Đề án Công tác kế hoạch hoá kinh doanh trong nền kinh tế thị trường và các giải pháp nâng cao công tác kế hoạch hoá kinh doanh trong các doanh nghiệp Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 3

Chương I: Kế hoạch và công tác kế hoạch kinh doanh trong nền kinh tế thị trường 4

I. Kế hoạch hoá phát triển nền kinh tế quốc dân. 4

1. Khái niệm kế hoạch hoá và hệ thống kế hoạch hoá Việt Nam. 4

2. Chức năng của kế hoạch hoá 4

II. Công tác kế hoạch kinh doanh. 5

1. Khái niệm về công tác kế hoạch kinh doanh. 5

2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng và thực hiện KHKD 6

Khách hàng. 6

3. Lợi ích và hạn chế của hoạt động kế hoạch hoá kinh doanh 9

III. Mối quan hệ giữa kế hoạch phát triển KTXH và KHHKD 10

1 . Trong nền kinh tế tập trung 10

2 . Trong nền kinh tế thị trường. 10

 

Chương II : Thực trạng công tác kế hoạch kinh doanh trong các doanh nghiệp việt nam 11

I. Công tác kế hoạch kinh doanh trong nền kinh tế tập trung 11

1. Vai trò của công tác kế hoạch kinh doanh. 11

2. Lập và tổ chức thực hiện công tác kế hoạch kinh doanh 11

II. Kế hoạch hoá kinh doanh trong nền kinh tế thị trường 12

1. Vai trò 12

2. Công tác lập và tổ chức kế hoạch kinh doanh 13

III. Sự cần thiết và cấp bách đối với công tác kế hoạch kinh doanh 14

1. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam 14

2. Sự cần thiết của công tác kế hoạch kinh doanh 15

 

Chương III: Giải pháp đổi mới công tác kế hoạch kinh doanh ở các doanh nghiệp Việt Nam 17

I. Những nguyên nhân hạn chế của công tác kế hoạch kinh doanh 17

1. Nguyên nhân khách quan 17

2. Nguyên nhân chủ quan 17

II. Giải pháp đổi mới 18

1. Giải pháp đổi mới từ phía nhà nước 18

2. Giải pháp đổi mới từ phía doanh nghiệp 19

 

