Đề án Công nghiệp hóa ở các nước ASEAN và khả năng vận dụng tại Việt Nam

Sau khi miền nam được hoàn toàn giải phóng (năm 1975), mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung ở miền Bắc được áp dụng trên phạm vi cả nước. Mặc dù nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong xây dựng và phát triển kinh tế nhưng tăng trưởng kinh tế rất chậm, thậm chí có xu hướng giảm sút và bắt đầu rơi vào khủng hoảng. Khi mà nguồn viện trợ từ nước ngoài không còn nữa. Mĩ lại bao vây cấm vận kinh tế. Đảng ta tiến hành thử nghiệm và đổi mới tư duy kinh tế. Vậy muốn cải thiện tình hình, muốn xây dựng cuộc sống “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” thì tất phải đi theo con đường có tính quy luật chung là công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3446 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Công nghiệp hóa ở các nước ASEAN và khả năng vận dụng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là phương thức được áp dụng phổ biến ở các nước kém phát triển để rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển. Tính phổ biến của công nghiệp hóa, hiện đại hóa thể hiện ở nhiều khía cạnh: Bản thân công nghiệp hóa, hiện đại hóa là hiện tượng có tính phổ biến, nghĩa là để từ kém phát triển trở thành phát triển, từ lạc hậu trở thành tiên tiến, hiện đại, các nước đều phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặc dù nội dung, cách thức, bước đi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa có tính đặc thù, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước và bối cảnh quốc tế từng thời kỳ, nhưng những nội dung cơ bản nói lên thực chất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại có những nét chung. Đó là ở mọi quốc gia, mọi thời kỳ, công nghiệp hóa, hiện đại hóa bao giờ cũng là quá trình trang bị kỹ thuật hiện đại cho các ngành kinh tế. Tuy rằng mỗi nước có mục tiêu riêng của mình, do bản chất chính trị, kinh tế - xã hội quy định, song vẫn có những nét tương đồng. Đó là, đều xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước, tạo năng suất lao động xã hội cao, bảo đảm nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. 3) Quan điểm về công nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân: a) Bảo đảm hiệu quả kinh tế xã hội. Quá trình công nghiệp hóa phải tạo nên những chuyển biến căn bản và toàn diện đời sống kinh tế xã hội, trong đó sự chuyển biến có hiệu quả về kinh tế, kĩ thuật là cơ sở vật chất cho những chuyển biến về xã hội. Suy đến cùng mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa ở nước ta là thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh, bình đẳng, dân chủ, có kỉ cương, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, kết hợp lợi ích mỗi người với lợi ích chung của cả dân tộc. Về mặt xã hội, quá trình công nghiệp hóa phải đạt được những nội dung cơ bản sau: - Bảo đảm sự ổn định và củng cố chế độ chính trị - xã hội trên cơ sở đổi mới từng bước vững chắc. - Cải thiện một cách căn bản đời sống vật chất và tinh thần của người dân về ăn ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất, nâng cao dân chí cùng với lối sống văn minh. - Bảo đảm quyền lợi cho mọi người dân, quyền bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội. Về mặt kinh tế - kĩ thuật, cần đạt được những yêu cầu như: - Khai thác có hiệu quả các lợi thế và các nguồn lực của đất nước, liên kết với nước ngoài trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. - Phát triển các ngành kinh tế quốc dân với tốc độ nhanh, ổn định và vững chắc. - Thay thế cơ bản các kĩ thuật và công nghệ truyền thống bằng kĩ thuật, công nghệ tiên tiến. Áp dụng phổ biến phương thức công nghiệp trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của đất nước. - Bảo đảm sự cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực. Không