MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ & CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 3
I.Chính sách tiền tệ và mục tiêu đặt ra cho chính sách tiền tệ 3
1. Chính sách tiền tệ 3
2. Vai trò của Ngân hàng trung ương trong quá trình kiểm soát lượng tiền 4
3. Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ. 6
II. Công cụ của chính sách tiền tệ. 9
1. Công cụ gián tiếp. 9
2. Công cụ trực tiếp 13
PHẦN II: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG THỜI GIAN TỪ NHỮNG NĂM 90 ĐẾN NAY 16
I. Vài nét về tình hình hoạt động của NHNN Việt Nam trong thời gian qua. 16
II. Thực trạng sử dụng công cụ chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam trong những năm 90 trở lại đây. 17
1. Về lãi suất 17
3. Chính sách tái cấp vốn. 19
3. Tỷ giá 20
4. Dự trữ bắt buộc. 22
5. Nhiệp vụ thị trường mở (NVTTM) 24
PHẦN III: NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM 26
I. Kinh nghiệm sử dụng các công cụ để điều tiết kinh tế ở các nước tư bản hát triển. 26
1. Quá trình sử dụng các công cụ để điều tiết kinh tế của hê thống dự trữ liên bang Hoa Kỳ(FED) 26
2. Quá trình sử dụng những công cụ của chính sách tiền tệ của NHTW Pháp( BDF) 27
3. Quá trình sử dụng công cụ CSTT của NHTW NHật Bản( BOJ) 27
4. Quá trình sử dụng công cụ chính sách tiền tệ của NHTW Hàn Quốc( BOK) 28
5. Bài học rút ra từ quá trình điều tiết công cụ chính sách tiền tệ ở các nước tư bản phát triển. 29
II. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ CSTT ở Việt Nam. 29
KẾT LUẬN 33
DANH MỤC TÀI LIÊU THAM KHẢO 34
36 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1586 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đánh giá hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỷ 21, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g chế dư nợ của các NHTM, từ đó nó quyết định lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế vì mỗi khoản vay cấu thành dư nợ của các NHTW thì tương đương với nó là một nguồn vốn tiền gửi huy động, từ đó ảnh hưởng đến tỉ trọng vốn tín dụng so với lượng tiền cung ứng. Ngược lại khi NHTW giảm hạn mức tín dụng thì khả năng cho vay của các NHTM giảm do đó giảm khả năng tạo tiền và dẫn đến giảm lượng tiền cung ứng.
2.1.3 Ưu nhược điểm và điều kiện vận dụng công cụ hạn mức tín dụng.
Điều kiện vận dụng: Để vận dụng hạn mức có hiệu quả thì khi đưa ra hạn mức tín dụng bao giờ cũng nhỏ hơn nhu cầu vay của nền kinh tế; dẫn đến tình trạng khan hiếm tiền, khi đó một sự thay đổi hạn mức tín dụng sẽ có tác động vào vốn trong nền kinh tế nhiều hơn. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là hạn mức tín dụng nhỏ hơn nhu cầu vay bao nhiêu là hợp lý? Nếu hạn mức tín dụng là quá nhỏ so với nhu cầu vốn thì các NH dễ độc quyền tín dụng và ảnh hưởng đến lãi suất. Nhưng nếu hạn mức tín dụng lại lớn hơn so với yêu cầu thì sự thay đổi hạn mức tín dụng dường như là không có hiệu quả.
Ưu điểm: Hạn mức tín dụng là công cụ mang tính hành chính nên NHTW chủ động thay đổi qui định hạn mức theo mong muốn để đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ. Mặt khác đây là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền cung ứng nên nó tỏ ra có hiệu quả ngay tức thời. Trong trường hợp khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường tiền tệ chưa phát triển hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm so với lãi suất, hay NHTW không có khả năng khống chế và kiểm soát được sự biến động của vốn khả dụng của hệ thống NHTM thì công cụ hạn mức tín dụng là cứu cánh của NHTW trong điều tiết lượng tiền cung ứng.
Tuy nhiên hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao bởi nó thiếu linh hoạt và đôi khi ngược lại chiều hướng biến động của thị trường tín dụng do đó đẩy lãi suất lên cao hoặc làm suy giảm khả năng cạnh tranh của các NHTM.
