Việt Nam” hiện ra tương đối rõ. Những năm sau đó, Việt Nam tiếp tục phát triển trên con đường hiện đại hóa trong bối cảnh của thế giới đương đại, mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” dần dần trở thành hiện thực.
III. Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH các ngành, các lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam trong thời gian tới
Theo quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước, tiến trình CNH, HĐH ở Việt Nam là công cuộc CNH, HĐH đất nước không chỉ gồm những hoạt động kinh tế, mà bao quát một phạm vi rộng lớn, đúng với nghĩa CNH, HĐH toàn bộ đất nước, chứ không chỉ riêng nền kinh tế. Tuy nhiên, do khuôn khổ có hạn của đề án này, sau đây chỉ lựa chọn trình bày một số biện pháp được xem là rất quan trọng và thiết thực.
1. Một số biện pháp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn
- Thứ nhất: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nông thôn và đổi mới các chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn. Theo đó, cần mở rộng các điều kiện tiếp cận của các chủ thể kinh tế nông thôn đến các thị trường, coi sự vận hành của cơ chế thị trường trong việc phân bổ nguồn lực và cạnh tranh thị trường là động lực kinh tế quan trọng thúc đẩy phát triển nông thôn. Các chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn cần tập trung giải quyết những khó khăn của các chủ thể kinh tế nông thôn về các vấn đề đất đai, thị trường tiêu thụ, nguồn vốn, khoa học và công nghệ, lao động, v.v. Trong đó, chính sách đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, cần được đổi mới theo hướng khuyến khích việc lưu chuyển đất đai từ người sử dụng này tới người sử dụng khác, từ mục đích sản xuất này tới mục đích sản xuất khác theo quy hoạch và quy định của pháp luật; không nên hạn chế việc tích tụ đất đai vào tay những người sử dụng có hiệu quả cao, tạo điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào nông nghiệp và tạo mặt bằng sản xuất cho các hoạt động công nghiệp ở nông thôn. Chính sách tài chính, tín dụng cần hướng tới việc tăng tỷ lệ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH, trong đó chú trọng đổi mới cơ cấu vốn đầu tư của nhà nước phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
- Thứ hai: Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần, đa dạng hoá các loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh trong nông nghiệp và nông thôn trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật. Muốn vậy, trước hết cần tạo lập và hoàn thiện hành lang pháp lý điều chỉnh tổ chức và hoạt động của các loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh ở nông thôn như các hộ gia đình, các trang trại, các hợp tác xã, và các loại hình doanh nghiệp khác trên cơ sở bình đẳng. Về lâu dài, cần có một đạo luật duy nhất điều chỉnh tất cả các loại hình tổ chức này. Cần khuyến khích phát triển rộng rãi các doanh nghiệp dân doanh ở nông thôn, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, coi đây là lực lượng chủ lực tạo việc làm mới, thực hiện xoá đói, giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề và cơ cấu lao động ở nông thôn. Bên cạnh đó, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp và nông thôn.
- Thứ ba: Làm tốt công tác quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn. Theo đó, cần đẩy nhanh và nâng cao chất lượng quy hoạch phát triển ngành và vùng theo nguyên tắc xác định các hướng sản xuất- kinh doanh trên cơ sở lợi thế so sánh của ngành và vùng. Cần có kế hoạch phối hợp giữa các ngành chuyên môn ở từng vùng, đồng thời có kế hoạch phối hợp hoạt động của các ngành chuyên môn với các cấp chính quyền ở nông thôn liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về tài chính công. Quy hoạch ngành và vùng cần được xây dựng gắn kết và đồng bộ với các quy hoạch khác ở nông thôn như: quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; quy hoạch phát triển khu dân cư, làng, xã, thị trấn; quy hoạch xây dựng các trung tâm thương mại, chợ, khu, cụm công nghiệp, làng nghề,… ở nông thôn.
- Thứ tư: Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ vào phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nâng cao năng suất của từng người lao động nông nghiệp, nâng cao thu nhập của từng hécta đồng ruộng, của từng hộ nông dân. Nhà nước cần tăng cường đầu tư cho việc nhập khẩu các công nghệ hiện đại, các loại giống tốt, đầu tư cho việc hiện đại hoá các cơ sở nghiên cứu, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ khoa học phục vụ cho việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ mới vào thực tiễn sản xuất - kinh doanh trong nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng một số khu nông nghiệp công nghệ cao dựa vào công nghệ sinh học, công nghệ thông tin như các cơ sở sản xuất giống mới dựa vào công nghệ gen, các cơ sở trồng trọt, chăn nuôi sử dụng các giống mới cùng với những công nghệ mới tự động điều khiển quá trình sản xuất. Nhà nước có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu phát triển khoa học, công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn và thực hiện xã hội hoá để mở rộng hệ thống khuyến nông đến cơ sở.
- Thứ năm: Nâng cao trình độ và đảm bảo tính đồng bộ của nguồn lao động nông thôn thông qua đổi mới chính sách đào tạo và dạy nghề. Trong thời kỳ đầu CNH, HĐH, cần điều chỉnh cơ cấu đào tạo đại học, cao đẳng và giáo dục chuyên nghiệp theo hướng tăng đào tạo nghề nghiệp và trung học chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Nhà nước cần tăng cường đầu tư để nâng cấp các cơ sở dạy nghề của Nhà nước, đồng thời có chính sách khuyến khích xã hội hoá, phát triển các hình thức dạy nghề đa dạng và khuyến khích thu hút những người được đào tạo về làm việc ở nông thôn, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa.