ngừng tăng năng suất lao động, tăng tổng sản phẩm xã hội và tăng thu nhập quốc dân. b) Nâng cao trình độ khoa học - công nghệ Trong điều kiện hiện nay, thực hiện công nghiệp hóa cũng đồng thời có nghĩa là thực hiện cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, tạo nên sự chuyển biến về chất của lực lượng sản xuất. Việc nâng cao trình độ khoa học – công nghệ phải đảm bảo các ngành kinh tế quốc dân sử dụng được máy móc với trình độ hiện đại khác nhau, phương pháp công nghệ từng bước được thay thế lao động thủ công. Cần kết hợp nhiều trình độ khác nhau, tranh thủ công nghệ tiên tiến, kết hợp đầu tư theo chiều sâu với đầu tư theo chiều rộng. c) Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm này chi phối việc xác định nội dung và phương thức thực hiện công nghiệp hóa ở nước ta. Trên cơ sở đổi mới nền kinh tế, đảng ta chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó mọi người đều được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp. Các doanh nghiệp không phân biệt quan hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật. d) Kết hợp giữa các mô hình “hướng ngoại”; “hướng nội”. Quá trình công nghiệp hóa cũng đồng thời là quá trình phát triển kinh tế hàng hóa. Xác định thị trường là điều không thể thiếu để phát triển sản xuất hàng hóa. Mô hình “hướng ngoại” là tập trung đầu tư trọng điểm vào những ngành hàng, lĩnh vực có khả năng xuất khẩu. Còn “hướng nội” là phát huy nội lực trong nước sản xuất những hàng hóa nhằm thay thế nhập khẩu. Việc tìm kiếm thị trường trong nước và ngoài nước phải có sự kết hợp hài hòa với nhau. Song, trong sự kết hợp ấy hiện nay chúng ta cần ưu tiên hơn vào chiến lược hướng ngoại là vì: - Hướng ngoại là động lực và điều kiện phát huy lợi thế so sánh của đất nước trên tinh thần bảo đảm hiệu quả của kinh tế đối ngoại và phát triển trong thế chủ động. - Hướng ngoại là cơ sở tạo nên nguồn ngoại tệ để giải quyết các vấn đề trong nước trong điều kiện trao đổi bình đẳng: đôi bên cùng có lợi. - Đòi hỏi khắt khe của thị trường nước ngoài, tạo động lực để nâng cao trình độ kỹ thuật, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa. Nhưng cũng không thể không quan tâm đến chiến lược hướng nội vì: - Thị trường trong nước có quy mô lớn. Nhiều loại hàng hóa cung còn nhỏ hơn cầu. Bỏ qua thị trường này là một sai lầm khi chen chân vào thị trường thế giới hiện nay rất khó khăn. Hơn nữa với lợi thế “sân nhà” lẽ nào chúng ta chịu để thị trường nội địa bị chiếm lĩnh! - Bảo đảm khai thác mọi nguồn lực vào phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội bức bách (việc làm, trật tự xã hội...); - Tạo điều kiện nhất định cho thực hiện hướng ngoại và góp phần giải tỏa tình trạng căng thẳng thiếu ngoại tệ. Việc vận dụng quan điểm này phải được cụ thể hóa trong các chiến lược phát triển các ngành kinh tế. Công nghiệp hóa ở các nước ASEAN: Các bước tiến hành công nghiệp hóa. Một bước đi quan trọng của quá trình công nghiệp hóa ở các nước ASEAN là rất linh hoạt trong việc chuyển hướng công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, sang công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu đồng thời quan tâm tới phát triển công nghiệp vừa và nhỏ. Điều nổi bật trong chiến lược này là kết hợp xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp truyền thống, sản phẩm sử dụng nhiều lao động với sản phẩm có hàm lượng kĩ thuật cao. Các nước ASEAN có chính sách tích cực thâm nhập thị trường nước ngoài. Có chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Việc thu hút vào đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ đã giúp cho các nước ASEAN đổi mới được công nghệ, hiện đại hóa và có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Trong quá trình công nghiệp hóa ASEAN đã chú trọng tới việc giáo dục văn hóa truyền thống và giáo dục