Đề án Công nghiệp phụ trợ cho da giầy ở Việt Nam

MỤC LỤC

TÀI LIỆU THAM KHẢO. 26

LỜI MỞ ĐẦU. 1

Phần I tổng quan về ngành da giầy việt nam và quá trình hình thành công nghệ phụ trợ 3

1. Lịch sử phát triển ngành dầy dép 3

2. Công nghệ phụ trợ ở Việt Nam 4

3. Vai trß c«ng nghØÖp phô trî 9

Phần II thực trạng phát triển công nghệ phụ trợ cho giầy dép ở việt nam. 11

Phần III điều kiện và phương hướng phát triển công nghệ phụ trợ cho giầy dép 15

1.Thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO. 15

2.Phướng hướng và giai pháp phát triển công nghệ phụ trợ Việt Nam

KẾT LUẬN 25

 

 

 

doc27 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2581 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Công nghiệp phụ trợ cho da giầy ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gia, ở các nước đang phát triển, tiến trình của CNPT thường trải qua 5 giai đoạn: Sản phẩm CNPT ít, để đáp ứng nhu cầu chủ yếu phải nhập khẩu; Số lượng đã tăng lên, nhưng chất lượng không cao, chưa có khả năng cạnh tranh; Khối lượng sản phẩm CNPT ngày một tăng và đặc biệt đã xuất hiện những sản phẩm độc đáo, thoả dụng phần nào nhu cầu của các công nghiệp chính, nên lượng nhập khẩu bắt đầu giảm; Sản xuất CNPT phát triển cao hơn với nhiều nhà sản xuất nên đã xuất hiện sự cạnh tranh ngay trong nội địa, từ đó tạo ra động lực nâng cao chất lượng, hạ giá thành; Năng lực của CNPT được phát triển, bắt đầu xuất khẩu nhập khẩu sản phẩm CNPT. Thực tế khó tách bạch từng giai đoạn, vì giữa các giai đoạn đều làm tiền đề và kế thừa lẫn nhau. Và, sự ngắn dài của mỗi giai đoạn tuỳ thuộc vào sự phát triển của chính kinh tế nước đó cộng với sự hỗ trợ của các nền kinh tế phát triển. Thực trạng khiêm nhường Việt Nam hiện nay có chừng 24 ngành kinh tế - kỹ thuật cần đến CNPT, trong đó có nhiều ngành sản xuất hàng xuất khẩu. Đối chiếu với 5 phân kỳ trên đây, CNPT của ta mới ở giai đoạn 2 và 3, được biểu hiện một phần qua tỷ lệ phụ tùng nội địa sản xuất cung ứng cho công nghiệp chính, gọi tắt là “tỷ lệ nội địa hoá”. Có lẽ thành công nhất là ngành bao bì, cung cấp hầu hết bao bì bằng giấy, gỗ, nhựa… cho đóng gói sản phẩm. Ngành sản xuất phụ tùng xe máy, đáp ứng gần 80% nhu cầu của lắp ráp xe máy gồm: các chi tiết bằng nhựa hoặc kim loại, khung xe, xăm lốp, bình điện… Ngành CNPT cho ôtô còn kém phát triển, tỷ lệ nội địa hoá đạt khoảng 5-10%, chỉ cung cấp được vài sản phẩm đơn giản, giá trị thấp, như bộ dây điện trong xe, ghế ngồi, một số chi tiết bằng nhựa hoặc kim loại. Để hỗ trợ cho ngành điện - điện tử, tỷ lệ nội địa hoá được chừng 20-40% và đang tăng dần trong mấy năm gần đây do có thêm các DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (DN FDI). Ngành dệt may, da giày dù có kim ngạch xuất khẩu trong top dẫn đầu nhưng tỷ lệ nội địa hoá vẫn khiêm nhường, bởi phải nhập khẩu tới 80% vải, vải giả da, kim, chỉ cao cấp, nút áo, khuy bấm, dây khoá kéo kim loại, vật liệu dựng độn. Trong các thứ kể trên, có thứ ta sản xuất được như vải, dây khoá kéo, song ít được sử dụng cũng vì chất lượng chưa ổn. Công nghiệp nhựa được xem là dễ làm với trên 200 DN, nhưng kỹ thuật mới dừng ở hàng tiêu dùng thông thường, rất ít sản phẩm là các chi tiết đủ tiêu chuẩn về sức bền chắc, độ chính xác để lắp ráp máy móc, ôtô, điện - điện tử. Sự đầu tư dàn trải với công nghệ chậm đổi mới làm cho ngành cơ khí tuy đội quân khá đông nhưng chưa đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Ngành xử lý bề mặt cũng không hơn gì, bởi chỉ có ít dây chuyền tĩnh điện, xì, mạ hiện đại, nên chưa