2.2 Lãi suất.
2.2.1Khái niệm về lãi suất.
Khi sử dụng bất kỳ khoản tín dụng nào, người vay cũng phải trả thêm một phần giá trị ngoài phần vốn gốc ban đầu. Tỷ lệ % của phần tăng thêm này so với phần vốn ban đầu được gọi là lãi suất. Hàng hoá có giá cả, việc sử dụng vốn vay trong một thời gian cũng có giá cả của nó. Như vậy: “lãi suất là giá cả của quyền lực được sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó”.
Lãi suất phải được trả bởi lẽ đồng tiền ngày hôm nay có giá trị lớn hơn đồng tiền nhận được trong ngày mai. Khi người cho vay chuyển nhượng quyền sử dụng vốn cho người khác nghĩa là anh ta hi sinh đi chi phí cơ hội của việc anh ta sử dụng tiền. Có thể nói lãi suất mà người cho vay nhận được tương đương với chi phí cơ hội của việc giữ tiền của anh ta. Như vậy lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích cá nhân do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định sự lựa chọn của họ: đều cùng một lượng tiền họ có thể cất trong túi, mua sắm hoặc đầu tư hay gửi tiết kiệm. . . Xét trên phạm vi toàn xã hội thì quyết định này sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ thất nghiệp của quốc gia. Do những ảnh hưởng đó, lãi suất là một trong những biến số được quản lý và theo dõi chặt chẽ trong nền kinh tế và diễn biến của nó được đưa tin hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng.
2.2.2.Cơ chế tác động
Lãi suất là công cụ thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. Thông qua công cụ lãi suất, NHTW có thể thực hiện mục tiêu thắt chặt hoặc mở rộng tiền tệ, thực hiện mục tiêu kìm hãm và kiểm soát lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế. Khi NHTW tăng lãi suất thì nhu cầu đầu tư giảm dẫn đến cầu tín dụng giảm dẫn đến lượng tiền cung ứng giảm. Ngược lại, khi lãi suất giảm thì MS tăng lên.
2.2.3.Ưu nhược điểm
Công cụ lãi suất là một công cụ của chính sách tiền tệ tác động trực tiếp mạnh mẽ đến tổng tiền cung ứng. Tuy nhiên với việc ấn định mức lãi suất thì nó làm giảm mạnh mẽ tính linh hoạt của thị trường tiền tệ. Bởi vậy xu thế hiện nay, để khắc phục hạn chế đó các quốc gia đều hướng tới tự do hoá lãi suất.
2.3. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái với những thuộc tính đặc biệt của nó là một trong những yếu tố tác động tới hoạt động của nền kinh tế. Tuỳ theo sự thay đổi của nó mà tác động tích cực hay tiêu cực tới các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và mối quan hên kinh tế với các nước khác trên thế giới. Bởi vậy các quốc gia ngày nay luôn phải nỗ lực tìm ra cho mình chính sách tỷ giá, những biện pháp quản lý ngoại tệ tối ưu nhằm thực hiện những mục tiêu mà chính sách tiền tệ đặt ra.
2.3.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái
Về hình thức, tỷ giá hối đoái là giá đơn vị tiền tệ của một nước được biểu hiện bằng các đơn vị tiền tệ nước ngoài; là hệ số đồng tiền này sang đồng tiền khác, được xác định bằng mối quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ.
Về nội dung, tỷ giá hối đoái là phạm trù kinh tế bắt nguồn từ nhu cầu trao đổi hàng hoá, dịch vụ phát sinh trực tiếp từ tiền tệ, quan hệ tiền tệ( sự vận động của vốn, tín dụng. . .) giữa các quốc gia. Ví dụ: Tỷ giá giữa đồng đô la Mỹ so với đồng Việt nam ngày 7 / 9 / 2002 như sau:
VND / USD = 15.320 có nghĩa là 1USD đổi được 15.320 đồng Việt nam.