hướng nghiệp cho người lao động, đồng thời tăng cường sự điều tiết của nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa. Vai trò nhà nước. Các nước ASEAN đã xây dựng và áp dụng một loạt các chính sách quan trọng. Thứ nhất, là có định hướng chiến lược cho phát triển công nghiệp. Điểm nổi bật là chuyển hướng chiến lược từ công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu sang công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Thứ hai, là các chính sách can thiệp vào ngoại thương bảo hộ ngành chế tạo nội địa như chính sách đền bù thông qua thuế, khuyến khích xuất khẩu và điều tiết ngoại thương thông qua các quy định về thủ tục xuất khẩu, đơn giản hóa thủ tục cấp giấy phép đầu tư nhằm khuyến khích đầu tư. Thứ ba, nhà nước can thiệp vào thị trường lao động thông qua quy định mức lương tối thiểu, can thiệp vào thị trường vốn thông qua hoạt động của các ngân hàng nhà nước và sự kiểm soát của ngân hàng tư nhân. Những quy định về giá cả với hàng hóa thiết yếu để đảm bảo sự công bằng và chống độc quyền về giá cả. Thứ tư, nhà nước có chính sách thu hút vốn đầu tư kể cả đầu tư ra nước ngoài và huy động vốn đầu tư từ trong nước do vậy khuyến khích dân cư tiết kiệm để tăng đầu tư (ở Việt Nam thì nhà nước tích cực phát hành trái phiếu chính phủ). Thứ năm, nhà nước có chính sách cân bằng lại khu vực tư nhân và khu vực công cộng, đặc biệt chú trọng đẩy mạnh tư nhân hóa xí nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động của chúng. (Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đang diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam). Xây dựng thị trường phục vụ công nghiệp hóa. Mọi quá trình sản xuất phải bắt đầu từ xem xét tổng cầu chứ không phải tổng cung. Tức là cần tìm hiểu người ta cần cái gì và cần bao nhiêu để sản xuất chứ không phải là mình sản xuất được bao nhiêu. Nói cách khác, để công nghiệp hóa thành công phải tạo ra được một thị trường rộng lớn, khuyến khích tiêu dùng trong nước. Nhưng với các nước đang phát triển, nếu chỉ tập chung vào thị trường nội địa sẽ dẫn tới thất bại. Do thu nhập thực tế thấp, năng suất lao động thấp nên thị trường nội địa là không đủ. Cần phải mở rộng buôn bán hợp tác quốc tế. Không phải chỉ quan hệ giữa các nước nghèo với nhau mà nên hợp tác buôn bán với các nước phát triển thì lợi ích đem lại sẽ lớn hơn rất nhiều. Có một điều chắc chắn rằng: thị trường trong nước là có hạn còn thị trường quốc tế là vô hạn. Vấn đề là khả năng của mỗi nước đến đâu? Khai thác lợi thế so sánh Các nước đang phát triển có những lợi thế nổi trội so với các nước phát triển, đó là nhân công dồi dào, giá rẻ, tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhiều loại có giá trị kinh tế cao... Thị trường nội địa của các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa không đủ khả năng và trình độ để khai thác hiệu quả những lợi thế so sánh của đất nước. Vì vậy việc hướng ra thị trường nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu là rất cần thiết. Việc khai thác lợi thế đẩy mạnh xuất khẩu sẽ giúp các nước kém phát triển tránh được tình trạng nhập siêu từ đó: hợp lí hóa cơ cấu ngành nghề trong nước đảm bảo phát triển bền vững. IV) Thực trạng của Việt Nam. Sau khi miền nam được hoàn toàn giải phóng (năm 1975), mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung ở miền Bắc được áp dụng trên phạm vi cả nước. Mặc dù nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong xây dựng và phát triển kinh tế nhưng tăng trưởng kinh tế rất chậm, thậm chí có xu hướng giảm sút và bắt đầu rơi vào khủng hoảng. Khi mà nguồn viện trợ từ nước ngoài không còn nữa. Mĩ lại bao vây cấm vận kinh tế. Đảng ta tiến hành thử nghiệm và đổi mới tư duy kinh tế. Vậy muốn cải thiện tình hình, muốn xây dựng cuộc sống “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” thì