đảm bảo “phủ bì” những sản phẩm cao cấp… Nguyên nhân trước hết và cơ bản là nền công nghiệp của nước ta đi lên từ điểm xuất phát thấp. Từ cấp quản lý đến cơ sở, từ ý tưởng đến khâu triển khai hầu như chưa có khái niệm đầy đủ về CNPT, nên chưa quan tâm đúng mức để đầu tư phát triển. Tuy chỉ là “sản phẩm phụ trợ” nhưng nền CNPT lại đòi hỏi vốn đầu tư lớn, sử dụng công nghệ tiên tiến, nhân lực kỹ thuật cao trong khi đó hầu hết các DN Việt Nam đều là DN vừa và nhỏ, chưa đủ năng lực đáp ứng yêu cầu đó. Dung lượng về sản phẩm CNPT của thị trường Việt Nam chưa đủ lớn để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này, nên trong khi đầu tư vào sản xuất sản phẩm chính tại Việt Nam để xuất khẩu, họ thường “bao sân” việc cung ứng toàn bộ nguyên phụ liệu qua nhập khẩu, không muốn dùng chi tiết, phụ tùng, phụ liệu do DN Việt Nam sản xuất. Đồng thời tâm lý tiêu dùng thời thượng đều muốn sắm các sản phẩm mà phụ tùng của nó đều phải là hàng nhập. Khi đã hội nhập với cộng đồng kinh tế quốc tế, việc phát triển CNPT vừa mở ra thời vận lớn nhưng cũng sẽ đối mặt với thách thức không nhỏ. Việt Nam có thể thông qua thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp nhận chuyển giao công nghệ của thế giới chẳng những tạo điều kiện đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước với sự trưởng thành của các DN, đội ngũ kỹ sư, công nhân lành nghề, từ đó có thể nhanh chóng mở ra các ngành CNPT cho công nghệ nói chung và công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng. Tuy vậy nếu chúng ta không vươn mạnh, thì các sản phẩm CNPT của thế giới theo lộ trình cắt giảm thuế quan sẽ ùn ùn kéo vào tiếp tục nhấn sâu nước ta trong vòng gia công hàng hoá cho thế giới, chỉ hưởng tiền công rẻ mạt, còn chuỗi giá trị gia tăng tạo được lại tiếp tục rơi vào các nhà đầu tư nước ngoài. Và trong tình thế này ngay các cơ sở sản xuất trong nước cũng sẽ hướng tới dùng sản phẩm của CNPT nước ngoài, đồng nghĩa với việc thị trường nội địa bị lấn chiếm. Theo Viện trưởng Viện chiến lược công nghiệp Phan Đăng Tuất - một trong những tác giả bản dự thảo, cho tới nay vẫn chưa có một khái niệm cụ thể nào cho ngành công nghiệp phụ trợ ë Việt Nam. Số lượng các doanh nghiệp nội địa tăng lên khá nhanh nhưng mới chỉ dừng lại ở khâu sản xuất các chi tiết, linh kiện có kích cỡ cồng kềnh và công nghệ đơn giản. Ông Tuất chỉ ra 3 hình thức phổ biến của công nghiệp phụ trợ hiện nay. Phụ trợ "ruột" đang được một số công ty triển khai, chẳng hạn VMEP đã xây dựng được một hệ thống các nhà cung cấp gồm 17 công ty, tập trung sản xuất các linh kiện, phụ tùng mà các doanh nghiệp nội địa chưa sản xuất được hoặc với số lượng chưa đủ. Hình thức "hợp đồng" phổ biến ở công nghiệp xe máy. Đây là cam kết giữa các nhà cung ứng với các công ty lắp ráp theo từng yêu cầu và trong từng thời điểm nhất định. Trong hệ thống các nhà cung ứng cho các công ty lắp ráp tại VN, số doanh nghiệp nội địa ít và tỷ lệ giá trị thấp. Ngoài ra, các nhà sản xuất có thể bán linh kiện trên thị trường, không theo một cam kết nào đối với các nhà lắp ráp. Hình thức này chưa được phát triển ở Việt Nam vì các nhà lắp ráp ngại mua sắm sản phẩm đầu vào trôi nổi trên thị trường. Tuy nhiên công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam hiện nay chỉ đáp ứng một phần rất nhỏ nguyên phụ liệu, phần lớn vẫn phải nhập từ nước ngoài.