2.3.2. Cơ chế tác động của tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái đóng vai trò rất quan trọng, có tính chất quyết định đưa nền kinh tế đất nước hoà nhập vào quá trình phân công lao động quốc tế. Đồng thời khi thông qua tỷ giá hối đoái, người ta có thể đánh giá về sự ổn định của đồng tiền bản tệ và sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế, đặc biệt là quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong trường hợp tỷ giá hối đoái tăng tức là số lượng nội tệ đổi lấy một đơn vị ngoại tệ tăng hay đồng nội tệ mất giá.
phần II: Thực trạng sử dụng các công cụ
của chính sách tiền tệ trong thời gian từ những năm 90 đến nay
I. Vài nét về tình hình hoạt động của NHNN Việt Nam trong thời gian qua.
Theo nghị định 53 ngày 26 /3 /1988 hệ thống NH chia làm 2 cấp: Ngân hàng Nhà nước hoạt động với tư cách là NH độc quyền phát hành tiền, là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và là cơ quan quản lý ngoại hối của Nhà nước. Với chức năng như vậy NHNN Việt nam thực sự trở thành một NHTW.
Pháp lệnh NHNN 5 /1990 thực sự đánh dấu bước đổi mới căn bản hoạt động của hệ thống NH Việt nam và khẳng định lại sự đúng đắn của cải cách NH trong nghị định 53.
Trong thời gian qua, để thực hiện vai trò là một NHTW Ngân hàng Nhà nước việt nam đã không ngừng đổi mới cho phù hợp với xu thế thời đại, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN. Nhờ đó toàn bộ hệ thống tổ chức và hoạt động của NH Việt nam đã được đổi mới sâu sắc và đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ. Nhờ đổi mới toàn diện chính sách tiền tệ từ hoạch định đến chỉ đạo bằng việc sử dụng các giải pháp tình thế mạnh dạn lúc đầu đến sử dụng từng bước có hiệu quả các công cụ cuả chính sách tiền tệ lạm phát đẩy lùi và kiềm chế ở mức thấp, yêu cầu ổn định tiền tệ bước đầu được thực hiện góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cụ thể trong thời gian từ năm 90 trở lại NHNN có các hoạt động chủ yếu sau:
Về huy động vốn: Huy động qua NH được phát động mạnh mẽ, liên tục suôt thời kỳ 93 – 97, nguồn để huy động ngày càng đa dạng từ trong nước. Bên cạnh đó NHNN và một số NHTMQD cùng lần lượt khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế( IMF, ODB, WB) và các NHTM lớn trên thế giới để vay vốn huy động vốn ngày càng đóng vai trò tích cực hỗ trợ thực hiện tốt các mục tiêu của chính sách tiền tệ kể từ cuối năm 1993 khi NHNN tổ chức hình thành được thị trường nội tệ liên NH. Các NHTM, TCTD có điều kiện làm quen với cơ chế tự điều hoà vốn với nhau, nâng cao hiệu suất vốn, hạn chế mức thấp nhất nhu cầu tái cấp vốn từ NHNN. Phối hợp với bộ tài chính đến tháng 6 / 1995, NHNN chính thức tổ chức đấu giá tín phiếu kho bạc, tạo thêm công cụ huy động vốn trên thị trường. Bên cạnh đó, hoạt động phát hành trái phiếu kho bạc hay công trái Chính phủ diễn ra khá thường xuyên để bổ xung một lượng vốn lớn cho đầu tư và phát triển kinh tế.
Về cho vay vốn: Trên cơ sở nguồn vốn dồi dào, tín dụng NH đối với nền kinh tế cũng liên tục gia tăng mạnh mẽ. Đối tượng cho vay ngày càng được mở rộng. Bên cạnh hai hoạt động trên về cơ bản việc phát hành tiền cho vay bù đắp NSNN được chấm dứt từ năm 94. Kết quả là tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán( M2) hàng năm ổn định, phù hợp với các động thái tăng trưởng và lạm phát.
Việc điều hành chính sách tiền tệ luôn được đặt trong mối quan hệ khăng khít với các chính sách vĩ mô khác (chính sách tài chính, chính sách thu nhập, chính sách đầu tư. . .).
Nhìn chung lại thì để đạt được thành tựu đáng khích lệ là bởi vì NHNN bước đầu sử dụng khá hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ theo xu hướng thay thế và giảm dần các công cụ trực tiếp, cứng nhắc và ít hiệu lực để chuyển sang phát huy tính gián tiếp, linh hoạt thích hợp và đồng bộ của một số công cụ. Các công cụ được sử dụng với tư cách độc lập, vừa gắn kết, hoà trộn với nhau phổ biến là lãi suất, tỉ giá, dự trữ bắt buộc. . .Bên cạnh đó là công cụ mang tính giải pháp bổ trợ: Hạn mức tín dụng, tái cấp vốn, kết hối ngoại tệ.
II. Thực trạng sử dụng công cụ chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam trong những năm 90 trở lại đây.
1. Về lãi suất
NHNN VN đang duy trì một chính sách lãi suất được điều tiết bởi mức lãi suất cơ bản và mức lãi suất tái cấp vốn. Từ đầu thập kỷ 90 chính sách lãi suất đã dần thay đổi để từng bước thích ứng với cơ chế lãi suất thị trường đồng thời tăng cường hiệu lực của cơ chế giá trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Diễn biến cơ bản của thực trạng điều hành lãi suất ở VN có thể chia làm các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1992-1995
Trong năm 1990, 1991 thì chính sách lãi suất âm vẫn còn tồn tại từ thời bao cấp. Cho đến cuối năm 1992 thì lãi suất thực dương bắt đầu được duy trì và biến động với tỷ lệ lạm phát. Bắt đầu từ tháng 10 năm 1996 lãi suất được khống chế bởi mức lãi suất cao nhất (1,8%/tháng đối với doanh nghiệp Nhà nước và 2,1%/tháng cho kinh tế ngoài quốc doanh) và lãi suất thoả thuận (áp dụng trong trường hợp huy động vốn bằng phát hành kỳ phiếu-lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn 0,2%/tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/tháng). Cơ chế lãi suất kỳ hạn này thực sự phát huy vai trò tự nhiên vốn có của nó là đòn bẩy kinh tế, góp phần kìm chế lạm phát, duy trì tăng trưởng kinh tế và đảm bảo lợi ích cho cả người gửi, người vay và NHTM kinh doanh có lãi.
Giai đoạn từ năm 1996 đ tháng 7/2000
Thời kỳ tiếp tục lãi suất thực dương nhưng được nới lỏng hơn thời kỳ trước, bằng việc thực hiện cơ chế trần lãi suất cho vay, có áp dụng một số mức trần khác nhau cho khu vực thành thị, nông thôn hoặc các loại hình tổ chức tín dụng, lãi suất tiền gửi bắt đầu được tự do hoá cùng cơ chế tín dụng thương mại, các tổ chức tín dụng còn thực hiện cơ chế tín dụng ưu đãi thông qua chính sách lãi suất đối với các đối tượng chính sách xã hội theo chỉ đạo của chính phủ. NHNN VN tiếp tục ấn định mức lãi suất tái cấp vốn khống chế lãi suất, áp dụng chênh lệch lãi suất tiền gửi tiền vay 0,35% (cho đến 21/1/1998) trần lãi suất thay đổi liên tục theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế đặc biệt trong các năm 1998, 1999. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh giảm trong thời gian này (từ 1,1% năm 1997 xuống 0,7%/tháng từ 4/9/1999). Việc điều chỉnh lãi suất giảm, về mặt lý thuyết chi phí vay mượn sẽ giảm, khuyến khích tiêu dùng và đầu tư. Mặt khác lãi suất giảm sẽ khiến cho đồng tiền giảm giá, qua đó khuyến khích xuất khẩu thông qua việc nâng cao sức cạnh tranh về giá của hàng hoá và dịch vụ trên thị trường quốc tế. Tóm lại, việc điều chỉnh lãi suất giảm là để thực hiện mục đích: Trong 5 tháng đầu năm 2001, NHNN tiếp tục thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản ban hành từ tháng 8 năm 2000 kích cầu, thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng. Tuy nhiên việc thực hiện chính sách giảm lãi suất lại tỏ ra thiếu chủ động trong điều chỉnh lượng tiền cung ứng. Điều này được thể hiện rõ trong hai năm 1998, 1999. Khi trần lãi suất giảm liên tục nhưng giá cả và số lượng không những không tăng mà còn tiếp tục giảm. GDP năm 1998 đạt được là 5,8%, đến năm 1999 còn lại 4,8% so với năm 1998. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế năm 1999 đạt mức thấp nhất từ những năm 90 đến nay. Bên cạnh đó, chỉ số giá tiêu dùng giảm phản ánh sự giảm sút nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội cả trong đầu tư phát triển sản xuất và trong tiêu dùng.