tất phải đi theo con đường có tính quy luật chung là công nghiệp hóa và hiện đại hóa. 1)Đặc điểm công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta. Từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch hóa phi thị trường chuyển sang phát triển kinh tế thị trường là sự chuyển đổi hợp quy luật. Bước chuyển đổi này gắn liền với sự đổi mới về tư duy kinh tế, thể chế kinh tế. Sự phát triển kinh tế thị trường dựa trên cơ sở phát triển kinh tế nhiều thành phần và mở cửa, hội nhập với thế giới đã đưa đến những thay đổi sâu rộng về kinh tế - xã hội: Thành tựu khoa học công nghệ hiện đại đã bắt đầu được vận dụng ở nhiều doanh nghiệp trong nước và liên doanh với nước ngoài; cuộc cách mạng thông tin đang triển khai khá mạnh mẽ; đội ngũ “lao động áo trắng” ngày càng tăng; Nhiều hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại được xây dựng... Ở nước ta, định hướng xã hội chủ nghĩa là đặc điểm chính trị chủ yếu nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và quan điểm “đổi mới kinh tế đi đôi với đổi mới chính trị” của đảng trở thành quan điểm xuyên suốt của sự vận động kinh tế - xã hội. Nó trở thành một đặc điểm của công nghiệp hóa. Không ngừng đổi mới tổ chức và cơ chế nhằm nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý là một nhu cầu kinh tế chính trị ngày càng bức thiết, vì ít nhất có hai vấn đề bức xúc cần giải quyết là: Mức độ trầm trọng và khó sử lý của nạn tham nhũng là một nguy cơ lớn bên trong. Hậu quả nặng nề thấy trước mắt của nạn tham nhũng là nó bào mòn sự tích lũy vốn ban đầu cho công nghiệp hóa và nợ nước ngoài ngày càng tăng, trong khi tình trạng phân hóa giàu nghèo có chiều hướng mở rộng. Vấn đề thứ hai là; sự vận động ngày càng nhanh của khoa học công nghệ, của kinh tế thị trường và quan hệ quốc tế đặt ra yêu cầu lãnh đạo, quản lý hoàn toàn khác trước. Càng bỏ lỡ thời cơ thì càng có ít triển vọng thành công. Làm thế nào để thực hiện tốt phương trâm “đi tắt đón đầu”, kịp thời nắm bắt những công nghệ mới nhất của nhân loại? Câu trả lời chỉ có thể tìm được khi ta làm tốt công tác quản lý và đào tạo nhân lực cho tiến trình công nghiệp hóa. Một số yêu cầu của công nghiệp hóa hiện đại hóa. Công nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân phải dựa trên cở sở áp dụng nhanh chóng và có hiệu quả tiến bộ khoa học và công nghệ vào tất cả các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Phải thúc đẩy phân công lao động xã hội theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Cần huy động nhiều nguồn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Quan trọng nhất là phải đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao vai trò của nhà nước đối với sự nghiệp công nghiệp hóa. Bối cảnh triển khai. Trải qua nhiều năm khôi phục, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, bước đầu chúng ta đã tạo ra những tiền đề cần thiết và quan trọng để tiếp tục quá trình công nghiệp hóa. Tiền đề đó không phải chỉ là đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân kĩ thuật, cơ sở vật chất trong các ngành kinh tế quốc dân, mà còn là sự ổn định chính trị - xã hội liên tục trong một thời gian dài. Đất nước ta nằm ở khu vực có sự phát triển kinh tế năng động và nhanh hơn so với nhiều khu vực khác trên thế giới. Nhưng tiềm năng về tài nguyên và lao động của đất nước vẫn chưa được khai thác và sử dụng tốt nhất. Trong khi đó cách mạng khoa học – công nghệ trên thế giới phát triển nhanh như vũ bão. Cùng với nó là xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ đã cuốn hút các quốc gia vào guồng máy kinh tế chung và ảnh hưởng lẫn nhau. Trong quá trình công nghiệp hóa nước ta cũng phải đương đầu với những khó khăn như: tình hình thế giới và trong khu vực diễn biến phức tạp, có nhiều nhân tố không ổn định trong quan hệ quốc tế; nước ta còn ở