Đây là một thiệt thòi rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung Trong nghành da giày được hình thành từ phần lợn những nguyen phụ liệu từ nước ngoài đặc biệt từ TQ. 90% trong tæng doanh thu xuất khẩu da giày 3.8 tỷ USD năm 2007 bắt nguồn từ gia công cho đối tác nước ngoài. Tình trạng gia công hàng chẳng những đã làm biến mất thương hiệu da giày Việt Nam trên thương trường quốc tế mà còn ảnh hưởng mạnh đến ngành sản xuất nguyên phụ liệu da giày nội địa. Vì vậy cần có những chính sách hợp lý để phát triển các trung tâm nguyên phụ liệu trong nước nhằm xây dựng thương hiệu trên chính thị trường nội địa mặt khác giải quyết việc làm cho lao động. 3. Vai trß c«ng nghØÖp phô trî Lâu nay, khi nói đến hạn chế trong thu hút đầu tư vào nước ta người ta thường đổ lỗi cho cơ sở hạ tầng bất cập, thủ tục hành chính rườm rà…Tuy nhiên, sau khi nhiều địa phương đã nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư nhưng sức hút đầu tư xem ra vẫn rất yếu. Đến nay, các nhà quản lý đã nhận ra mọt trong những điểm mấu chốt là do chính nội tại các doanh nghiệp trên địa bàn, nhất là các doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động phụ trợ. Công nghiệp phụ trợ (CNPT) là ngành công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phần chính. Ngành CNPT rất đa dạng bao gồm cả gia công cơ khí, chế tạo khuôn đúc, rèn, đúc, nhiệt luyện, xử lý bề mặt. Sản xuất những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm…bao gồm cả những cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế. Sản phẩm CNPT thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực hiện bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa. CNPT tạo nhiều công ăn việc làm, thu hút lao động dư thừa, rất phù hợp với điều kiện Việt Nam. CNPT đóng vai trò quan trọng trong việc tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá theo hướng mở rộng và chuyên sâu. CNPT phát triển sẽ kéo theo các công ty lắp ráp và sản xuất thành phẩm cuối cùng khác thoát khỏi cảnh phụ thuộc vào nhập khẩu. Giá nhập khẩu những sản phẩm đó có thể rẻ nhưng phí tổn chuyên chở bảo hiểm sẽ đẩy chi phí đầu vào tăng cao. Ngoài ra, còn chưa kể đến rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu. CNPT phát triển có vai trò đặc biệt trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI), nhất là FDI trong ngành sản xuất các loại máy móc. Một thực tế cho thấy, tỉ lệ chi phí về CNPT cao hơn nhiều so với chi phí lao động trong giá thành sản phẩm, nên một nước dù có ưu thế về lao động nhưng CNPT không phát triển cũng làm cho môi trường đầu tư trở nên kém hấp dẫn. Phần II thực trạng phát triển công nghệ phụ trợ cho giầy dép ở việt nam. Phát triển công nghiệp phụ trợ cho ngành da giày Việt Nam cũng không phải đơn giản mà rất cần có một cách nhìn và cách làm thấu đáo, dài hạn. Hiện tại, trong cả nước việc đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu và thuộc da đang tiến triển tốt hơn, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư mạnh cho sản xuất nguyên, phụ liệu và thuộc da. Các cơ sở sản xuất đế giày, da váng, tráng PU, keo, phụ liệu có quy mô không lớn được hình thành để phục vụ nhu cầu của các doanh nghiệp giày. Một số cơ sở tại khu thuộc da Phú Thọ Hòa ra đời. Công ty Hào Dương, Công ty PouYuen, Công ty thuộc da Samwoo, Công ty Green Tech đã đi vào sản xuất ổn định cùng với nhiều dự án đồng loạt triển khai như: nhà máy thuộc da Hào Dương tại TP.HCM, Nhà máy Thuộc da Primer Vũng Tàu… cùng với Công ty Thuộc da Samwoo, Green Tech và một số cơ sở nhỏ ở khu vực thuộc da Phú Thọ Hòa, đang góp phần cung cấp nguyên liệu da thuộc chất lượng cao để sản xuất hàng xuất khẩu cao cấp. Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất phụ liệu như đế giày, da váng có tráng PU, keo, phụ liệu… cũng giúp các DN giày tăng tỷ lệ nội địa hóa. Tuy nhiên, do giá thành sản xuất trong nước còn cao nên nhiều DN vẫn chọn con đường nhập khẩu nguyên phụ liệu. Theo giới kinh doanh da giày, 3 loại nguyên liệu chủ yếu để sản xuất da giày là chất liệu da và giả da; đế; các nguyên liệu phụ trợ như keo dán, chỉ khâu, cúc, nhãn hiệu, gót... thì đến 70-80% là nhập khẩu từ các nước châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc... Riêng đế giày, khâu nguyên phụ liệu được các doanh nghiệp Việt Nam chủ động tốt nhất, cũng chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu sản xuất của ngành nói chung. Chất liệu giả da, đặc biệt được sử dụng nhiều cho giày thể thao, mặc dù chiếm tỷ trọng xuất khẩu gần bằng 50% giá trị da giày xuất khẩu nói chung, cũng sử dụng đến 80% nguyên liệu nhập ngoại. Chỉ riêng về da, Việt Nam có sẵn nguồn nguyên liệu từ việc chăn nuôi bò, heo. Tuy nhiên tập quán chăn nuôi thiếu tập trung và chưa áp dụng triệt để những kỹ thuật chăm sóc gia súc của người chăn nuôi nhỏ khiến da nguyên liệu thu được thường không đẹp, chất lượng thấp, buộc nhà sản xuất phải tốn thêm nhiều chi phí để xử lý da thuộc. "Nếu cộng tất cả các khoản chi phí đầu tư máy móc, thiết bị kỹ thuật cũng như công sức lao động... thì giá thành da thuộc trong nước cao hơn giá da ngoại", ông Doãn nói. Do đó muốn nâng chất lượng da thuộc thì đầu tiên cần phải quy hoạch vùng nuôi gia súc lấy da và có chiến lược phát triển, đầu tư vào công nghệ thuộc và xử lý da. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp ngành da giày cho rằng, muốn làm được việc này phải có sự phối hợp của nhiều ngành, đặc biệt là công - nông nghiệp. Cũng như nhiều ngành nghề khác, ngành da giày đang phải chịu áp lực giá nguyên liệu đầu vào tăng 30-40% so với năm 2006, nhưng vẫn phải gồng mình chịu đựng chứ không thể tăng giá đầu ra được. "Thậm chí có đơn hàng chúng tôi phải giảm giá chào mới cạnh tranh nổi với đối thủ Trung Quốc", ông Nguyễn Văn Độ, chủ cơ sở giày dép da Hoàng Diệu cho biết. Các doanh nghiệp ngành da cho rằng, nếu giải quyết được vấn đề nguyên vật liệu trong nước thì khả năng cạnh tranh của giày da Việt sẽ cao hơn rất nhiều. "Nếu hoàn thành quy trình sản xuất khép kín trong nước, từ khâu nguyên phụ liệu đến thiết kế, sản xuất, kinh doanh thì đảm bảo giày Việt sẽ tự tin xuất khẩu bằng thương hiệu của mình", ông Đinh Ngọc Tuấn quả quyết. Đây cũng là kinh nghiệm mà giới kinh doanh da giày Việt Nam học được từ Trung Quốc. Nhìn xa hơn 5, 10 năm nữa, nếu vẫn chỉ gia công và nhập nguyên phụ liệu như hiện nay thì rất khó để ngành da giày khẳng định thế đứng là một ngành xuất khẩu chủ lực. "Về lâu dài nếu không có giải pháp ở tầm vĩ mô để quy hoạch lại ngành da giày thì sẽ rất khó khăn cho doanh nghiệp tồn tại", ông Lê Quang Doãn nói. Cũng theo ông này, nếu 10 năm trước Việt Nam có một nhà máy lọc dầu thì bây giờ ngành da giày được "nhờ" rất nhiều vào nguồn nguyên liệu hóa chất, dung môi xử lý, hóa dầu... cung cấp từ nhà máy này. Theo đề xuất của các doanh nghiệp giày da, trước mắt Chính phủ cần xem xét lại quy định miễn thuế nhập khẩu cho các nguyên phụ liệu tạm nhập tái xuất, vốn đã làm khó cho nguyên phụ liệu trong nước về đầu tư và cạnh tranh giá thành, vì một phần lớn nguyên phụ liệu tạm nhập đã được tuồn ra ngoài thị trường. Đó cũng là rào cản khiến nhiều nhà đầu tư nước ngoài có ý định đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu Việt Nam đã phải chuyển hướng đầu tư sang Trung Quốc. Về