Đề án Đầu tư nước ngoài vào du lịch Quảng Ninh giai đoạn từ 1986 đến nay

MỤC LỤC

 Trang

Lời nói đầu

Chương 1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài

 1.1 Các chính sách của Nhà nước

1.2. Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực du lịch

Chương 2. Tiềm năng của du lịch Quảng Ninh

2.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên

2.2 Văn hoá xã hội

2.3 Tiềm năng du lịch

2.3.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên

2.3.2 Tài nguyên du lịch nhân văn

Chương 3. Thực trạng của hoạt động đầu tư nước ngoài

 vào du lịch Quảng Ninh

3.1 Bức tranh đầu tư nước ngoài ở Quảng Ninh

3.2 Hoạt động đầu tư nước ngoài vào du lịch Quảng Ninh

3.2.1 Giai đoạn 1986 – 1994

3.2.2 Giai đoạn 1995 đến nay

3.2.2.1 Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực khách sạn

3.2.2.2 Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giải trí

3.2.3 Nguyên nhân gia tăng đầu tư nước ngoài sau năm 1994

3.3 Tác động của hoạt động đầu tư nước ngoài vào du lịch Quảng Ninh

3.3.1 Tác động tích cực

3.3.2 Tác động tiêu cực

Chương 4. Phương hướng và giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài

 vào du lịch Quảng Ninh

4.1 Những tồn tại cần giải quyết và phương hướng thu hút

 đầu tư nước ngoài vào du lịch Quảng Ninh

4.2 Giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài vào du lịch Quảng Ninh

Kết luận

 