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1436 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Công tác kế hoạch hoá kinh doanh trong nền kinh tế thị trường và các giải pháp nâng cao công tác kế hoạch hoá kinh doanh trong các doanh nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các bộ phận kế hoạch, kế hoạch hoá phối hợp điều tiết các bộ phận kế hoạch một cách logic để đạt tới mục tiêu một cách hiệu quả nhất, với tiến độ nhanh nhất. Chức năng kiểm tra giám sát. Thông qua quá trình thực hiện và hệ thống các kế hoạch bộ phận, kế hoạch hoá kiểm tra giám sát tiến độ thực hiện mục tiêu, kiểm tra thực hiện các chính sách, giải pháp hoạt động, và kiểm tra giám sát đánh giá hiệu quả của việc thực hiện kế hoạch. II. Công tác kế hoạch kinh doanh. 1. Khái niệm về công tác kế hoạch kinh doanh. Để hiểu sâu hơn về cạnh tranh, trước hết ta cần phải biết đến kinh doanh, doanh nghiệp, thị trường. Kinh doanh là việc thực hiện một hoặc một số công đoạn của một quá trình đầu tư từ sản xuất hàng hoá đến việc đến tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập nhằm thực hiện hoạt động kinh doanh: sản xuất kinh doanh, mua bán hàng hoá, dịch vụ. Để thoả mãn nhu cầu của con người và xã hội, để đạt lợi nhuận tối đa và đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá giữa các bên. Như vậy với mục đích sinh lời, tối đa hoá lợi nhuận, đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất thì doanh nghiệp phải có được sự quản lý chặt chẽ, phối hợp sản xuất, phân phối giữa các bộ phận của doanh nghiệp phải một cách có hiệu quả nhất. Mặt khác ta thấy, một công việc muốn có được kết quả có hiệu quả thì trước hết ta phải xác định trước mục tiêu, các cơ hội và thách thức sắp tới, xác định các lộ trình trong tương lai. Việc đó chỉ được hoàn thiện và chi tiết khi ta có được mọt bản kế hoạch hoàn chỉnh. Như vậy xây dựng kế hoạch là việc xác định trước các mục tiêu cũng như các giải pháp cần thiết cho doanh nghiệp và mọi bộ phận bên trong doanh nghiệp theo hướng mục tiêu đã định . 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng và thực hiện KHKD Môi trường tổng quát mà tổ chức gặp phải có thể chia thành 3 mức độ: môi trường vĩ mô, môi trường tác nghiệp và hoàn cảnh nội bộ. Môi trường vĩ mô gồm các yếu tố : Các yếu tố kinh kinh tế. Các yếu tố xã hội. Yếu tố chính phủ và chính trị . Yếu tố công nghệ . Yếu tố tự nhiên. Môi trường tác nghiệp . Gồm các yếu tố : Các đối thủ cạnh tranh. Khách hàng. Nhà cung ứng. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. Sản phẩm thay thế. Hoàn cảnh nội tại . Các yếu tố nội bộ chủ yếu bao gồm các lĩnh vực chức năng như : nguồn nhân lực, nghiên cứu và phát triển, sản xuất, tài chính kế toán, marketing. Nguồn nhân sự . Khi xem xét đến nhân sự ta thường quan tâm tới : Bộ máy lãnh đạo Trình độ tay nghề và tư cách đạo đức. Giá trị các mối quan hệ lao động so với toàn nghành và các đối thủ cạnh tranh khác . Các chính sách cán bộ có hiệu quả và hiệu năng. Khuyến khích động viên nhân viên hoàn thành nhiệm vụ. Khả năng cân đối nhân sự giữa mức độ tối đa và tối thiểu Mức độ thuyên chuyển cán bộ và bỏ việc. Trình độ chuyên môn. Kinh nghiệm. Các yếu tố sản xuất. Khi lập kế hoạch sản xuất ta chú ý tới các yếu tố: Giá cả và mức độ cung ứng nguyên vật liệu. Lợi thế do sản xuất trên quy mô lớn. Hiệu năng và phí tổn trên lợi ích của thiết bị . Các phương pháp lập kế hoạch tiến độ sản xuất, mua hàng... Nghiên cứu và phát triển công nghệ, sáng kiến cải tiến. Marketing. Ta cần chú ý tới: Khả năng thu nhập thông tin cần thiết về thị trường . Thị phần hoặc tiến định thị phần. Kênh phân phối . Cơ cấu mặt hàng và khả năng mở rộng chu