Giai đoạn từ tháng 7/2000 đến nay
Đây là bước ngoặt trong cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do lãi suất, do cơ chế lãi suất trước đây chưa có lãi suất nào là đóng vai trò chủ đạo, định hướng cho tổ chức tín dụng ấn định mức lãi suất kinh doanh vì thế kể từ 5/8/2000 theo quyết định 241/QĐ-NHNN1 của thống đốc NHNN đã chính thức thay đổi. Nội dung cụ thể như sau:
+ Đối với cho vay VND: các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay không vượt qúa lãi suất cơ bản do NHNN công bố đúng thời kỳ cộng với biên độ cho vay ngắn hạn là 0,3% cho vay trung dài hạn là 0,5%.
+ Đối với cho vay bằng USD, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất không vượt quá lãi suất liên NH Singapore (Sibor) kỳ hạn 3 tháng đối với cho vay ngắn hạn, 6 tháng đối với cho vay trung & dài hạn tại thời điểm cho vay cộng với biên độ 1%/năm đối với vay ngắn hạn, 2,5%/năm với vay trung & dài hạn. Lãi suất cơ bản đối với cho vay VND được tính căn cứ vào lãi suất cho vay của một số tổ chức tín dụng chiếm đa số thị phần tín dụng. Còn lãi suất cho vay USD dựa vào lãi suất Sibor. Cơ chế này thể hiện lãi suất của NH VN tiến gần đến các nguyên tắc thị trường.
Từ 1/6/2001, NHNN bãi bỏ lãi suất cho vay USD tối đa bằng lãi suất Sibor cộng với biên độ cho phép. Tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay bằng USD trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và quan hệ cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước. Đây là lần đầu tiên NHNN thả nổi lãi suất, một công cụ rất nhạy cảm trong điều hành chính sách tiền tệ để từng bước tự do hoá lãi suất.
Sau 1 năm thực hiện thắng lợi cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ 1/6/2002, NHNN bãi bỏ cơ chế lãi suất cho vay theo lãi suất cơ bản & thực hiện cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với cho vay VND. Cho vay theo lãi suất thoả thuận thực chất là tự do hoá lãi suất. Như vậy là, trong công việc đổi mới hoạt động NH, tiến trình điều hành lãi suất theo cơ chế thị trường đã được NHTW chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện đối với cả cho vay ngoại tệ và nội tệ. Qua 2 tháng thực thi lãi suất cho vay thoả thuận đối với VND, thị trường tín dụng hoạt động khá tốt, khách hàng không có phản ứng gì và các tổ chức tín dụng thì nhiệt liệt hoan nghênh vì họ được chủ động hơn trong kinh doanh.
3. Chính sách tái cấp vốn.
Cùng với việc đổi mới điều hành chính sách tiền tệ, công cụ tái cấp vốn đã được từng bước đổi mới theo hướng thức hiện vai trò là công cụ cấp tín dụng ngắn hạn của NHNN và NHNN thực hiện chức năng, vai trò là người cho vay cuối cùng. Trên thực tế bên cạnh 2 hình thức tái cấp vốn chủ yếu ban đầu là cho vay thế chấp chứng từ và cho vay theo đối tượng chỉ định, NHNN thực hiện cho vay thanh toán bù trừ một hình thức tái cấp vốn ngắn hạn với các NHTM để bù đắp thiếu hụt thanh toán, bù trừ bắt đầu thực hiện từ năm 1991. Riêng hình thức vay thế chấp cũng được từng bước mở rộng. Theo Quyết định số 285/QD-NH14 ngày 10/11/1994 của thống đốc NHNN thì ban đầu chứng từ thế chấp chỉ bao gồm tín phiếu kho bạc chưa đến hạn, khế ước cho vay ngắn hạn. Đến năm 1997 để phù hợp yêu cầu thực tế NHTW bổ sung hình thức cho vay thế chấp bằng ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi của TCTD tại NHTW.