máy móc thiết bị: Phần lớn máy móc thiết bị phục vụ cho ngành sản xuất giày dép, thuộc da, sản xuất nguyên liệu nhân tạo đều được nhập khẩu từ Ðài Loan, Hàn Quốc, Ý, Pháp, và Trung Quốc Hiện nay một số nhà máy cơ khí trong nước và đặc biệt là tại thành phố Hồ Chí Minh đã nỗ lực sản xuất được những thiết bị giản đơn cho ngành da giày. Tuy nhiên những nhà máy này chỉ có trình độ công nghệ ở mức trung bình hoặc thấp. Thiết bị sản xuất trong nước có giá bán chỉ bằng 50-70% so với giá nhập khẩu nhưng chất lượng của chúng thiếu ổn định và tuổi thọ không cao. Tuy vậy, có thể chấp nhận được khi so sánh các mặt tác dụng qua lại với nhau. Về công nghệ kỹ thuật: Ðây là khâu yếu nhất da giày Việt Nam do tuổi đời của ngành chưa cao, thiếu kinh nghiệm. Trong khi đó nếu so với những nước trong khu vực thì họ đã có quá trình phát triển khá lâu. Việc sản xuất các loại giày đặc chủng, giày thể thao chuyên nghiệp, giày y tế yêu cầu công nghệ cao đều nằm ngoài tầm với của doanh nghiệp Việt Nam. Về lao động, sản xuất và công tác quản lý kinh doanh còn nhiều điều cần học hỏi.Hiện nay, trên cả nước chưa có một trường dạy nghề chuyên nghiệp để cung ứng cho ngành giày dù hiện nay đây là ngành có sức thu hút trên 500.000 lao động trong cả nước. Việc dạy nghề chủ yếu do các công ty tự đào tạo lấy, do vậy hầu hết là thông qua việc truyền đạt kinh nghiệm chứ chưa có bài bản. Tiếp thị và kinh doanh cũng là khâu yếu cần khắc phục Nguyên nhân chính là do các doanh nghiệp này đều có quy mô vừa và nhỏ, thiếu vốn, thiếu năng lực để có th? phát huy tối đa tiềm năng cũng như khả năng của doanh nghiệp,bên cạnh đó uy tín của doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực giày dép trên thế giới là chưa cao, không thâm nhập vào được các kênh kinh doanh, phân phối của các tập đoàn lớn và doanh nghiệp Việt Nam rất thiếu thông tin về thị trường, cả nước chưa có một đơn vị nào đảm trách việc thông tin chuyên cho ngành giày. Vì vậy việc đâù tư cho phụ trợ con khá thâp chưa được chú trọng nhiều. Phần III điều kiện và phương hướng phát triển công nghệ phụ trợ cho giầy dép 1.Thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO. Trước hết chúng ta cần chỉ ra những điểm yếu của công nghệ phu trợ cho da giầy Việt Nam.Những mặt chủ yếu la: - Kỹ năng quản lý sản xuất và kỹ thuật chưa cao, năng suất thấp, mặt hàng phổ thông, chưa đa dạng chủng loại. - Công nghiệp may Quảng Nam thực hiện ở phương thức gia công hàng xuất khẩu là chính, trinh độ khoa học công nghệ và tay nghề cũng yếu, c«ng nghệ phụ trợ cũng yếu, nguån nguyªn liÖu chÝnh và đa phần phụ liệu đều phải nhập khẩu. - Khả năng huy động vốn đầu tư thấp nên phần nào hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, trang thiết bị. - Các chi phí về đầu tư, dịch vụ, cước vận tải kém cạnh tranh so với một số tỉnh, thành trong khu vực cũng như trên cả nước. - Hoạt động tiếp thị của các doanh nghiệp còng nhiều hạn chế, thiếu c¸c hoạt động tìm kiếm khách hàng và giới thiệu khả năng của các doanh nghiệp. Phần lớn các doanh nghiệp da giày chưa xây dựng được thương hiệu của m×nh, chưa xây dựng được chiến lược dài hạn cho doanh nghiệp. - Tinh thần đoàn kết giữa các doanh nghiệp chưa cao, chưa đẩy mạnh liên doanh liên kết với những doanh nghiệp lớn trong cùng ngành hàng trên địa bàn để hình thành một tập đoàn lớn có đủ sức cạnh tranh trên trường quốc tế. Thiếu một vài doanh nghiệp là đơn vị hạt nhân để mở rộng và phát triển ngành dệt, may, da giày. - Nhiều doanh nghiệp chưa xác định được hướng đi của mình, còng tr«ng chê