kỳ sống của sản phẩm Việc quảng cáo và khuyến mãi có hiệu quả . Chiến lược giá , dự báo bán hàng . Dịch vụ sau bán hàng và hướng dẫn sử dụng cho khách hàng. Tài chính . Ta cần chú ý tới: Khả năng huy động vốn ngắn hạn, dài hạn. Tỷ lệ giữa vốn vay và vốn cổ phần. Nguồn vốn công ty, khấu hao, tỷ lệ lãi. Vốn lưu động, tính linh hoạt của cơ cấu vốn đầu tư. Các chỉ tiêu tài chính ... Hệ thống kế hoạch kế hoạch doanh nghiệp Kế hoạch marketing. Kế hoạch sản xuất. Kế hoạch nhân sự. Kế hoach tài chính. Quá trình KHH của doanh nghiệp được mô hình hoá theo sơ đồ sau: Chương trình kế hoạch dư án Khu vực hoạt động Nhiệm vụ Hệ thống các giá trị Kế hoạch chiến lược Kế hoạch tác nghiệp và ngân quỷ Đánh giá và điều chỉnh các pha của kế hoach hoá Trong hệ thống kế hoạch này, giữa chúng có mối liên hệ với nhau và được thể hiện qua sơ đồ Kế hoạch R và D Kế hoạch Sản xuất Kế hoạch tài chính Kế hoạch nhân sự Kế hoạch Marketing Qua trên ta có thể đưa ra được quy trình kế hoạch hoá kinh doanh . Phân tích chiến lược Lựa chọn chiến lược Kế hoạch- Chiến lược dài hạn Xác định nhiệm vụ mục tiêu chiến lược Kết quả Hệ thống các kế hoạch CT-DA-KH Trung hạn Kiểm tra thực hiện Thực hiện kế hoạch Kế hoạch tác nghiệp 3. Lợi ích và hạn chế của hoạt động kế hoạch hoá kinh doanh Kế hoạch hoá kinh doanh giúp cho doanh nghiệp phác thảo những ý tưởng, định hướng các tiến triển của doanh nghiệp bằng cách vạch ra những rủi ro có thể gặp phải và những cơ hội có thể xảy ra . Kế hoạch hoá giúp vạch ra các chiến lược, chương trình , dự án ... Kế hoạch hoá giúp làm nổi bật những dữ kiện quan trọng, những yếu tố then chốt của thành công phù hợp với môi trường hoạt động và thực trạng về các khả năng và nguồn lực của doanh nghiệp. Cuối cùng, lý do quan trọng nhất phải sử dụng công tác kế hoạch hoá là phần lớn các công trình nghiên cứu cho thấy, các doanh nghiệp nào vận dụng công cụ quản lý kế hoạch thì đạt được kết quả tốt hơn nhiều so với các kết quả mà họ đạt được trước đó và các kết quả của các doanh nghiệp không sử dụng công cụ kế hoạch hoá. - Mặc dù các ưu điểm trên là rất quan trọng, nhưng kế hoạch hoá vẫn có một số nhược điểm hạn chế: Trước hết, do kết quả dự báo không chính xác, chắc chắn…dẫn đến nhiều sai lầm Thứ hai, kế hoạch hoá là một quá trình dài và khó khăn. Nó đòi hỏi sự nỗ lực và phối hợp của nhiều người, những khoản chi phí lớn... Cuối cùng sự gò bó của các thủ tục hành chính sự thiếu đồng bộ của môi trường pháp lý cũng làm sai lệch các kết quả thực hiện và cản trở đến các hoạt động khác nhau của kế hoạch hoá III. Mối quan hệ giữa kế hoạch phát triển KTXH và KHHKD 1 . Trong nền kinh tế tập trung Trong nền kinh tế cũ, thì công tác kế hoạch hoá nước ta có đặc điểm chủ yếu là kế hoạch pháp lệnh từ trên xuống với mức độ tập trung cao và bao trùm cả nước, kế hoạch hoá tất cả các khu vực, lãnh thổ, lĩnh vực. Kế hoạch hoá với tính chất pháp lệnh nghiêm ngặt được đặt trong mối quan hệ cấp phát và giao nộp. Trong cơ chế này doanh nghiệp chỉ là những xí nghiệp sản xuất, có chỉ tiêu bao nhiêu thì sản xuất bấy nhiêu, tiêu thụ sản phẩm là do nhà nước quyết định theo hình thức cấp phát (lãi bao nhiêu nhà nước thu, lỗ bao nhiêu nhà nước bù). Doanh nghiệp không được “kinh doanh” do không tồn tại thị trường và khách hàng, doanh nghiệp chỉ biết giao nộp sản phẩm. Doanh nghiệp không được hoạt động hợp đồng kinh tế nên hầu như không có kế hoạch kinh doanh. Kế hoạch của Nhà nước là kế hoạch của doanh nghiệp, doanh nghiệp không có quyền tự chủ, tự do kinh doanh mà mọi cái đều do Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch xuống. Doanh nghiệp vì đất nước chứ không phải vì lợi ích của Doanh nghiệp. Trong cơ chế đó, đương nhiên kế hoạch kinh doanh kế hoạch hoá nền kinh tế bao trùm, có thể nói kế hoạch kinh doanh hầu như không tồn tại mà nó như là một phần của kế hoạch hoá. 2 . Trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô.Trong nền kinh tế thị trường, kế hoạch hoá là công cụ điều tiết chủ yếu của nông nghiệp ở tầm vĩ mô, điều tiết thị trường để phát triển nền kinh tế ổn định, tạo môi trường và hành lang thuận lợi cho các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, kế hoạch nhà nước phải là sản phẩm của kế hoạch hoá tầm vĩ mô đối với tất cả các thành phần kinh tế, nó là kế hoạch do nhà nước xác định cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Như vậy, kế hoạch hoá phát triển nền kinh tế quốc dân phải bao gồm cả sự phát triển của doanh nghiệp làm định hướng cho phát triển của doanh nghiệp, cung cấp thông tin (lao động, vốn, công nghệ, tài chính…) và phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Kế hoạch kinh doanh cuả doanh nghiệp được xây dựng dựa trên hai cơ sở: Thị trường và kế hoạch hoá nền kinh tế, kế hoạch kinh doanh do các doanh nghiệp tự xây dựng và tổ chức thực hiện nó tách khỏi kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và độc lập với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.Nếu kế hoạch nền kinh tế là căn cứ cho sự xây dựng và hoàn thiện kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp thì kế hoạch kinh doanh là kế hoạch bộ phận, giúp cho kế hoạch phát triển kinh tế xã hội nhanh chóng đạt được mục tiêuđã đề ra. Chương II : Thực trạng công tác kế hoạch kinh doanh trong các doanh nghiệp việt nam I. Công tác kế hoạch kinh doanh trong nền kinh tế tập trung 1. Vai trò của công tác kế hoạch kinh doanh. Công tác kế hoạch hoá ở nước ta được triển khai từ năm 1955, đang dần được đổi mới cùng với công cuộc đổi mới thể chế kinh tế. Trong thời kì cơ chế kế hoạch pháp lệnh, ở miền Bắc đã làm được nhiều công việc đáng kể. Trong thời gian cả nước có chiến tranh công tác kế hoạch hoá đã có những đóng góp đáng kể về tổ chức, quản lý nền kinh tế thời chiến, bảo đảm ổn định hậu phương miền Bắc trong cuộc chiến tranh hết sức ác liệt, làm tròn nghĩa vụ chi viện cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Trong nền kinh tế cũ kế hoạch hoá trực tiếp đồng nghĩa với sự cân đối toàn bộ nền kinh tế quốc dân từ A đến Z, bao gồm tất cả các mặt và đến từng chi tiết nhỏ nhặt nhất của nền kinh tế. Sự kiểm soát và điều tiết không những ở tầm vĩ mô, mà cả ở tầm kinh tế trung mô và vi mô. Điều đó có nghĩa là kế hoạch hoá trực tiếp bao trùm toàn bộ nền kinh tế và xuyên suốt đến từng bộ phận, từng tế bào của nền kinh tế bằng liên kết cứng. Do đó công tác kế hoạch kinh doanh hầu như không tồn tại, nó đã bị bao trùm bởi công tác kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, nó đã lồng ghép, thực hiện bởi công tác kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, dưới tác động của quản lý hành chính, người quản lý không muốn và không thể tự tổ chức công tác hợp đồng để hoạt động kinh tế, hoặc chỉ làm hợp đồng một cách hình thức chiếu lệ. Tóm lại trong nền kinh tế củ vai trò của công tác kế hoạch kinh doanh hầu như không được thể hiện nếu không muốn nói nó có vai trò rất ít 2. Lập và tổ chức thực hiện công tác kế hoạch kinh doanh Do yêu cầu của quy luật chiến tranh và yêu cầu của nhiệm vụ chiến lược thời kì kháng chiến, trong cơ chế cũ, các xí nghiệp bị đặt trong quan hệ cấp phát, giao nộp, tất cã đều được chỉ huy tập trung từ trên theo một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh ban hành từ trên xuống. Kế hoạch của xí nghiệp do cấp trên cân đối, sắp đặt, cho nên việc bảo đảm vật tư và