doc50 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1518 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đầu tư nước ngoài vào du lịch Quảng Ninh giai đoạn từ 1986 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, Trạc Cổ, bởi các vẻ đẹp tự nhiên hùng vĩ, Quảng Ninh còn có nét đẹp trong nền văn hoá của các dân tộc anh em sinh sống trong tỉnh qua các di tích văn hoá, lịch sử, các lễ hội…Cùng trải qua 4000 lịch sử của đất nước, lại nằm ở cửa ngõ tiếp giáp với nước láng giềng Trung Hoa, Quảng Ninh đã chứng kiến và gồng mình nên với những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Nơi đây vẫn còn tồn tại những tàn tích của lịch sử là điểm hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước. Cho đến bây giờ không người dân Việt Nam nào có thể quên được chiến thắng oanh liệt của ông cha ta trên dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Với tài cán thao lược của Ngô Quyền hay Trần Hưng Đạo bằng việc tạo ra những bãi cọc trên sông đã dập tắt âm mưu xâm lược của quân Nguyên Mông vào nước ta thế kỷ thứ X và XIII. Đây có thể coi là những chiến công vang dội nhất trong lịch sử Việt Nam. Ngày nay, những bãi cọc ngầm này vẫn tồn tại bất chấp thời gian tại sông Chanh (Yên Hưng), một nhánh lớn của sông Bạch Đằng. Qua hơn 7 thế kỷ do thiên nhiên xâm hại và con người nhiều thời đại khai thác, trận địa cọc đã mai một dần, chỉ còn những phần nhỏ so với trước đây nhưng vẫn là nơi mà du khách có thể thấy được những bằng chứng lịch sử và tinh thần quả cảm, kiên cường để bảo vệ đất nước của người xưa. Hiện nay, ở Quảng Ninh còn tồn tại rất nhiều những di tích lịch sử thời Trần. Trong đó đáng kể nhất là hai di tích Cửa Ông và Yên Tử. Đền Cửa Ông thờ Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, con trai thứ 3 của người anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo. Người đã có công bảo vệ vùng biên cương của tổ quốc. Đây là một di tích đã được xếp hạng bảo tồn, một điểm thăm quan có giá trị về lịch sử và văn hoá. Yên Tử là một điểm du lịch hấp dẫn thứ hai sau vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh . Đây là một quần thể chùa chiền nằm rải trên sườn núi Yên Tử với độ cao hơn 1000 m so với mặt biển. Nơi đây vua Trần Nhân Tông đã giũ bụi trần, tu hành lúc cuối đời và hình thành nên thiền phái phật giáo Trúc Lâm của Việt Nam . Tất cả những ngôi chùa cổ ở đây đều được xây dựng thời Trần và mang những kiến trúc đặc sắc như chùa Hoa Yên, Giải Oan, Một Mái, chùa Đồng… chùa Đồng nằm trên đỉnh cao nhất của Yên Tử quanh năm mây mù bao phủ, được đúc bằng đồng nặng vài tấn. ở Yên Tử còn chứa đựng bao điều kỳ diệu, bao huyền thoại về một vị vua từ xa xưa mà du khách có thể khám phá. Hiện nay, nhà nước đang xúc tiến việc đề nghị tổ chức UNESCO công nhận Yên Tử là một di sản văn hoá thế giới. Quảng Ninh còn có rất nhiều những công trình kiến trúc đặc sắc đã và đang là điểm tham quan của du khách như đình Trà Cổ, nằm gần bãi biển được xây dựng từ năm 1462 với những đặc trưng về phong cách kiến trúc và nghệ thuật trạm khắc tinh xảo; thành nhà Mạc được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVI tại Hoành Bồ mà các đoạn tường thành còn khá nguyên vẹn đến ngày nay… Vào mùa xuân ở Quảng Ninh có rất nhiều những lễ hội, đây là loại hình sinh hoạt văn hoá phản ánh sinh động bản sắc dân tộc, một sản phẩm du lịch độc đáo và hấp dẫn. Lễ hội Yên Tử là lễ hội mùa xuân lớn thứ 2 ở miền Bắc, chỉ sau lễ hội chùa Hương. Lễ hội diễn ra từ mùng 5 đến hết tháng riêng hằng năm, thu hút hàng trăm nghìn du khách thập phương đến hành hương. Lễ hội Tiên Công cũng là một lễ hội mùa xuân lớn. Đã từ hàng trăm năm rồi, lễ hội diễn ra để tỏ lòng kính trọng của con cháu đối với người cao tuổi. Hiếm có lễ hội nào như thế ở Việt Nam . Cũng như bao miền quê khác của đất nước ở Quảng Ninh cũng tồn tại những làng nghề. Mặc dù với thời gian số lành nghề truyền thống