trình độ rất thấp về phát triển kinh tế, phát triển khoa học - kỹ thật, về mức sống. Chính vì vậy, trong những năm tới, sự nghiệp công nghiệp hóa ở nước ta sẽ có những thời cơ, điều kiện mới, đồng thời chúng ta cũng phải chuẩn bị đương đầu với những thách thức mới. Những thuận lợi và thời cơ lớn đó thể hiện tập trung ở những điểm sau: - Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội. Hòa bình, ổn định và hợp tác cùng phát triển đã và đang trở thành xu thế chung của hầu hết các nước trên thế giới. Trong những năm gần đây, nhiều quốc gia lớn, nhỏ đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, và do vậy, ngày càng tham gia nhiều hơn vào quá trình liên doanh, liên kết, hợp tác song phương và đa phương, khu vực và quốc tế. Đây là điều kiện thuận lợi để các dân tộc xích lại gần nhau, trao đổi học tập kinh nghiệm và giúp đỡ lẫn nhau. - Sau một thời gian đổi mới chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho bước phát triển tiếp theo. GDP tăng bình quân mỗi năm khoảng 7%. Hệ thống hạ tầng được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu đều có những bước phát triển nhất định. Công tác xóa đói, giảm nghèo trên phạm vi cả nước đạt kết quả nổi bật được dư luận thế giới đánh giá cao. Chế độ chính trị ổn định và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống của nhân dân được cải thiện một bước rõ rệt. - Nước ta có nguồn đất đai, tài nguyên thiên nhiên phong phú, đặc biệt là chúng ta có lực lượng lao động dồi dào với cơ cấu khá trẻ. Hơn nữa, chúng ta còn kế thừa được những kinh nghiệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa của các nước đi trước, cùng với kinh nghiệm đổi mới đất nước ta. Ngoài những thuận lợi chúng ta còn gặp phải những khó khăn, nguy cơ thách thức như: - Cho đến nay, nước ta vẫn còn là một trong những nước nghèo trên thế giới, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn lạc hậu. Với một xuất phát điểm thấp, chúng ta lại phải đi lên trong một môi trường cạnh tranh quyết liệt, do vậy nguy cơ “tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới” đã và đang trở thành một thách thức to lớn và gay gắt. - Những hậu quả của cơ chế quản lý cũ còn rớt lại, cùng những tiêu cực mới phát sinh trong cơ chế thị trường đã và đang là “vật cản kiên cố” trên con đường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là những cái làm tăng nguy cơ “chệch hướng xã hội chủ nghĩa” ở nước ta. - Trên thực tế, vẫn còn những thế lực sử dụng những chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”... để mưu toan thực hiện “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ những thành quả cách mạng của đảng và dân tộc ta. - Trình độ văn hóa, trình độ nhận thức về khoa học và công nghệ, về chính trị xã hội, luật pháp, về tổ chức, quản lý của đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân ta còn khá thấp so với các nước trong khu vực và còn xa mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. V) Một số kinh nghiệm (bài học) của các nước ASEAN. 1)Bài học thành công: Nguyên nhân dẫn đến thành công của quá trình công nghiệp hóa ở một số nước ASEAN rất phong phú, thể hiện ở các chủ trương chính sách đa dạng. a) Nắm chắc thời cơ và thách thức, kịp thời xác lập và điều chỉnh mô hình một cách mềm dẻo, triển khai chiến lược công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quá trình công nghiệp hóa được chia ra làm nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn mỗi giai đoạn có những bước đi khác nhau. Bắt đầu với mục tiêu thay thế hàng nhập khẩu, tiếp đến là hướng ra xuất khẩu và công nghiệp hóa hướng tới công nghệ cao. Công nghiệp hóa đi từ bước nhỏ đến lớn, từ thị trường trong nước đến thị trường thế giới, từ công nghệ có hàm lượng vốn và lao động cao đến công nghệ có hàm lượng vốn và khoa học lớn. Sự mềm dẻo linh động thể