Có thể nói rằng cùng với công cụ khác của chính sách tiền tệ, công cụ tái cấp vốn đã được ngày càng hoàn thiện. Cho đến nay để phù hợp với 2 luật NH cơ chế tái cấp vốn theo quy định của luật NHNN như: cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và cho vay có đảm bảo bằng hiện vật cầm cố, các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Đặc biệt quy định về lãi suất tái cấp vốn cũng được từng bước đổi mới phù hợp với cảnh thực tiễn. Từ năm 1994 đến đầu năm 1997 lãi suất tái cấp vốn được quy định theo tỷ lệ % trên lãi suất cho vay áp dụng với dự án cho vay của TCTD (bằng từ 60% đến 100% lãi suất cho vay trên khế ước) nhưng từ cuối thang 5/1997 đến nay lãi suất tái cấp vốn được xác định mức cụ thể để phù hợp với thông lệ quốc tế. Đồng thời cung cấp tín hiệu về mục tiêu chính sách tiền tệ ( nới lỏng hoặc thắt chặt).
Điều chỉnh linh hoạt phù hợp với diễn biến cung-cầu vốn trên thị trường và phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Vừa qua, trong điều kiện chỉ số gia tiêu dùng giảm thấp, để phát tín hiệu nới lỏng chính sách tiền tệ và tạo điều kiện cho TCTD tiếp cận nguồn vốn từ NHNN thống đốc NHNN đã 2 lần giảm lãi suất tái cấp vốn từ 0,5%/tháng xuống 0,45%/tháng và sau đó xuống 0,4%/tháng. Đồng thời giảm lãi suất tái chiết khấu xuống 0,35%/tháng. Năm 2001 lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu điều chỉnh giảm từ 0,5%/tháng và 0,45%/tháng xuống 0,4%/tháng và 0,35%/tháng. Việc điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn đã khuyến khích các TCTD trong việc cho vay vốn nhiều hơn, hoạt động tích cực hơn bởi với các TCTD thì khi lãi suất tái cấp vốn giảm thì lợi nhuận tăng, mà với họ lợi nhuận là sức hút ban đầu để các TCTD hoạt động tốt hơn.
Nhìn một cách tổng quát quá trình kiểm soát và điều tiết tiền tệ thì công cụ tái cấp vốn vẫn còn hạn chế nhất định. Mặc dù cơ chế tái cấp vốn không có sự phân biệt giữa các NH khác nhau nhưng thực tế tái cấp vốn vẫn chủ yếu thực hiện với các NHTMQD, các NHTMCP ít được cấp vốn do không đủ các điều kiện tái cấp vốn. Lãi suất tái cấp vốn chưa gây tác động hiệu ứng với lãi suất thị trường và chưa phát huy tốt vai trò kích thích tăng giảm nhu cầu tiền tệ.
3. Tỷ giá
Cùng với sự ra đời và phát triển của thị trường tiền tệ liên NH, NHNN Việt nam đã thực hiện đổi mới mạnh mẽ cơ chế điều hành tỷ giá. Đánh giá một cách tổng quát thì chúng ta có thể khẳng định rằng chúng ta đã và đang áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái (TGHĐ) thả nổi có sự quản lý của Nhà nước, đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn phù hợp với hoàn cảnh của nước ta. Dù trước hay sau ngày NHNN điều chỉnh cơ chế tỷ giá (ngày 26/2/1999) thì tỷ giá giữa VNĐ và các loại ngoại tệ khác vẫn ổn định và vẫn chịu sự quản lý điều hành chủ động của NHNN, tỷ giá đã thay đổi khá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường. Để đánh giá đúng đắn hiệu quả sử dụng công cụ tỷ giá của NHNN trong thời gian qua ta sẽ điểm lại các giai đoạn tồn tại và thực thi chính sách tỷ giá ở nước ta từ năm 1990 trở lại đây:
Thời kỳ thả nổi TGHĐ 1989 – 1992
Trong thời kỳ này TGHĐ VNĐ/USD biến động mạnh theo xu hướng giá trị đồng USD liên tục tăng từ 4200 VNĐ/USD lên 12721 VNĐ/USD.