tiêu thụ sản phẩm của xí nghiệp cũng do cấp trên định liệu áp đặt. Bởi vậy, xí nghiệp không có quyền và không quan tâm đến mối quan hệ hợp đồng với các bạn hàng của mình, cho nên người quản lí không muốn và không thể tự tổ chức công tác hợp đồng để hoạt động kinh doanh hoặc chỉ làm hợp đồng một cách hình thức chiếu lệ. Trong nền kinh tế cũ chúng ta thực hiện chế độ cấp phát giai nộp không đếm xỉa đến hiệu quả kinh tế. Hợp đồng kinh tế diễn ra theo điều hành bằng mệnh lệnh hành chính từ một số trung tâm nhất định. Sản xuất theo lệnh cấp phát theo lệnh, giao nộp theo lệnh. Việc thực hiện kế hoạch theo mệnh lệnh tuyệt đối đã làm cho tính tự chủ, năng động, sáng tao của mỗi cá nhân xí nghiệp không được phát huy, các nguồn lực của nền kinh tế và trong các thành phần kinh tế, trong mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh không được khơi dậy II. Kế hoạch hoá kinh doanh trong nền kinh tế thị trường 1. Vai trò Như trên đã nói công tác kế hoạch hoá ở nước ta triển khai từ năm 1955, nó đang được đổi mới cùng với công cuộc đổi mới thể chế kinh tế. Với công tác kế hoạch kinh doanh cũng vậy, cùng với sự chuyển đổi công tác kế hoạch hoá là sự trở mình của công tác kế hoạch kinh doanh. Xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh, kế hoạch kinh doanh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, chiến lược kinh doanh và kế hoạch kinh doanh sẽ giúp cho doanh nghiệp thấy rõ được mục tiêu của mình vươn tới trong dài hạn trung hạn và ngắn hạn, đồng thời nó cũng cho phép doanh nghiệp xác định được hướng đi, lộ trình của mình trong tương lai. Mặt khác, thông qua công việc dự báo dự đoán các cơ hội, nguy cơ thách thức trong tương lai kế hoạch kinh doanh tạo ra một lợi thế cạnh tranh rất lớn cho doanh nghiệp. Trong phạm vi doanh nghiệp, kế hoạch hoá là khâu đầu tiên, bộ phận quan trọng trong công tác quản lý. Hoạt động này giúp cho doanh nghiệp hoạch định các mục tiêu hoạt động, dự báo các khả năng và nguồn lực, xác định và đánh giá các phương án hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu sản xuất kinh doanh. Các phương án kế hoạch với các sản phẩm khác nhau theo thời gian là công cụ để điều hành và chỉ huy sản xuất là cơ sở xác định nhiệm vụ và mối quan hệ cộng tác giữa các bộ phận và giữa những người lao động trong quá trình thực thi các nhiệm vụ sản xuất. Chu trình quản lý doanh nghiệp được biểu hiện qua sơ đồ: Lập kế hoạch xác định các mục tiêu Kiểm tra và điều chỉnh Phối hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài Tổ chức các nguồn lực thực hiện mục tiêu Chỉ huy đơn vị hướng tới mục tiêu Trong chu trình này, lập kế hoạch là khâu đầu tiên với việc phác thảo các mục tiêu và phương án thực hiện 2. Công tác lập và tổ chức kế hoạch kinh doanh Đại hội lần thứ VI của Đảng đã xác định đường lối đổi mới toàn diện, đổi mới cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý, đánh dấu bước ngoặt cơ bản trong công tác kế hoạch hoá ở nước ta. Tư duy mới trong quản lý đã có một bước tiến đáng kể: Chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần, khuyến khích kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân và quan hệ thị trường. Kế hoạch dựa vào thông tin của thị trường để hoạch định, thông qua cơ chế thị trường mà điều chỉnh, kế hoạch kết hợp với thị trường, thị trường là đối tượng là căn cứ quan trọng của kế hoạch, kế hoạch được xây dựng và thực hiện thông qua thị trường, xuất phát từ phía cầu của thị trường. Trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp đã chủ động hoạch định chiến lược, kế hoạch cho riêng mình và đã khẳng định được vị trí nhất định trên thị trường. Nhiều doanh nghiệp ít chú trọng