hiện trong việc nắm bắt nhanh nhạy thời cơ và điều chỉnh linh hoạt các chính sách trong từng giai đoạn. Nổi bật nhất là sự năng động trong triển khai mô hình công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu. Cơ cấu ngành nghề thay đổi liên tục và rất linh hoạt trên cơ sở nâng cao năng lực công nghệ quốc gia. Và trong các bước đi logic đó nổi lên vai trò dẫn dắt, định hướng của nhà nước trên cơ sở các nghiên cứu, dự đoán, kế hoạch, chiến lược phát triển tổng thể, hướng tới mục tiêu phát huy tối đa tiềm năng trong nước, khai thác tối đa cơ hội công nghệ, thị trường và vốn ở bên ngoài để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa. b) Tạo dựng môi trường môi trường trong nước và quốc tế thuận lợi cho công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa là một quá trình phức tạp đòi hỏi phải có môi trường thuận lợi để có thể phát huy được các tiềm năng trong nước và cơ hội ngoài nước. Công nghiệp hóa được bắt đầu bằng việc tạo dựng môi trường pháp lý và chính trị - xã hội thuận lợi. Nhằm mục đích phát huy tiềm năng của mọi doanh nghiệp, mọi thành phần, mọi cá nhân cho công cuộc công nghiệp hóa đất nước. Trong công nghiệp hóa có sự kết hợp giữa tiến bộ xây dựng kinh tế với việc giải quyết một số vấn đề xã hội: Giảm mức độ chênh lệch giàu nghèo, giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động và quan tâm đến lĩnh vực văn hóa, xã hội nhằm nâng cao đời sống tinh thần của người dân, tạo ra niềm hứng khởi lao động và cống hiến cho đất nước. c) Phát huy tối đa nội lực, khai thác có hiệu quả vốn và công nghệ bên ngoài. Công nghiệp hóa trong tình trạng nền kinh tế nghèo nàn, tích lũy trong nước là không đáng kể do vậy công nghiệp hóa vấp phải một sự khan hiếm nghiêm trọng về vốn đầu tư. Để tạo vốn chính phủ các nước này đã có những chính sách cụ thể. Đầu tư vào nông nghệp nhằm tạo tích lũy ban đầu cho công nghiệp hóa. Thực hiện chính sách khuyến khích tiết kiệm trong nước, nâng cao tỷ lệ tích lũy từ nội bộ nền kinh tế để đầu tư cho công nghiệp hóa. Hạn chế chi tiêu chính phủ; Đa dạng hóa hệ thống tài chính; Tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Để thu hút nguồn vốn nước ngoài họ đã sớm ban hành luật đầu tư nước ngoài với những điều kiện ưu đãi. Thành lập các khu chế xuất mời gọi các nhà đầu tư tới; Xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống ngân hàng, thị trường tiền tệ, chứng khoán. Bên cạnh các biện pháp thu hút vốn còn có những biện pháp phân bổ và sử dụng có có hiệu quả các nguồn vốn. Kèm theo còn có nhiều chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Với mục tiêu là xóa bỏ sư lệ thuộc nước ngoài họ tập trung phát triển một số tập đoàn kinh tế có quy mô về vốn, lao động, có trình độ công nghệ đủ sức cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường thế giới. Thu hút công nghệ được coi là nhân tố quan trọng góp phần làm lên thành công của công nghiệp hóa. d) Con người là nhân tố trung tâm của công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa trong điều kiện cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại đòi hỏi một nguồn nhân lực không những có khả năng tiếp thu, cải tiến và phát triển khoa học – công nghệ, mà còn thích ứng với điều kiện sản xuất hiện đại. Vì thế giáo dục và đào tạo được coi là một trong những yếu tố cơ bản nhất tạo nên sự thành công của công nghiệp hóa. 2)Hạn chế: Bên cạnh những thành công của quá trình công nghiệp hóa của các nước này cũng có những hạn chế nhất định. Những hạn chế này thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau. a) Chưa qua tâm thỏa đáng tới phát triển nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa. Trong thời kì đẩy mạnh xuất khẩu, nền nông nghiệp đã không được chú trọng đúng mức. Thu nhập của nông hộ giảm sút. Tình trạng di dân tự phát ra thành phố trở nên