Diễn biến TGHĐ từ năm 1990 – 1992 với việc tăng giá đồng USD đã kích thích tâm lý dự trữ đô la nhằm mục đích đầu cơ ăn chênh lệch giá. Tâm lý này làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu, khi đó ngoại tệ không được sử dụng cho hoạt động xuât nhập khẩu mà bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nước. Bởi lẽ đó mọi cố gắng quản lý ngoại tệ ít đem lại hiệu quả thậm chí có khi mất hiệu lực. Giai đoạn này NHNN không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ.
Quá trình đi tới một chính sách TGHĐ tự chủ theo cơ chế thị trường(1992 – 1995)
Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả sự can thiệp của NHNN vào thị trường ngoại tệ gía VNĐ/USD dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ ở các doanh nghiệp được giải toả. Tình trạng USD giảm nhanh nên ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu và kích thích nhập khẩu quá mức nên NHMM lại phải can thiệp nhằm tăng giá đồng VND. Từ tháng 3/1993 đồng VND đã lên giá dần và duy trì xu hướng lên giá một cách ổn định.
Sự ổn định kinh tế xã hội đạt trong năm 1993 –1994 chứng tỏ tính hợp lý của các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu trong đó có chỉ tiêu TGHĐ VND / USD.
Giai đoạn 1996 – 1998
Trong giai đoạn này tỷ giá khá ổn định, phù hợp với thực tế nền kinh tế và thị trường hối đoái, là quan điểm chỉ đạo của NHTW đối với chính sách tỷ giá. Tuy nhiên TGHĐ được duy trì ổn định qua thời gian dài trong khi các điều kiện chế định của nó thay đổi tất sẽ tạo ra sức ép rất mạnh giảm giá đồng VND. Để khắc phục tình trạng này NHNN đã chủ động điều chỉnh biên độ giao dịch cho các NHTM từ (+ / - 0,5%) lên (+ / - 10%) và sau đó ấn định tỷ giá chính thức trên cơ sở tỷ giá mua- bán trên thị trường ngoại tệ liên NH, khiến cho tỷ giá phù hợp hơn với tương quan cung- cầu ngoại tệ trên thị trường và tăng khả năng điều tiết thị trường của tỷ giá do NHNN công bố. Ngày 16/2/1998 tỷ giá chính thức luôn cách xa với tỷ giá giao dịch đã điều chỉnh một bước từ 11.175 USD/ VND lên đến 11.800 USD/VND. Trên thực tế, việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN đã góp phần hạn chế ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đến Việt nam góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định tiền tệ.
Giai đoạn 1999
Ngày 25/2/1999 thống đốc NHNN đã ký ban hành 2 quyết định số 64/1999/QĐ/NHNN 7 về công bố TGHĐ của đồng VN so với các ngoại tệ & và quyết định số 65/1999/QĐ/NHNN 7 về quy định mua bán ngoại tệ của các TCTD. Thông qua hai quyết định đó, tuy chế độ tỷ giá hoàn toàn giống giai đoạn trước nhưng lại có một số điểm khác biệt; đó là biên độ được điều chỉnh giảm từ ±7% xuống ±1% và hàng ngày NHNN sẽ công bố tỷ giá liên NH của ngày giao dịch trước đó làm cơ sở cho các TCTD quy định tỷ giá mua và bán. Ngược lại vào đầu năm 1997 và trong năm 1998 tỷ giá lại tăng lên 13000 VNĐ/USD. Việc tăng tỷ giá là hợp lý trong giai đoạn này vì kể từ khi tỷ giá ổn định mức chênh lệch giữa chỉ số lạm phát của nước ta và Mĩ ngày càng tăng.
Giai đoạn từ năm 2000 đến nay.
Giai đoạn này, tỷ giá liên NH vẫn luôn tăng kịch trần nhưng biên độ chỉ có ±0,1% nên tỷ giá hối đoái thường giao động từ 10-12 đ/USD. Tuy nhiên sau 11/9/2001 tỷ giá tăng lên sau một thời gian bình ổn, tỷ giá đồng VN & USD luôn trên VNĐ/USD, cho đến ngày 16/9/2002 thì tỷ giá 15.302 VNĐ/USD.
Từ căn cứ về lý luận & thực tiễn đã nêu trên, chúng ta có thể nhận ra được những ưu và nhược điểm trong việc điều hành tỷ giá.