đến việc lập kế hoạch kinh doanh vì cho rằng quy mô hoạt động của họ vẫn còn nhỏ nên ở nước ta phần lớn những doanh có chiến lược kế hoạch thường là những doanh nghiệp lớn: Tổng công ty lắp máy Việt Nam (LILAMA). Tổng công ty xăng dầu Petrolimex. Nhiều doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xem kế hoach kinh doanh là kim chỉ nam cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh những doanh nghiệp có kế hoạch kinh doanh chi tiết, thích hợp, linh động thì ở nước ta còn tồn tại những doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, kế hoạch nhiều khi chỉ là những dự tính trong đầu, thậm chí không được viết ra giấy, kế hoạch chỉ là những mục tiêu tổng quát. ở các doanh nghiệp nhà nước nội dung một bản kế hoạch thường dành quá nhiều trong việc đưa ra những mục tiêu, chỉ tiêu. Trong khi đó phần nội dung thực hiện, giải pháp, trương chình hành động lại quá ít. Còn nhiều doanh nghiệp vẫn xem công việc lập kế hoạch chưa phải là mối quan tâm hàng đầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Kế hoạch đối với họ, đơn giản chỉ là duy trì những khách hàng truyền thống và tham gia các hội chợ quốc tế hàng năm để tìm thêm khách hàng mới, hay họ chỉ quan tâm tới thị trường. Có thể thấy, các doanh nghiệp ở Việt Nam lâu nay việc lập kế hoạch vẫn mang tính hình thức nhiều hơn. Nhiều doanh nghiệp lập kế hoạch chỉ để đó, hoạt động sản xuất kinh doanh không gắn với kế hoạch đã vạch ra, nhiều doanh nghiệp chưa có kế hoạch kinh doanh hoàn chỉnh mà chỉ mới hình thành những tư tưởng, định hướng, hoặc là đưa ra những giải pháp tình thế trong hoạt động quản lý kinh doanh của mình. III. Sự cần thiết và cấp bách đối với công tác kế hoạch kinh doanh 1. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhận định: “nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp”. Điều này thể hiện: Một là, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn thấp. Việt Nam xếp thứ 60 về cạnh tranh trong năm 2002 và dựa đoán trong 5 đến 8 năm tới Việt Nam đứng thứ 65. Thực tế cho thấy Việt Nam chưa bao giờ thoát khỏi nhóm 20 nước cuối bảng về khả năng cạnh tranh kinh tế vi mô, cũng là khả năng cạnh tranh hiện tại, năm 1997 Việt Nam là 1 trong 5 nước có sức cạnh tranh thấp nhất. Đến năm 1998 Việt Nam xếp thứ 43/53. Vị trí này từ đó đến năm 2001 liên tục giảm khi các nước hồi phục: Năm 1999 giảm 7 bậc so với năm 1998, năm 2000 giảm 3 bậc so với năm 1999 và bị loại khỏi 50 nước, năm 2001 giảm 9 bậc đứng thứ 62, năm 2002 khả quan hơn đứng thứ 60. Bảng chỉ số thành phần. Năm 1998 1999 2000 2001 2002 Chỉ số cạnh tranh vi mô 43 50 53 62 60 Chiến lược và hoạt động của Doanh Nghiệp 36 1 50 64 67 Chất lượng môi trường kinh doanh 43 49 52 62 58 Tổng số nước được xếp hạng 53 59 59 75 80 Hai là, năng lực cạnh tranh của các Doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế, thể hiện: Công nghệ vừa thiếu vừa lạc hậu; Trình độ chuyên môn và nghiệp vụ trình độ quản lý còn yếu; năng suất lao động thấp; chất lượng sản phẩm chưa hợp lý; thị trường đầu ra chưa ổn định thiếu bền vững. Nguyên nhân của sự thấp kém trong năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam thì có rất nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng quan trọng nhất là do các doanh nghiệp của nước ta khônng có được sự tổ chức quản lý kinh doanh sản xuất chặt chẽ, các kế hoạch về nghiên cứu và phát triển, kế hoạch nhân sự, marketing, sản xuất, tài chính còn yếu. Do vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng thì trước mắ, lâu dài và sâu xa là chúng ta phải cấp bách hoàn thiện và đổi mới công tác kế hoạch kinh doanh thay vì chỉ lo đổi mới công nghệ hay tái cơ cấu như hiện