không còn nhiều nhưng nó vẫn thể hiện được những nét đặc trưng riêng của miền đất này. Những sản phẩm đặc sắc mang tính nghệ thuật cao luôn hấp dẫn được du khách như gốm sứ Đông Triều, tượng than đá… hay những sản phẩm đặc trưng ở vùng biển như nghề đóng thuyền ở Phong Cốc… Như vậy, cùng với những tài nguyên du lịch tự nhiên thì tài nguyên du lịch nhân văn ở Quảng Ninh cũng rất giàu có. Khai thác được những tài ngyuên này không chỉ để phát triển du lịch mà còn là để duy trì và bảo tồn chúng qua thời gian. CHƯƠNG 3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào du lịch Quảng Ninh (giai đoạn từ năm 1986 đến nay) 3.1 Bức tranh đầu tư nước ngoài tại Quảng Ninh. Nằm trong tam giác tăng trưởng kinh tế miền Bắc ( Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh). Trong những năm vừa qua, cùng với quá trình mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài của cả nước, Quảng Ninh cũng là một điểm được các nhà đầu tư chú ý đặc biệt. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi và sự quan tâm của nhà nước, đầu tư nước ngoài ở Quảng Ninh đã có những bước khởi sắc đáng kể. Tính đến hết năm 1999, tại Quảng Ninh, số dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn hiệu lực pháp lý là 35 dự án và 7 chi nhánh của 18 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng số vốn đầu tư gần 900 triệu USD. Đã có 24/35 số dự án này đã triển khai vốn đầu tư với số vốn khoảng 160 triệu USD, 15 doanh nghiệp đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh phát huy từ 60%-80% công suất thiết kế. Rất nhiều các dự án đã triển khai tích cực và có hiệu quả như: công ty dầu thực vật Cái Lân, công ty ngọc trai Hạ Long, công ty Vina Takaoka … Có thể nói hoạt động đầu tư nước ngoài trong những năm qua đã đóng góp một phần quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội Quảng Ninh. Năm 1999, tổng doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt trên 103 triệu USD tăng hơn 2 lần so với năm 1998, trong đó giá trị công nghiệp đạt 100 triệu USD, đóng góp quan trọng trong việc tăng giá trị công nghiệp toàn tỉnh. Trong năm 1999, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh đã đóng góp cho ngân sách nhà nước trên 8,8 triệu USD, tăng 3 lần so với năm 1998. Về mặt xã hội, các dự án có vốn đầu tư nước ngoài không chỉ giải quyết việc làm cho hơn 3000 nghìn lao động trực tiếp mà còn kích thích và tạo việc làm gián tiếp cho hàng nghìn lao độnh khác từ các doanh nghiệp, dịch vụ cung ứng và tăng thu nhập cho nhười lao động. Cùng với những đóng góp đáng kể của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp, 12 công ty liên doanh trong lĩnh vực du lịch đã đi vào hoạt động góp phần tích cực vào diện mạo của ngành du lịch Quảng Ninh. Cơ sở hạ tầng của các công viên, khách sạn, nhà hàng, đội ngũ nhân viên du lịch đang tong bước được hiện đại hoá, thêm nhiều phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế là những điểm thu hút khách du lịch. Du lịch Quảng Ninh đang trở thành mảnh đất màu mỡ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Cùng với đà phát triển của ngành du lịch, chắc chắn trong những năm tới sẽ có nhiều dự án nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này. 3.2 Hoạt dộng đầu tư nước ngoài vào du lịch Quảng Ninh. 3.2.1 Giai đoạn 1986 – 1994 Có thể nói rằng, mặc dù giai đoạn 1986 – 1994, khi nhà nước ta dã thực hiện chính sách mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới nhưng nên kinh tế vẫn mang nặng tính bao cấp. Đặc biệt là đối với ngành du lịch. Các cơ sở du lịch trên toàn quốc chủ yếu là phục vụ cho các đoàn khách của Đảng, nhà nước, các đoàn ngoại giao, tổ chức quốc tế, các chuyên gia, vận động viên nước bạn… Các đoàn khách du lịch quốc tế đến Việt Nam chủ yếu từ các nước Đông Âu và Liên Xô cũ được ký kết theo các hiệp định về hợp tác trao đổi chính trị, kinh tế, văn hoá theo giá ưu đãi của chính phủ. Ngành du lịch Quảng Ninh cũng chịu chung “số phận” đó. Hằng năm, các đoàn khách quốc tế đến Hạ Long vẫn chỉ là các đoàn khách truyền thống Đông Âu và Liên Xô cũ. Hoạt động kinh doanh du lịch lúc đó rất buồn tẻ, chỉ mùa hè khu du lịch Bãi Cháy mới có khách còn đến mùa đông lại trở thành một khu vực vắng vẻ, quạnh hiu. Các cơ sở lưu trú lúc đó rất nghèo nàn. Một số khách sạn như Vườn Đào, Bạch Đằng, Hạ Long… của nhà nước với số lượng buồng phòng hạn chế, trang thiết bị lạc hậu. Còn các nhà khách của các nghành như Công Đoàn, Than, Điện Lực … lại chỉ chuyên phục vụ cho cán bộ công nhân viên đến nghỉ dưỡng mỗi năm một lần. Hầu như không tồn tại bất cứ một khu vui chơi giải trí nào cho khách. Các dịch vụ bổ trợ như ăn uống, thông tin liên lạc, y tế… đều rất thiếu thốn và lạc hậu. Chính vì thế mà động lực để phát triển nghành du lịch là nhỏ. Không có một sự đầu tư cần thiết cho nghành du lịch đặc biệt là đầu tư nước ngoài . Mặc dù là từ năm 1987 luật đầu tư nước ngoài đã ra đời ở Việt Nam nhưng các nhà đầu tư nước ngoài lúc đó còn quá e dè và chưa thấy hết tiềm năng to lớn của du lịch Quảng Ninh. Cùng với những khó khăn cơ bản về cơ sở hạ tầng, về chính sách đầu tư, về thị trường du lịch... cũng là trở ngại đáng kể trong quyết định của các nhà đầu tư nước ngoài. Bước sang những năm đầu của thập kỷ 90, tốc độ tăng trưởng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam tăng nhanh. Thời kỳ này Việt Nam trở thành một điểm du lịch mới lạ và hấp dẫn ở khu vực Đông Nam á, thu hút ngày càng nhiều khách du lịch với nhiều mục đích khác nhau. Phần lớn trong số họ (40% - 50%) đến Việt Nam để tham quan du lịch, tham quan một đất nước có nhiều danh lam thắng cảnh, có nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc. Hạ Long là một trong những điểm hấp dẫn được nhiều du khách nhất khi đến Việt Nam . Có người nói: “ Đến Việt Nam mà không đến Hạ Long thì coi như chưa đến”. Thời kỳ này du lịch Quảng Ninh bắt đầu có những khởi sắc đáng kể. Một loạt các nhà khách, nhà nghỉ của các bộ ngành đoàn thể đã được chuyển thành khách sạn. Cùng với chủ trương khuyến khích phát triển đa dạng các thành phần kinh tế, hàng loạt các nhà nghỉ, khách sạn tư nhân ra đời như nấm sau mưa. Chỉ trong vòng 2 đến 3 năm khu vực Bãi Cháy đã mọc lên vài chục khách sạn tư nhân phục vụ cho nhu cầu lưu trú của khách. Mặc dù các khách sạn mọc lên rất nhiều nhưng cái thiếu của nghành du lịch Quảng Ninh chính là những khách sạn qui mô, có tầm cỡ và tiêu chuẩn quốc tế. Hầu hết các khách sạn ở Quảng Ninh lúc bấy giờ đều có qui mô nhỏ dẫn đến tình trạng phải thường xuyên xé lẻ các đoàn khách. Đầu những năm 90 cũng là thời kỳ khách du lịch thương mại đến Việt Nam nói chung và Quảng Ninh nói riêng rất nhiều. Họ đến để kìm kiếm cơ hội kinh doanh tại một đất nước mới thực hiện chính sách mở cửa. Với các vị khách này thì nhu cầu về nơi ở, nghỉ ngơi, giải trí là rất cao. Trong khi đó các cơ sở lưu trú ở Quảng Ninh chưa thể đáp ứng được hết những đòi hỏi của đối tượng khách này. Chính vì vậy cần phải có một nguồn vốn lớn, đặc biệt là nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này. Nhưng mặc dù từ năm 1991 – 1994 có rất nhiều các đoàn khách quốc tế dến tham quan và tìm hiểu cơ hội đầu tư tại Quảng Ninh nhưng các nhà đầu tư vẫn tỏ ra e ngại đối với lĩnh vực du lịch. Bởi vì, du lịch Quảng Ninh lúc đó thiếu tầm nhìn chiến lược, không có một hoạt động quảng bá nào về những thế mạnh của mình cũng như hoạch định một sự phát triển bền vững trong tương lai. Đồng thời cơ sở hạ tầng của các khu du lịch vẫn còn quá yếu kém, vấn đề điện, nước vào mùa hè ( mùa có đông khách du lịch nhất) luôn làm đau đầu các nhà kinh doanh. Đó là trong lĩnh vực khác sạn, còn trong lĩnh vực vui chơi giải trí thì cũng khong có gì khả quan hơn. Du khách đến Hạ Long sau một buổi ngồi trên thuyền ngắm cảnh vịnh khi lên bờ cũng chảng biết đi đâu, vui chơi