vµo sù b¶o trî cña nhµ n­íc khi tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. -ViÖc x©y dùng vùng nguyên, phụ liệu cho ngành chưa theo quy hoạch và chưa có sự cam kết tham gia của các nhà đầu tư. - Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, c¸n bé c«ng nh©n kü thuËt cã tay nghề cao chưa tương xứng với quy mô và tốc đô tăng trưởng. Đội ngũ công nhân kỹ thuật, thợ lành nghề cũng thiÕu chất l­îng lao động thấp, thiếu đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh năng động đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng. - Vốn tại chỗ của các địa phương chưa được huy động và sử dụng triệt để, các hoạt động sản xuất tại địa phương phần lớn trông chờ vào các nguồn vốn nhà nước theo các chuong trình dự án đầu tư và nguồn vốn vay ưu đãi về lãi xuất.Nhiều doanh nghiệp cũng khã khăn về vốn và thị trường,vốn vay tín dụng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng hạn chế . - Việc gia nhập WTO sau 148 nước, trong đó có những nước tiềm năng xuất khẩu lớn như Thái Lan, Trung Quốc… càng làm tăng sự bất lợi của Việt Nam. Việc Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO năm 2001 đã khiến Việt Nam khó khăn hơn trong việc cạnh tranh với hàng hóa Trung Quốc vốn đang tràn ngập thị trường thế giới với giá rẻ. Việt Nam và Trung Quốc vốn tương đối giống nhau về trình độ kinh tế cũng như các mặt hàng xuất khẩu. Mét trong bèn mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam giống của Trung Quốc đó là giày dép.Cả Việt Nam và Trung Quốc đều có mục tiêu là xuất sang các thị trường Nhật, ASEAN, EU, Mỹ. Là thành viên của WTO, Trung Quốc được hưởng những mức thuế ưu đãi khi xuất sang các nước này, do vậy cuộc cạnh tranh sẽ ngày càng trở nên gay gắt. Mặt khác với phần lớn nguyên phụ liệu lại nhập từ Trung Quốc như vậy thì giá cả sẽ không là điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam trong cạnh tranh. -Các rào cản thương mại, hệ thống thuế quan dần được dỡ bỏ có tác động không ít tới sức cạnh tranh của các sản phẩm trong nước, cạnh tranh sẽ càng gay gắt hơn Bên cạnh nhưng khó khăn như vậy công nghệ phụ trợ Việt Nam cũng có nhiều thuận lợi và cơ hội khi gia nhập WTO: -Với hơn 70% dân số Việt Nam lam nông nghiệp thì vấn đề nhân công đối với ngành này khá là đơn giản khi có môt chính sách hợp lý trong chuyển đổi ngành nghề.Lực lượng nhân công đông, giá nhân công sẽ thâp chi phí thâp là điều kiện tốt cho các doanh nghiệp trong cạnh tranh. - Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử. Điều đó, tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai - với sự lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta - mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này là đặc biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng. Khi đó viêc đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ sẽ càng được đẩy mạnh hơn. - Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển. Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày càng nổi trội: năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Đương nhiên kết quả đấu tranh còn tuỳ thuộc vào thế và lực của ta, vào khả năng tập hợp lực lượng và năng lực quản lý điều hành của ta. -Mặc dầu chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể chế kinh tế ở trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn. - Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển. -Được EU dành cho quy chế ưu đãi GSP, sản phẩm nhập khẩu từ Việt nam bán tại các nước EU có mức giá cạnh tranh (do thuế nhập khẩu thấp hơn các nước