nay, bởi để đổi mới hay tái cơ cấu thành công phải dựa trên một kế hoạch tổng thể cân nhắc đầy đủ. 2. Sự cần thiết của công tác kế hoạch kinh doanh Cơ chế thị trường có sự quản lí vĩ mô kinh tế lớn của nhà nước mà nước ta đang hướng tới xây dựng, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề lí luận và thực tiễn cần được nghiên cứu giải quyết. Riêng trong lĩnh vực kế hoạch hoá, trong những năm chuyển đổi cơ chế vừa qua đã tồn tại các ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về vai trò và sự tồn tại khách quan của công tác này. Khi môi trường và điều kiện hoạt động thay đổi thì cùng với các bộ phận khác của cơ chế quản lí, công tác kế hoạch hoá cũng phải được nghiên cứu đổi mới cho phù hợp. Với các bài học thực tế, tài liệu và kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển cùng với các kết quả nghiên cứu bước đầu ở nước ta cho phép khẳng định: Sự tồn tại của công tác kế hoạch trong cơ chế quản lý mới là một tất yếu khách quan, trong điều kiện mới kế hoạch hoá cần phải được tăng cường và đổi mới. ở nước ta do mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, kiến thức về thị trường mới được du nhập nên còn bỡ ngỡ, hệ thống thông tin ít ỏi, nghèo nàn, trình độ tổ chức quản lý lạc hậu, kiến thức về kế hoạch hoá, kế hoạch kinh doanh, chiến lược kinh doanh ở tầm cỡ hiện đại được tiếp cận một cách hạn chế. Mặt khác, do hậu quả của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung củ nên nhận thức về công tác kế hoạch hoá kinh doanh còn nhiều phiến diện, tiêu cực, hạn chế. Do vậy sự cần thiết đổi mới về công tác kế hoạch kinh doanh đối với các doanh nghiệp của nước ta là cần thiết và cấp bách để sẵn sàng cho quá trình hội nhập. Chương III: Giải pháp đổi mới công tác kế hoạch kinh doanh ở các doanh nghiệp Việt Nam I. Những nguyên nhân hạn chế của công tác kế hoạch kinh doanh 1. Nguyên nhân khách quan Thứ nhất, kiến thức về kinh tế thị trường và lý thuyết về kế hoạch kinh doanh chiến lược kinh doanh mới du nhập vào nước ta trong thời gian ngắn đã ảnh hưởng đến việc nghiên cứu và vận dụng chúng vào thực tiễn kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam Thứ hai, việc nghiên cứu, hướng dẫn xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch kinh doanh trong hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp chưa có được sự hỗ trợ tích cực từ phía Nhà nước và các cơ quan nghiên cứu, như về các mặt: Thông tin thị trường thế giới, trong nước, kế hoạch vĩ mô của Nhà nước… Thứ ba, nền kinh tế Việt Nam chưa hội đủ các yếu tố, các điều kiện cần thiết để các doanh nghiệp có thể xây dựng và thực hiện quản lí theo chiến lược.Việc ban hành các chính sách quản lý vĩ mô chưa ổn định và chưa đáp ứng kịp thời sự chuyển biến của nền kinh tế xã hội nhất là trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó nền kinh tế nước ta còn trong uqá trình chuyển đổi dần đến môi trường kinh doanh cũng có những thay đổi, chi phối bởi các nhân tố phi thị trường. 2. Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất: Do nhận thức lý luận và thực tiễn về vai trò của công tác kế hoạch hoá và quản lí chiến lược trong cơ chế thị trường của các doanh nghiệp chưa được nhất quán, công tác hoạch định kế hoạch còn bị động. Hơn nữa việc xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh còn đang là một công việc khá mới đối với doanh nghiệp. Thứ hai: Việc phân tích môi trường kinh doanh làm cơ sở cho việc hoạch định kế hoạch là một công việc cần thiết, nó quyết định đến chất lượng của một doanh nghiệp, nhưng việc thu thập và tổ chức xử lý thông tin về môi trường kinh doanh chưa được thực hiện một cách thường xuyên, không có hệ thống và nhanh nhạy làm cho việc đánh gía phân tích môi trường kinh doanh còn ở trạng thái tĩnh, tính dự báo thấp, không toàn diện dẫn đến căn cứ của kế hoạch thiếu tính khoa học và ảnh hưởng lớn đến quá đến quá trình xây dựng cũng như nội dung của chiến lược. Hơn nữa, Nhà nước vẫn còn duy trì sự ưu đãi đối với một số doanh nghiệp. Thứ ba: Căn cứ để xây dựng phương hướng mục tiêu của các doanh nghiệp chỉ dựa trên một số nhận định tổng quát về tình hình kinh tế thế giới và trong nước. Việc phân tích môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp và đánh giá những tác động của chúng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp chưa được chú trọng đúng mức. Nguyên nhân cuối cùng và có ý nghĩa quyết định là sự yếu kém của đội ngũ chức năng, của các nhà quản lý. II. Giải pháp đổi mới 1. Giải pháp đổi mới từ phía nhà nước Do yêu cầu của sự phát triển, nhất là khi đất nước bước vào sang giai đoạn mới đòi hỏi vừa phải tích cực hội nhập để tránh tụt hậu, vừa phải thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiên đại hoá đất nước đến năm 2010, thì nhiệm vụ đổi mới kế hoạch hoá được đặt ra với yêu cầu cao hơn, cường độ mạnh hơn và đặc biệt phải gán chặt với cải cách hành chính tăng cường hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp . - Tiếp tục xác định rõ hơn vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó là định hướng phát triển tạo lập môi trường kinh doanh , điều tiết sự phát triển bắng các chính sách thích hợp và giám sát kiểm tra việc thực hiện. Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh tế và bằng nguồn lực của khu vực kinh tế nhà nước. - Đổi mới tư duy quan niệm về nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Việc đổi mới tư duy về một nhà nước cho phép và quyết định sang một nhà nước tạo khung khổ pháp luật để mọi công dân tự do kinh doanh theo pháp luật, hổ trợ giúp đỡ và giám sát sẽ góp phần quan trọng trong việc đổi mới nội dung kế hoạch hoá, từ nguyên tắc phân bổ nguồn lực, công cụ điều hành đến những chính sách khuyến khích hỗ trợ. Chuyển sang kinh tế nhiều thành phần, vì thế nội dung kế hoạch không chỉ phép được giới hạn trong phạm vi khu vực kinh tế nhà nước mà phải mang tính tổng thể toàn nền kinh tế. - Nghiên cứu làm rõ hơn những vấn đề phương pháp luận kế hoạch hoá trong nên kinh tế thị trường theo định hươngs XHCN, làm cái khung cho kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. trong đó đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa chiến lược với quy hoạch và kế hoạch, kế hoạch dài hạn trung hạn và ngắn hạn. xác định rõ tính phụ thuộc và phù hợp của kế hoạch nền kinh tế quốc dân với kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Các nguyên tắc và hướng dẫn khi thay đổi, điều chỉnh, bổ sung đối với các kế hoạch đã xây dựng. Kế hoạch phải được thay đổi từ cách tiếp cận, xây dựng và thực hiện. Phải lấy thị trường làm căn cứ, mục tiêu dể xây dựng và thực hiện kế hoạch. Kế hoạch phải được xuất phát từ phía cầu, do cầu của thị trường mà xây dựng, thực hiện và điều chỉnh kế hoạch. - Nhà nước phải đảm bảo các điều kiện và tiền đề cho việc đổi mới công tác kế hoạch hoá: Đổi mới hệ thống thu thập, xữ lý và sữ dụng thông tin. Cần xây dựng một hệ thống thông tin quốc gia gắn bó hữu cơ với hệ thống thông tin toàn cầu , đặc biệt là các thông tin về thị trường và các tiến bộ khoa học công nghệ. Hệ thống thông tin quốc gia được gắn liền với hệ thống thông tin của doanh nghiệp thông qua các hiệp hội doanh nghiệp. Nhà nước cung cấp thông tin cho doanh nghiệp một cách nhanh chóng kịp thời và chính xác tạo đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35394.doc
Tài liệu liên quan