Về ưu điểm thì TGHĐ đã phản ánh tương đối khách quan sức mua của đồng VN & quan hệ cung cầu về ngoại tệ của nền kinh tế. NHNN đã dần nới lỏng cơ chế điều hành tỷ giá biên độ mở rộng liên tục (từ ±0,5%, ±1%, ±5%, ±10% và ±7%). Biên độ giao dịch quanh tỷ giá là một công cụ hữu hiệu trong suốt giai đoạn vừa qua, nhờ kiểm soát tỷ giá mà chúng ta đã đạt được sự ổn định tương đối của TGHĐ trong những năm qua, góp phần không nhỏ để đạt được mục tiêu ổn định và tăng trưởng cho nền kinh tế. Bên cạnh đó với cơ chế mới, việc điều chỉnh cung cầu trở nên mềm dẻo linh hoạt hơn, tạo môi trưởng đầu tư ổn định, thu hút vốn đầu tư nước ngoài phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần tăng cường sự hoà nhập của nền kinh tế nước ta vào cộng đồng kinh tế thế giới.
Về nhược điểm;thứ nhất: nhiều lúc tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên NH tăng kịch trần nhưng tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên NH ngày hôm sau mà NHNN công bố vẫn giữ ở mức cũ, điều này chứng tỏ tỷ giá liên NH mà NHNN công bố vẫn là tỷ giá theo ý muốn chủ quan của NHNN, thứ hai: việc quản lý ngoại hối chưa thực sự chặt chẽ triệt để, hiện tượng đầu cơ buôn bán trái phép ngoại tệ còn rất phổ biến, lượng ngoại tệ trôi nổi trên thị trường còn rất lớn, làm cho thị trường ngoại tệ trong nước kém sôi động, sự lưu thông kém thông suốt, việc điều chỉnh tỷ giá gặp nhiều khó khăn; thứ ba: các chỉ số kinh tế vĩ mô như lạm phát, lãi suất, thực trạng cán cân thanh toán, nợ nước ngoài chưa được chuẩn xác hoá và cập nhật kịp thời giúp cho việc nghiên cứu thay đổi tỷ giá hợp lý.
Những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến mục tiêu ổn định tiền tệ vì chế độ tỷ giá này đã tồn tại trong thời gian khá dài. Tuy nhiên hiện nay chúng ta cũng đang thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt nhưng mức độ linh hoạt chưa phù hợp với nền kinh tế chưa ổn định trông cung cầu về ngoại tệ.
4. Dự trữ bắt buộc.
Công cụ dự trữ bắt buộc được chính thức thực hiện từ 1992. Kể từ ngày đó đến nay, công cụ dự trữ bắt buộc đã không ngừng được hoàn thiện và đổi mới. Năm 1992 tiền dự trữ bắt buộc được duy tại một tài khoản riêng và tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% trên toàn bộ tiền gửi của các tổ chức tín dụng. Bởi vậy, vai trò của công cụ dự trữ bắt buộc là để đảm bảo khả năng thanh toán và kiểm soát cung ứng tiền nhưng lại hạn chế NHNN dự báo nhu cầu tăng giảm dự trữ bắt buộc của các NHTM và vốn của các NHTM không được sử dụng linh hoạt. Từ đó, năm 1995 NHNN đã điều chỉnh lại dự trữ bắt buộc cho phù hợp và để khắc phục những hạn chế trên. Nội dung đổi mới như sau:
-Thống nhất tài khoản tiền gửi thanh toán và tiền gửi dự trữ bắt buộc vào một tài khoản; từng bước mở rộng đối tượng áp dụng dự trữ bắt buộc.
-Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc là 10% và trong cơ cấu tiền gửi dự trữ bắt buộc có 70% là gửi tại NHNN
-Các tổ chức tín dụng phải thường xuyên duy trì đầy đủ tại NHNN
Với những đổi mới này thì NHNN có thể dự báo được nhu cầu dự trữ của các tổ chức tín dụng thông qua theo dõi mức dự trữ vượt. Song việc khống chế theo gày cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ ở mức độ thấp khiến cho công cụ này trở nên cứng nhắc, các tổ chức tín dụng luôn để dự trữ vượt, hạn chế khả năn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35285.doc