trong khu vực). Lợi thế này các đối tác hợp tác với Việt Nam đang hưởng lợi nhiều hơn chính các doanh nghiệp Việt Nam. Nhu cầu tiêu dùng lớn, ổn định và ngày càng gia tăng cùng với sự gia tăng giá trị của đồng EURO. Chất lượng sản phẩm giày dép được sản xuất tại Việt Nam phù hợp và đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng trong các nước EU. Các nước EU mở rộng tạo thêm nhiều cơ hội để các doanh nghiệp Da - Giày Việt Nam xuất khẩu sang EU . Với những thuận lợi trên công nghệ phụ trợ Việt Nam cần nắm bắt cơ hội để có những buớc nhảy lớn trong phát triển, cung cấp một lượng lớn nguyên phụ liệu cho da giầy Việt Nam. 2.Phướng hướng và giai pháp phát triển công nghệ phụ trợ Việt Nam a, Phương hướng phát triển Ngành công nghiệp da giày là ngành không đòi hỏi nhiều vốn đầu tư và nước ta lại có lợi thế về nguồn nhân công và thị trường cho nên cần phát triển, mở rộng thị trường, nâng cấp thương hiệu và giá trị gia tăng của sản phẩm để vừa giải quyết được việc chuyển dịch lao động vừa thu hút được ngoại tệ cho đất nước. Khuyến khích ngành từng bước nâng cao tỷ lệ sử dụng nguồn nguyên, phụ liệu trong nước, giảm nhập khẩu để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Ðể đạt mục tiêu đã đề ra, ngành may n­íc ta cần tập trung đầu tư cả chiều rộng, lẫn chiều sâu, nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm, hướng vào thị trường xuất khẩu. Mặc khác sản xuất các sản phẩm phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của nhân dân trong nước và khu vực . Xây dựng khu trung tâm nguyên vật liệu phấn đấu đến năm 2010 sẽ cung cấp khoảng 50% Nguyên phụ liệu cho da giầy. Kêu gọi đầu tư dự án nhà máy sản xuất phụ liệu ngành giày với mục tiêu dùng cho sản xuất giày da phục vụ nguồn phụ liệu cho các doanh nghiệp sản xuất giày da thị trường tiêu thụ trong nước và có xuất khẩu, với hình thức đầu tư như liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài, nguyên liệu trong nước và nhập khẩu, lao động cung cấp cho nhà máy đã qua đào tạo dạy nghề tại các trường. Ngoài ra, ngành da giày còn sử dụng một lượng khá lớn sản phẩm hoá dầu như:, hoá chất, thuốc nhuộm, nhiên liệu xăng dầu cho lò hơi, vận tải và một số công đoạn... cho đến nay, tất cả các sản phẩm lọc dầu tiêu thụ trong nước đều phải nhập khẩu. Tuy nhiên, hiện tại Nhà máy lọc dầu Dung Quất xây dựng với công suất 6,5 triệu tấn/năm và sẽ hoạt động vào năm 2010 nên sẽ là một thuận lợi cho sự phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ b, Các giải pháp thực hiện + Xây dựng kết cấu hạ tầng, quy hoạch, chiến lược phát triển: + Xây dựng kết cấu hạ tầng, đảm bảo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho việc phát triển công nghiệp phụ trợ ngành dệt, may, da giày: Ðẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật tại các KCN, CCN đã được phê duyệt quy hoạch .Ưu tiên giải quyết mặt bằng với cơ chế ưu đãi cao nhất cho các dự án khả thi đầu tư vào phát triển công nghiệp phụ trợ ngành. Điều chỉnh quy hoạch xây dựng các cụm công nghiệp, nhằm tạo thành các tổ hợp sản xuất liên hoàn nhằm đảm bảo đáp ứng nhu cầu của ngành trong giai đoạn phát triển. Xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp đến năm 2010, với mục tiêu đặt ra phát triển ngành sản xuất trên cơ sở từng bước gia tăng xuất khẩu trực tiếp, giảm dần tỷ trọng gia công như hiện nay. Xây dựng lại chiến lược sản xuất kinh doanh cho nhiều doanh nghiệp như huy

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCông nghiệp phụ trợ cho da giầy ở Việt Nam.DOC
Tài liệu liên quan