phổ biến. b) Xu hướng phát triển của doanh nghiệp và hạn chế. Dù la tập chung phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ hay loại hình doanh nghiệp lớn, mỗi loại hình doanh nghiệp, bên cạnh những thế mạnh, vẫn luôn chứa đựng những hạn chế nhất định. Điều quan trọng là chính phủ phải có chính sách, biện pháp để có thể phát huy tối đa lợi thế, đồng thời hạn chế thấp nhất những mặt tiêu cực của từng loại hình doanh nghiệp, phát triển và phối hợp hài hòa các loại hình doanh nghiệp để bổ sung cho nhau trong quá trình công nghiệp hóa. c) Tiến hành công nghiệp hóa để lại vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tài ngyên bị khai thác quá đáng. Sự ra đời của hàng loạt nhà máy xí nghiệp cũng đồng nghĩa là ngồn nước, không khí ngày càng nhiễm bẩn. Môi trường đô thị ngày càng suy thoái. Sự ô nhiễm môi trường sống và ngày càng nhiều căn bệnh liên quan đến nghề nghiệp là một vấn đề đang đặt ra cần giải quyết. VI) Khả năng vận dụng và các giải pháp cho công nghiệp hóa ở Việt Nam. 1) Quan điểm, phương hướng, giải pháp cho công nghiệp hóa ở nước ta. Thực tiễn cho thấy quá trình công nghiệp hóa ở từng nước và từng nhóm nước có những đặc điểm rất khác nhau. Việc nghiên cứu sự đa dạng, tìm ra những nét chung nhất mang tính quy lật và những nét đặc thù riêng biệt của mỗi nhóm nước, có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc lựa chọn một chiến lược công nghiệp hóa tích cực, thích hợp với điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay. Nước ta cần phải xây dựng một cơ cấu kinh tế năng động, có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi trên thị trường thế giới. Sự chuyển dịch cơ cấu đi theo một trình tự từ thấp đến cao, không nóng vội đốt cháy giai đoạn, với những bước đi thích hợp. Thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen nhau, cùng tồn tại và phát triển. Đặc biệt cần chú ý đến kinh tế nhà nước, tập trung thực hiện hai nhiệm vụ cơ bản: Một là, cung cấp kết cấu hạ tầng (giao thông, thông tin và các dịch vụ công cộng). Hai là, đảm nhận vai trò mở đường bằng việc thành lập các doanh nghiệp mũi nhọn, mà vì nhiều lí do tư nhân chưa muốn đầu tư. Một mặt, nhà nước khuyến khích mọi tổ chức cá nhân trong nước tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác, nhà nước tìm cách huy động các ngồn vốn từ bên ngoài, thu hút đầu tư nước ngoài bằng nhiều biện pháp khác nhau. Vai trò của nhà nước. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đồng thời cũng là “một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, đòi hỏi phải đầu tư rất nhiều trí tuệ, sức người, sức của. “Chỉ có huy động sức mạnh và khả năng sáng tạo to lớn của toàn dân, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của đảng, sự quản lý điều hành có hiệu lực và hiệu quả của nhà nước thì mới đảm bảo thắng lợi”. (Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương khóa VII, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1994 trang 6). Vai trò của ASEAN trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam. Kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN vào tháng 7 năm 1995, mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và ASEAN, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam hội nhập nhanh chóng vào kinh tế khu vực và thế giới. ASEAN với các chương trình liên kết kinh tế tập thể đã có những tác động quan trọng thúc đẩy nền kinh tế của mỗi nước, tạo nên động lực phát triển chung của nền kinh tế nội bộ ASEAN. Đối với Việt Nam, tác động của các chương trình hợp tác kinh tế này biểu hiện rất rõ trong những lĩnh vực: điện năng, nông nghiệp, giao thông vận tải thông tin. Tự do hóa thươ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCông nghiệp hóa ở các nước ASEAN và khả năng vận dụng tại Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan