MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Chương I 2
Lý luận chung về thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 2
I. Lý luận chung về thương mại quốc tế 2
1. Hoạt động thương mại quốc tế và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân. 2
1.1. Khái niệm thương mại quốc tế. 2
1.2. Đặc trưng của hoạt động TMQT. 3
1.3. Vai trò của hoạt động TMQT. 3
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh TMQT 6
2.1. Ảnh hưởng của chế độ, chính sách và luật pháp quốc tế. 6
2.2. Ảnh hưởng của việc biến động thị trường trong và ngoài nước. 6
2.3. Ảnh hưởng của nền sản xuất trong và ngoài nước. 7
2.4. Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái và tỷ xuất ngoại tệ của hàng XNK. 7
2.5. Ảnh hưởng của môi trường chính trị và môi trường văn hoá xã hội. 8
II. Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài. 8
1. Khái niệm đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài. 8
1.1. Khái niệm và bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài. 8
a. Khái niệm: 8
b. Bản chất: 8
2.2. Đặc điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài. 9
a. Về kinh tế: 9
b. Về mặt pháp lý. 9
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài. 9
a. Năng lực tăng trưởng của nền kinh tế. 9
b. Các yếu tố kinh tế vĩ mô. 10
c. Các chính sách quốc tế. 11
d. Môi trường pháp lý. 11
2. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước đang 12
phát triển. 12
2.1. Tác động tích cực. 12
a. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế. 12
b. Tạo công ăn việc làm và nâng cao chất lượng lao động. 12
c. Nâng cao năng lực công nghệ. 13
d. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế 13
2.2. Tác động tiêu cực. 13
a. Về kinh tế. 13
b. Về chuyển giao công nghệ 14
c. Về cơ cấu. 14
Chương II: 15
Tìm hiểu mối quan hệ giữa TMQT và đầu tư trực tiếp nước ngoài. 15
I. Mối quan hệ giữa TMQT và đầu tư trực tiếp 15
nước ngoài. 15
II. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến xuất nhập khẩu. 16
1. Tác động của FDI tới xuất nhập khẩu của toàn ngành công nghiệp. 16
2. Tác động của FDI đến xuất khẩu của từng ngành công nghiệp. 19
Nguồn : Số liệu của MIDA, 1991 20
3. Đánh giá chung. 21
III. Tác động của xuất nhập khẩu đến đầu tư trực tiếp nước ngoài. 22
Chương III 28
Phương hướng phát triển TMQT nhằm đẩy mạnh thu hút FDI ở việt nam 28
I. Tiếp tục đổi mới hoàn thiện hệ thống chính sách, cơ chế quản lý ngoại thương sao cho vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa nhất quán theo định hướng XHCN 28
II. Tiếp tục đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, đa phương hoá thị trường và năng động tìm kiếm bạn hàng. 30
III Lựa chọn ưu tiên phát triển những ngành mũi nhọn có tác động hỗ trợ tích cực cho việc đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu chủ lực 30
Kết luận 33
Mục lục 34
37 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1828 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đánh giá mối quan hệ giữa thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c tế thường xuyên bị thâm hụt thì khả năng trả nợ sẽ thấp và hàng năm nước đó phải trích ra nhiều nguồn lực để trả nợ, do đó phần thặng dư dành cho đầu tư sẽ rất ít ỏi. Thật sự, là không có một công ty nước ngoài nào lại muốn đầu tư vào nơi ít có khả năng thu hồi vốn.
c. Các chính sách quốc tế.
Các chính sách kinh tế của nước chủ nhà có tác động rất lớn đối với việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vì các chính sách này sẽ điều chỉnh, quy định quyền lợi, nghĩa vụ của các nhà đầu tư. Một số chính sách tiêu biểu liên quan trực tiếp đến thu hút và sử dụng vồn đầu tư trực tiếp nước ngoài là:
-Chính sách thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của nhà đầu tư. Do đó, ưu đãi về thuế có tác động rất lớn đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
-Chính sách tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến huy động nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo lý thuyết nếu mức lãi suất trong nước cao thì khả năng hấp dẫn nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cao và ngược lại.
-Chính sách thương mại: Chính sách này ảnh hưởng rất lớn tới việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất là chinh sách ngoại thương. Mức thuế nhập khẩu cao, Quota xuất khẩu thấp sẽ cản trở rất mạnh tới lĩnh vực xuất nhập khẩu. Từ đó, sẽ cản trở tính hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là sản xuất hàng hoá hướng về xuất khẩu.
d. Môi trường pháp lý.
Yếu tố này có thể làm hạn chế hay cản trở hoàn toàn hoạt động của các công ty nước ngoài trên nước sở tại. Một điều tất nhiên nếu nước chủ nhà không đảm bảo về quyền sở hữu tài sản, môi trường cạnh tranh lành mạnh thì sẽ chẳng có nhà đầu tư nước ngoài nào giám vào nước họ. Dễ nhận thấy rằng, môi trường pháp lý thuận lợi an toàn hơn cho vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thì khả năng thu hút vốn càng cao.
2. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước đang
phát triển.
2.1. Tác động tích cực.
a. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nguồn bổ sung vốn quan trọng để các nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bù đắp cho sự thiếu hụt của nguồn vốn trong nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là mọt hình thức huy động vốn để hỗ trợ cho nhu cầu đầu tư của nền kinh tế, nó có ưu thế hơn hẳn so với các hình thức huy động vốn khác như việc vay vốn nước ngoài luôn đi cùng với một mức lãi suất nhất định và đôi khi trở thành gánh nặng cho nền kinh tế.
Ngoài ý nghĩa tăng trưởng vốn đầu tư nội địa, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn bổ sung đáng kể nguồn thu ngân sách của chính phủ các nước đang phát triển thông qua thuế từ các xí nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài. Đây là nguồn thu quan trọng cho vốn ngân sách và nguồn ngoại tệ để đầu tư các dự án công cộng trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá. Vốn đầu tư ở các nước đang phát triển tăng và làm tăng đầu tư, nhờ đó các nhân tố như lao động được sử dụng tăng lên, năng suất lao động tăng lên theo. Qua đó làm tăng trưởng nền kinh tế của đất nước này. Qua đây, ta thấy rõ vai trò to lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế và cả tiết kiệm của các nước đang phát triển.
b. Tạo công ăn việc làm và nâng cao chất lượng lao động.
Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng thu hút một lượng lớn lao động, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp ở các nước đang phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tạo công ăn việc làm thông qua việc cung cấp việc làm trong các công ty có vốn trực tiếp nước ngoài và nó còn tạo ra cơ hội việc làm trong các tổ chức khác của nước sở tại, khi mà các nhà đầu tư nước ngoài mua hàng hoá dịch vụ từ các nhà sản xuất trong nước, hoặc thuê họ qua các hợp đồng gia công chế biến.
Đầu tư nước ngoài còn góp phần phát triển nguồn nhân lực nâng cao kỹ năng quản lý kinh doanh cho nước sở tại. Chính các chủ đầu tư nước ngoài tổ chức mở các lớp đào tạo về quản lý, kỹ năng làm việc đã góp phần tích cực vào việc bồi dưỡng đào tạo đội ngũ lao động ở các nước sở tại. Để cán bộ và công nhân của nước sở tại có khả năng quản lý và sử dụng công nghệ tiên tiến và yêu cầu của công việc. Đó chính là đội ngũ nòng cốt trong việc học tập, tiếp thu kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, năng lực quản lý điều hành tiên tiến của nước ngoài. Mặt khác các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có yêu cầu cao về chất lượng nguồn lao động đã cố gắng nâng cao chất lượng để thích ứng với trình độ khoa học, kỹ thuật tiên tiến.
c. Nâng cao năng lực công nghệ.
Song song với việc tạo nguồn vốn bổ sung cho các nước đang phát triển đầu tư phát triển trực tiếp nước ngoài còn là một kênh quan trọng để đưa kỹ thuật mới, kỹ năng sản xuất mới vào các nước đang phát triển. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước sở tại có thể tiếp nhận được công nghệ này. Qua đó đầu tư đầu tư nước ngoài có thể thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật của nước nhận đầu tư, như góp phần tăng năng suất của các yếu tố sản xuất thay đổi cấu thành sản phẩm và xuất khẩu, thúc đẩy phát triển các nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi hỏi công nghệ cao. Qua chuyển giao công nghệ, làm trình độ công nghệ của nước sở tại ngày một cao hơn, từ đó nâng cao dần năng lực của nước sở tại.
d. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong điều kiện nền kinh tế mở các quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra động lực và điều kiện cho sự chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của các quốc gia, trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là một động lực mạnh mẽ có ý nghĩa to lớn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thông qua đó các nước đang phát triển sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tham gia vào quá trình liên kết giữa các nước đòi hỏi các nước phát triển phải tự thay đổi cơ cấu kinh tế của nước mình cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu ở các nước phát triển sẽ ngày càng tiến bộ hơn phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của thế giới.
2.2. Tác động tiêu cực.
a. Về kinh tế.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều khi làm lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài vượt qua lơị ích của nước sở tại nhận được. Vì để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước nhận đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư như: giảm thuế, miễn thuế trong một thời gian khá dài cho phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài hoặc việc trả tiền của họ cho việc thuê đất, nhà xưởng và một số dịch vụ trong nước thấp hơn so với nhà đầu tư trong nước.
Ngoài ra còn có trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài thường tính giá cao cho những nguyên vật liêụ, bán thành phẩm, máy móc thiết bị mà họ nhập vào để thực hiện đầu tư. Việc làm này đã mang lại nhiều lợi cho chủ đầu tư, chẳng hạn chốn được thuế của nước sở tại đánh vào lợi nhuận của chủ đầu tư. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng chỗ sơ hở của pháp luật và thiếu kinh nghiệm quản lý của nước sở tại để chốn thuế gian lận và vi phạm những quy định về bảo vệ môi trường sinh thái và những lợi ích khác của nước sở tại.
b. Về chuyển giao công nghệ
Là một mặt tác động lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng còn tồn tại nhiều hạn chế và tiêu cực, không chuyển giao đúng quy định ( chuyển giao còn nhỏ giọt , từng phần và thông thường là công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm với giá cao hơn giá mặt bằng quốc tế, vì rất khó tính được giá trị thực của máy móc chuyển giao đó nên hiệu quả bị thua thiệt trong thu lợi nhuận ). Từ thực tế trên, việc chuyển giao công nghệ lạc hậu đã gây ra nhiều thiệt hại cho nước nhận đầu tư.
c. Về cơ cấu.
Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều khi sản xuất và bán những hàng hoá không thích hợp cho các nước đang phát triển thậm chí đôi khi còn có hại cho sức khoẻ con người và gây ô nhiễm môi trường. Đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cho cơ cấu đầu tư theo ngành và theo lãnh thổ của nước chủ nhà bất hợp lý gây ra tình trạng đầu tư tràn lan kém hiệu quả và tài nguyên thiên nhiên bị khai thác qúa mức. Vì mục tiêu của nhà đầu tư là kiếm lợi nhuận nên họ đầu tư vào những nơi có lợi nhất do vậy khi lượng vốn nước ngoài tăng thêm thì sẽ gây ra sự mất cân đối giữa các vùng sự mất cân đối này có thể gây nên bất ổn về chính trị.
Chương II:
Tìm hiểu mối quan hệ giữa TMQT và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
I. Mối quan hệ giữa TMQT và đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
Đứng trên góc độ phân tích về mặt lý thuyết có thể thấy giữa TMQT và đầu tư trực tiếp nước ngoài có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Thật vậy, nếu xét trên bình diện một quốc gia ta có thể ví hoạt động như là khâu nhập các yếu tố đầu vào (nguyên vật liệu bán thành phẩm, máy móc thiết bị...) phục vụ cho quá trình sản xuất - ví như hoạt động đầu tư, còn hoạt động xuất khẩu được ví như hoạt động bán hàng. Do đó nếu như hoạt động xuất nhập khẩu phát triển, nghĩa là việc nhập các yếu tố đầu vào được ổn định và hoạt động bán hàng được xúc tiến tốt thì điều đó sẽ kích thích hoạt động sản xuất hay nói khác đi là hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được đẩy mạnh. Mặt khác khi hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được đẩy mạnh đồng nghĩa với việc sản xuất năng lực của nước sở tại tăng lên và hàng hoá sản xuất ra có chất lượng tốt hơn, giá thành rẻ hơn do đó sẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
Đối với các nước đang phát triển, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế nói chung và thúc đẩy xuất khẩu nói riêng. Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo điều kiện cho việc thúc đẩy xuất khẩu, biểu hiện ở các khía cạnh sau:
-Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư có hiệu quả vào các lĩnh vực thay thế nhập khẩu.
-Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào các ngành có hàm lượng vốn và có trình độ công nghệ cao.
-Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào các ngành hướng mạnh ra xuất khẩu.
II. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến xuất nhập khẩu.
Từ những năm đầu của thập kỷ 70, chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu với sự tham gia sâu rộng của đầu tư trực tiếp nước ngoài( FDI ) đã dẫn đến sự thay đổi to lớn trong cơ cấu hàng xuất nhập khẩu và tăng nhanh xuất khẩu cuả Malaixia. Có nhiều ý kiến cho rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Malaixia phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu (Y.Okamoto, 1994 và L.W.Heng, 1996 ), trong đó có sự góp phần quan trọng của FDI. Nhưng bên cạnh đó , một số ý kiến khác lại đánh giá FDI không có tác động lớn đến xuất khẩu và giữa các yếu tố nàyvới tăng trưởng kinh tế không có mối quan hệ phụ thuộc rõ ràng. (Dodado, 1993 và Ahmad, 1995).
Để kiểm tra quan điểm về vai trò của FDI đối với xuất khẩu và qua đó ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Malaixia, phần này sẽ phân tích có tính định lượng về mức độ tác động của FDI với hoạt động xuất nhập khẩu của các ngành công nghiệp từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm đã được tiến hành ở Malaixia trong những năm gần đây.
1. Tác động của FDI tới xuất nhập khẩu của toàn ngành công nghiệp.
Trong cả hai giai đoạn công nghiệp hoá thay thế hàng nhập khẩu và hướng vào xuất khẩu, FDI luôn đóng vai trò tích cực như động lực thúc đẩy kim ngạch xuất nhập khẩu và thay đổi cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu. Thời kỳ đầu của công nghiệp hoá, kim ngạch xuất khẩu mới chỉ ở mức 13.5% của GDP (1965 ) , nhưng đến năm 1994 con số đó đã đạt tới 82.9%. Đồng thời cơ cấu hàng xuất khẩu cũng có sự thay đổi lớn theo chiều hướng tỷ trọng hàng nông sản phẩm giảm dần so với tốc độ tăng nhanh từ 25.3% năm 1965 lên tới 78.2% năm 1994 của hàng công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước ( L.W.Heng và E.Devandason, 1996).
Các nghiên cứu thực nghiệm (Engle & Granger, 1987;Bahmani & Janardhanan, 1993; Rasiah, 1995 ) đã tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của FDI đối với xuất nhập khẩu trong toàn ngành và từng ngành công nghiệp của Malaixia. Theo các tác giả, các ngành công nghiệp đóng vai trò là động lực tăng trưởng của nền kinh tế và thu hút chủ yếu nguồn FDI của cả nước. Vì vậy động thái xuất nhập khẩu của các ngành công nghiệp là đối tượng phân tích của các nghiên cứu thực nghiệm.
Để làm rõ dược mức độ tác động của FDI đối với kim ngạch xuất nhập khẩu, các nghiên cứu thực nghiệm đã phân loại toàn ngành công nghiệp thành hai nhóm: Những ngành có sở hữu vốn nước ngoài lớn ( Foreign Dominated Branches- FDBs ) và những ngành có sở hữu vốn nước ngoài nhỏ LDBs. Hơn nữa, trong mỗi nhóm lại phân làm ba loại: lớn hơn 60%, 50% và 40% tỷ lệ sở hữu vốn của nước ngoài và ký hiệu theo thứ tự FDB1, FDB2, FDB3 hoặc nhỏ hơn các tỷ lệ tương tự đối với LDBs ( LDB1, LDB2, LDB3 ). Các tỷ lệ phân chia này được tính ở mức trung bình trong giai đoạn 1968-1990 hoặc ít nhất cũng phải đạt từ 15 năm trở lên trong giai đoạn nghiên cứu.
Mục đích của việc phân loại các ngành công nghiệp theo tỷ lệ sở hữu vốn là để so sánh được động thái xuất nhập khẩu của các ngành công nghiệp ở các mức độ phụ thuộc khác nhau vào vốn nước ngoài hoặc trong nước. Trên cơ sở đó thấy rõ được tác động của FDI đối với xuất nhập khẩu của các nhóm ngành này. Nếu FDBs có tốc độ tăng trưởng và tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu cao hơn LDBs thì có thể đi đến khẳng định được vai trò to lớn của FDI đối với thúc đẩy xuất nhập khẩu của toàn ngành công nghiệp và qua đó ảnh hưởng quan trọng đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Theo số liệu điều tra của cơ quan phát triển công nghiệp Malaixia-MIDA được tiến hành năm 1991, vốn nước ngoài chiếm trên 60% trong hai ngành điện & điện tử và đồ uống & thuốc lá (FDB1 ). Tiếp theo là ngành dệt may ở mức trên 50% ( FDB2 ) và con số này cũng đạt tới trên 40% đối với hai ngành cao su và chế tạo máy (FDB3 ). Tương tự, những ngành có vốn nước ngoài nhỏ hơn 60% ( LDB1 ) là thực phẩm, đồ gỗ, khoáng sản phi kim loại, kim loại , sắt thép, hoá chất, thiết bị vận tải, cao su, chế tạo máy và dệt may. LDB2 cũng bao gồm hầu hết các ngành của LDB1 ( ngoại trừ ngành dệt may ). Nếu không tính các ngành cao su, thiết bị vận tải và chế tạo máy thì LDB3 bao gồm những ngành còn lại của LDB2.
Những kết quả nghiên cứu thực nghiệm đã tính toán được các hệ số quan trọng về mối quan hệ giữa tỷ lệ giữa xuất khẩu ( Xi ) và nhập khẩu( Mi) của FDBs và LDBs trong tổng kim ngạch xuất và nhập khẩu ( SXi, SMi ) của toàn ngành công nghiệp. Tỷ lệ Xi/ SXi và Mi/SMi của FDB3 và LDBs thay đổi khá rõ nét theo chiều hướng khác nhau giữa các năm 1968-1990. Thật vậy, nếu so sánh giữa đại diện tiêu biểu của hai nhóm ngành ( FDB1 và LDB1 ) thì tỷ lệ Xi /SXi của FDB1 tăng nhanh từ 0,005 năm 1968 đã lên 0,13131 năm 1979 và đạt tới 0,288 năm 1990. Trong khi đó những con số tương tự lại giảm dần từ 0,303 xuống còn 0,293 và 0,202 đối với LDB1. Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng này là do các nhóm ngành FDBs chủ yếu hướng vào xuất khẩu, trong khi đó phần lớn các sản phẩm của các nhóm ngành LDBs lại tiêu thụ trong nước (thay thế hàng nhập khẩu). Về tỷ lệ Mi/SMi của FDB1 và LDB1 cũng diễn biến theo hướng ngược chiều nhau như các hệ số xuất khẩu.
Bảng1:Hệ số Xi/SXi và Mi/SMi của FDBs Malaixia(1968-1990).
FDBsvà LDBs
1968
1973
1979
1985
1990
Xi/SXi
FDB1
0,005
0,018
0,131
0,154
0,288
FDB2
0,009
0,040
0,162
0,189
0,344
FDB3
0,020
0,060
0,184
0,209
0,397
LDB1
0,303
0,345
0,293
0,169
0,202
LDB2
0,296
0,323
0,263
0,155
0,192
LDB3
0.286
0,303
0,240
0,135
0,140
Mi/SMi
FDB1
0,062
0,061
0,169
0,214
0,240
FDB2
0,152
0,126
0,211
0,249
0,281
FDB3
0,251
0,243
0,327
0,401
0,454
LDB1
O,664
0,622
0,575
0,554
0,559
LDB2
0,573
0,558
0,553
0,520
0,518
LDB3
0,475
0,440
0,417
0,368
0,344
Nguồn: Foreign Capital and Industrialization in Malaixia- Rasiah,1995
Số liệu bảng 1 cho thấy các hệ số xuất nhập khẩu biến động theo xu hướng ngược chiều nhau không chỉ đối với FDB1 và LDB1 mà tình trạng tương tự có tính phổ biến ở tất cả các nhóm ngành còn lại của FDBs và LDBs. Một đặc điểm nữa cũng đáng chú ý là tỷ lệ chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu (Xi-Mi) trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (Xi+Mi) của các nhóm FDBs cũng được cải thiện nhanh hơn so với nhóm LDBs và đặc biệt FDB1 và FDB2 đã đạt chỉ số dương là 0,094 và 0,104 vào năm 1990, trong khi đó các tỷ lệ còn lại của FDB3 và các nhóm LDBs đều ở tình trạng âm. Hiện tượng cùng với các hệ số của bảng 1, có thể đi đến nhận xét là các nhóm ngành có vốn nước ngoài lớn (FDB1vàFDB2) đã đạt được tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của ngành lớn hơn tỷ trọng tương tự của các nhóm ngành còn lại, trong đó nhất là so với LDBs.
Về tốc độ tăng bình quân của Xi và Mi trong giai đoạn 1973-1990 cũng khá chênh lệch giữa hai nhóm FDBs và LDBs. Đối với kim ngạch xuất khẩu, FDBs đã đạt con số khá cao là 27,8%(FDB1); 25,3%(FDB2) và 22%(FDB3) so với tốc độ tăng bình quân chỉ ở mức 10,7%; 10,1% và 9,9% của LDB1, LDB2 và LDB3. Tình trạng cũng tương tự đối với kim ngạch nhập khẩu, mức tăng bình quân đối với cả ba loại của FDBs đã đạt tới 16%; 14,6% và 11%, trong khi đó con số này lại chỉ ở mức dưới 10%(7,1%;6,9% và7,2%) đối với LDBs. Như vậy, một nhận xét tiếp theo là tốc độ gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, trong đó đặc biệt đối với xuất khẩu của nhóm ngành FDBs cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng tương tự của nhóm ngành LDBs và và rõ ràng FDBs phụ thuộc vào xuất nhập khẩu lớn hơn nhiều so với LDBs.
Phân tích tác động của FDI đối với xuất nhập khẩu dựa trên so sánh mức sở hữu vốn giữa FDBs và LDBs đã tìm ra những căn cứ có tính thuyết phục để khẳng định vai trò to lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với thúc đẩy xuất nhập khẩu ở quy mô toàn ngành công nghiệp. Tuy nhiên những kết quả này chưa phản ánh được mức độ tác động như thế nào trong phạm vi từng ngành. Vì vậy việc tìm ra câu trả lời cho vấn đề này là mục tiêu phân tích của phần dưới đây.
2. Tác động của FDI đến xuất khẩu của từng ngành công nghiệp.
Nội dung nghiên cứu của phần này sẽ tập trung chủ yếu vào phân tích các hệ số tăng trưởng xuất nhập khẩu ở phạm vi từng ngành công nghiệp để tìm ra mối quan hệ giữa mức sở hữu vốn nước ngoài và động thái xuất nhập khẩu của từng ngành trong giai đoạn 1968-1990. Những ngành công nghệp được lựa chọn bao gồm: thực phẩm, đồ uống và thuốc lá, dệt may đồ gỗ, hoá chất cao su, khoáng sản, phi kim loại, sắt thép chế tạo máy và điện & điện tử.
Qua các năm, vốn nước ngoài đã chiếm tỷ lệ khá cao trong các ngành công nghiệp, đặc biệt là tỷ lệ này luôn ở mức hơn 60% với hai ngành đồ uống và thuốc lá và điện & điện tử trong suốt giai đoạn 1968-1990. Tiếp theo đó, vốn nước ngoài bình quân cũng ở mức trên 40% đối với các ngành dệt may, cao su và chế tạo máy. Tuy nhiên tỷ lệ vốn nước ngoài giảm dần qua các năm so với tốc độ tăng nhanh của vốn nội địa trong hầu hết các ngành công nghiệp.
Nếu so sánh mức biến động vốn nước ngoài giữa các ngành thì năm ngành có tỷ lệ giảm nhanh là thực phẩm, hoá chất, sắt thép, chế tạo máy và khoáng sản phi kim loại. Nguyên nhân quan trọng của tình trạng này là kết quả của chính sách công nghiệp hoá trên cơ sở ưu tiên công nghiệp nặng- giai đoạn 2 của công nghiệp hoá thay thế hàng nhập khẩu được thực hiện từ những năm của thập kỷ 80 và chính sách khuyến khích đầu tư trong nước của chính phủ Malaixia. Các ngành đồ uống & thuốc lá dệt may và đồ gỗ có mức tăng giảm không lớn ( khoảng 10% ). Ngành cao su có tỷ lệ tăng khá cao từ 14% năm 1968 lên tới 49,17% thời kỳ 1985-1990.
Bảng 2: Tỷ lệ vốn nước ngoài trong các ngành công nghiệp lựa chọn của Malaixia (1968-1990 ) - đơn vị : %
Các ngành CN
1968
1968-1973
1973-1979
1979-1985
1985-1990
1. Thực phẩm
74,00
70,16
51,57
30,14
27,5
2. Đồ uống và thuốc lá
93,00
87,00
67,11
69,29
67,83
3.Dệt may
52,00
49,83
61,43
51,57
54,67
4. Đồ gỗ
15,00
11,67
11,00
12,29
12,50
5. Hoá chất
53,00
62,33
61,00
37,43
20,67
6. Cao su
14,00
19,50
36,71
45,00
49,17
7. Khoáng sản phi kim
57,00
59,33
44,86
30,43
32,67
8. Sắt thép
49,00
45,33
35,14
31,86
25,33
9. Chế tạo máy
74,00
62,50
51,57
40,86
44,67
10Điện-điện tử
70,00
74,17
72,14
77,14
80,50
Nguồn : Số liệu của MIDA, 1991
Một số vấn đề đặt ra là sự thay đổi tỷ lệ vốn nước ngoài đã ảnh hưởng như thế nào đến động thái xuất khẩu của từng ngành? Để tìm ra mối quan hệ này chúng ta hãy phân tích hai hệ số thương mại quan trọng của từng ngành: Mức chêch lệch giữa giá trị xuất khẩu và nhập khẩu trên tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (Xi-Mi/ Xi+Mi ) và tốc độ tăng trưởng bình quân kim ngạch xuất, nhập khẩu của từng ngành công nghiệp ( Xi, Mi ).
Trong suốt giai đoạn 1968-1990, hệ số (Xi-Mi/ Xi+Mi) của hầu hết các ngành đều ở mức tăng trưởng âm ( ngoại trừ ngành đồ gỗ ). Hiện tượng này phản ánh tình trạng nhập siêu phổ biến trong các ngành công nghiệp. Tuy nhiên , các hệ số (Xi-Mi/ Xi+Mi) được cải thiện dần qua các năm và đến năm 1990 các ngành dệt may, cao su điện & điện tử đã đạt được hệ số dương là 0,159; 0,342 và 0,100 theo thứ tự. Đồng thời nếu so sánh giữa tỷ lệ vốn nước ngoài và hệ số (Xi-Mi/ Xi+Mi) của từng ngành thì nhìn chung chúng có mối quan hệ tăng trưởng không cùng chiều với nhau. Qua các năm, tỷ lệ vốn nước ngoài có xu hướng giảm, trong khi hệ số(Xi-Mi/Xi+Mi) lại tăng lên ở hầu hết các ngành. Mặt khác tỷ lệ vốn nước ngoài không ảnh hưởng rõ ràng có tính tỷ lệ đến tốc độ tăng trưởng của hệ số (Xi-Mi/Xi+Mi) giữa các ngành. Chẳng hạn hai ngành hoá chất và sắt thép có tỷ lệ vốn nước ngoài giảm đáng kể giữa các năm 1968-1990 nhưng hệ số (Xi-Mi/Xi+Mi) lại không biến động nhiều và luôn ở mức khoảng -0.7% trong khi đó tình hình lại khác hẳn đối với ngành thực phẩm. Do vậy, mặc dù có thể tìm ra mối quan hệ giữa tỷ lệ góp vốn nước ngoài và hệ số (Xi-Mi/ Xi+Mi) của từng ngành biến động theo hướng ngược chiều nhau nhưng khó có thể khẳng định được mức độ tác động của nó đối với tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu của từng ngành công nghiệp.