2. Một số biện pháp quan trọng nhằm phát triển các ngành công nghiệp
- Thứ nhất: Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng Chiến lược phát triển công nghiệp đến năm 2020. Chiến lược này phải giải quyết thoả đáng các vấn đề lớn như phương pháp luận và công cụ để xây dựng chiến lược; tiêu chí cụ thể để xây dựng chiến lược; xác định vị trí nền công nghiệp Việt Nam trong khu vực và trên thế giới; tư tưởng chiến lược chủ đạo phát triển toàn bộ nền công nghiệp; phân nhóm các ngành hoặc chuỗi các ngành công nghiệp đi kèm với chính sách phát triển ở mọi khía cạnh và các vấn đề về thể chế, tổ chức thực hiện, giám sát, điều chỉnh trong từng bước đi. Trong đó, cần xác định tư tưởng chiến lược mang tính chủ đạo là: Ưu tiên phát triển các ngành mũi nhọn và các ngành hướng mạnh về xuất khẩu dựa trên năng lực cạnh tranh; đẩy nhanh tốc độ hiện đại hoá, đổi mới công nghệ; đẩy mạnh CNH, HĐH nông thôn; và tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển công nghiệp, đặc biệt khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Thứ hai: Cải thiện vai trò của Nhà nước trong việc chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, chính sách phát triển công nghiệp hướng tới việc huy động hữu hiệu các nguồn lực và khai thác tốt các tiềm năng của đất nước. Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện các tư tưởng chiến lược chủ đạo phát triển công nghiệp thông qua việc tạo môi trường thích hợp và các chính sách ưu tiên, khuyến khích, cả đối với các ngành và đối với các doanh nghiệp. Đầu tư của Nhà nước cho phát triển công nghiệp đóng vai trò rất quan trọng, giải pháp cần quan tâm là nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước, và có tính toán kỹ lưỡng đến hiệu quả trước khi đưa ra các quyết định đầu tư mới.
- Thứ ba: Các biện pháp phát triển các ngành công nghiệp cần chú trọng phát huy lợi thế so sánh và dựa trên năng lực cạnh tranh của các ngành trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp phải được đánh giá trên cơ sở khoa học, so sánh với các nước trong khu vực và có dự báo xu hướng trong tương lai. Đối với những ngành có năng lực cạnh tranh cao, Nhà nước có thể tăng cường đầu tư và khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với những ngành có năng lực cạnh tranh có điều kiện, Nhà nước có các chính sách trợ giúp có điều kiện và có thời hạn để nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời khuyến khích khu vực tư nhân và nước ngoài đầu tư vào những ngành này. Đối với những ngành có năng lực cạnh tranh thấp, cần tích cực điều chỉnh cơ cấu đầu tư, một mặt có thể hạn chế đầu tư để tránh gây lãng phí, kém hiệu quả, mặt khác có thể khuyến khích đầu tư thích hợp để nâng cao năng lực cạnh tranh tuỳ theo đặc trưng cụ thể của từng ngành.
- Thứ tư: Các biện pháp thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp công nghiệp cần chú trọng đến việc huy động nguồn lực tiềm tàng của tất cả các loại hình doanh nghiệp. Cụ thể là:
+ Đối với doanh nghiệp nhà nước: Cần đẩy mạnh tái cơ cấu và nâng cao hiệu quả của khu vực doanh nghiệp này thông qua các biện pháp như cổ phần hoá, công ty hoá, giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê, chuyển đổi hoạt động sang phương thức công ty mẹ - công ty con, hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh, v.v.; cần giảm thiểu độc quyền của doanh nghiệp nhà nước, mở cửa các lĩnh vực và thị trường cho sự tham gia của các doanh nghiệp ngoài nhà nước.
+ Đối với doanh nghiệp tư nhân: Bảo đảm các doanh nghiệp này tham gia ngày càng sâu rộng vào đầu tư phát triển các ngành mà pháp luật không cấm, không giới hạn về quy mô phát triển, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác. Khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa, thích hợp với những ngành sử dụng nhiều lao động, sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân đa dạng và luôn thay đổi của thị trường, đồng thời có thể dễ dàng đổi mới công nghệ.
+ Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Ngoài việc tạo môi trường thuận lợi và bình đẳng cho hoạt động của các doanh nghiệp này, trong chiến lược xúc tiến đầu tư những năm tới, cần hướng đến những đối tác nước ngoài có tiềm lực mạnh về nguồn tài chính và khoa học - công nghệ. Khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những ngành công nghiệp xuất khẩu, những ngành phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, và những ngành có hàm lượng khoa học - công nghệ cao. Đồng thời với việc thực hiện các biện pháp phát triển doanh nghiệp, cần tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích sự liên doanh, liên kết giữa các loại hình doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế, tạo dễ dàng cho sự tích tụ vốn để hình thành những doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn. Đặc biệt khuyến khích sự liên kết giữa doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo nên mạng lưới các doanh nghiệp vệ tinh năng động, linh hoạt, giảm thiểu chi phí, nâng cao được sức cạnh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cng nghi7879p ho hi7879n 2737841i ho trong th7901i k quamp.doc