Tốc độ tăng trưởng của Xi và Mi cũng rất khác nhau khi so sánh với mức biến động của vốn nước ngoài giữa các ngành công nghiệp. Cũng như động thái của hệ số (Xi-Mi/ Xi+Mi), tốc độ tăng trưởng của Xi và Mi không có quan hệ tỷ lệ rõ ràng với mức độ biến động của tỷ lệ vốn nước ngoài giữa các ngành. Chọn hai ngành thực phẩm và đồ uống & thuốc lá làm ví dụ, tốc độ tăng trưởng của Xi tăng từ 6,3% thời kỳ 1968-1973 lên tới 16,4% vào các năm từ 1985-1990 và đạt tốc độ tăng bình quân 3,2% trong giai đoạn 1973-1990 đối với ngành thực phẩm, trong khi đó các con số này lại giảm đáng kể từ 44% xuống còn 31,2% và trung bình - 3,1% trong các thời điểm tương tự đối với ngành đồ uống& thuốc lá.
3. Đánh giá chung.
Căn cứ vào từ các nghiên cứu thực nghiệm, kết quả phân tích đã tìm ra được một số cơ sở định lượng để khẳng định FDI có vai trò to lớn đối với xuất nhập khẩu của Malaixia. Nhìn chung FDI có tác động quan trọng đến động thái xuất nhập khẩu của toàn ngành công nghiệp và được biểu hiện thông qua các hệ số tăng trưởng (Xi-Mi/ Xi+Mi), Xi/SXi và Mi/ SMi của FDBs cao hơn nhiều so với các hệ số tương tự của LDBs, đặc biệt trong giai đoạn lâu dài. Hơn nữa, mức độ tác động tích cực của FDI không chỉ thúc đẩy nhanh xuất nhập khẩu mà còn tạo ra nhiều ảnh hưởng tốt đối với các hoạt động kinh tế-xã hội khác thông qua các tác động ngoại ứng tích cực đối với LDBs. Trong khi đó khó có thể khẳng định được một cách rõ ràng về mức độ tác động tích cực của FDI đối với xuất nhập khẩu ở từng ngành công nghiệp. Qua các năm, mặc dù tỷ lệ vốn nước ngoài giảm dần nhưng các hệ số (Xi-Mi/ Xi+Mi ), Xi và Mi lại có xu hướng tăng. Hơn nữa, mức tăng cũng không có quan hệ mang tính tỷ lệ rõ ràng với động thái giảm của tỷ lệ vốn nước ngoài ở hầu hết các ngành công nghiệp.
Từ thực tế của Malaixia và qua các kết quả phân tích trên, một gợi ý được đưa ra cho các nước phát triển là: sử dụng FDI để thúc đẩy công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu sẽ tạo ra động lực quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Bởi vì xuất khẩu là yếu tố quan trọng để đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô đối với những nước có thị trường nội địa nhỏ và tăng cường tính cạnh tranh quốc tế. Nhờ đó kích thích các doanh nghiệp trong nước cải tiến công nghệ, nâng cao trình độ quản lý để tăng chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Hơn nữa đẩy mạnh xuất khẩu cồn khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế và đem lại nhiều ngoại tệ để mở rộng nhập khẩu đáp ứng được nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước.
III. Tác động của xuất nhập khẩu đến đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Từ cuối năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới kinh tế do Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra, kinh tế đối ngoại đã được coi là “ mũi nhọn” của sự đổi mới. Cùng với việc “ bung ra” nền kinh tế nhiều thành phần, lần đầu tiên ở Việt Nam các thuật ngữ “mở cửa nền kinh tế”, “đa dạng hoá kinh tế đối ngoại”, “đa phương hoá thị trường”...đã được đề cập trong các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại. Quan điểm cứng nhắc coi “ độc quyền ngoại thương” là bản chất kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa đã từng bước được xem xét lại. Đáng lưu ý là ngoại thương, đặc biệt là hoạt động sản xuất-kinh doanh xuất khẩu đã được đề cao. Luật đầu tư nước ngoài được quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tháng 12-1987 và có hiệu lực từ tháng 1 năm 1988, là văn bản pháp lý đầu tiên đánh dấu sự chuyển hướng thực sự sang chính sách mở cửa theo cơ chế thị trường có sự
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K2850.DOC