gì vào ban đêm. Như vậy trong suốt giai đoạn 1986 – 1994 cả ngành du lịch Quảng Ninh không nhận được bất cứ một dự án đầu tư nước ngoài nào. 3.2.2 Giai đoạn từ năm 1994 đến nay Có thể nói rằng giai đoạn từ năm 1994 đến nay là giai đoạn cất cánh của du lịch Quảng Ninh. Kể từ khi vịnh Hạ Long được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới năm tháng 12-1994, khách du lịch đến Quảng Ninh tăng nhanh, năm sau cao hơn năm trước. Đặc biệt là vào tháng 11-2000 khi Hạ Long được đăng quang di sản thế giới lần thứ 2 với giá trị ngoại hạng về địa chất thì lại càng khẳng định vị thế của mình như một trung tâm du lịch lớn trên toàn quốc. Bảng 2. Số lượng khách du lịch đến Quảng Ninh giai đoạn 1997-2000 Đơn vị : lượt người Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 Tổng số khách 357.868 384.736 1.116.000 1.500.856 (% tăng) 8% 190% 34% Khách quốc tế 150.582 151.826 441.739 553.000 (% tăng) 1% 191% 25% Khách nội địa 207.286 232.910 674.261 947.856 (% tăng) 12% 189% 41% Nguồn: Báo cáo tổng kết du lịch Quảng Ninh năm 1997, 1998… Tốc độ tăng trưởng khách du lịch đến Quảng Ninh trong những năm qua quả thật là những con số ngoài mong ước, tốc độ tăng trung bình hằng năm là hơn 30% trong đó khách du lịch quốc tế đến Quảng Ninh ngày càng nhiều. Chỉ tính 3 tháng đầu năm 2001 số lượng khách du lịch đến Quảng Ninh đã là 670.878 lượt người, vượt 57% so với cùng kỳ năm 2000. Với đà này con số khách du lịch tới Quảng Ninh sẽ vượt qua con số 2 triệu lượt người. Tất cả những kết quả đạt được ở trên là do sự nỗ lực của ngành du lịch Quảng Ninh, của các cơ sở kinh doanh du lịch đã tạo được niềm tin nơi khách du lịch. Đường xá, cầu cống, cơ sở hạ tầng đã được cải thiện cơ bản, cộng vào đó là cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du khách của các doanh nghiệp cũng được nâng cấp và xây dựng mới khá nhiều, trong đó phải kể đến một phần đóng góp không nhỏ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này. Kể từ khi Hạ Long được công nhận là di sản thế giới năm 1994 đến nay đã có 12 Quảng Ninh dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực du lịch tại Quảng Ninh với tổng vốn đầu tư là trên 180 triệu USD. Hầu hết các dự án này đã triển khai đây dựng cơ bản với tổng số vốn là 35.443.282 USD tập trung tại các trung tâm du lịch nổi tiếng của tỉnh như: Bãi Cháy, thành phố Hạ Long, thị xã Móng Cái… Bảng 3. Các dự án đầu tư nước ngoài vào du lịch Quảng Ninh ( giai đoạn 1994 đến nay ) Stt Tên dự án Địa điểm Tổng vốn đầu tư (USD) Chủ đầu tư nước ngoài 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 Khách sạn Hải Ninh- Lợi Lai Khách sạn Hồng Hải Công ty liên doanh quốc tế Hoàng Gia Khách sạn Haritage - Hạ Long Khách sạn Hạ Long - Plaza Công ty liên doanh Hạ Long- Dream Khách sạn INTOURDECO Công ty TNHH Ngôi sao của Vịnh Công ty tập đoàn Vinh Cơ Công ty ĐT và PT khách sạn Móng Cái Công ty du lịch hồ Yên Trung Móng Cái Hạ Long Hạ Long Hạ Long Hạ Long Hạ Long Hạ Long Hạ Long Móng Cái Móng Cái Uông Bí 10.000.000 751.000 39.000.000 4.000.000 11.000.000 11.000.000 68.000.000 22.136.800 5.000.000 26.830.000 5.000.000 Profit Come E,D ( Trung Quốc) Công ty mậu dịch Bắc Hải (Trung Quốc) Công ty Mỹ Lai Đài Loan Orient Vacations Pte.ltd ( Singapore) Siam Infinity Import-Export (Pháp) SKR International Co Gor Hock Guan ( Hàn Quốc) Hạ Long Resort Development Pte.Ltd Công ty XNK tp Phòng Thành (TQ) Panford Development Ltd ( Hong Kong) Ông Juan Cheng I ( Đài Loan) Nguồn: Sở du lịch Quảng Ninh Trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên thì chỉ có công ty du lịch hồ Yên Trung là hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài còn tất cả đều là hình thức liên doanh. Bên Việt Nam tham gia góp vốn chủ yếu dưới dạng đất đai. Các đối tác nước ngoài tham gia hầu hết đều là các công ty của Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore…bởi vì đây là những thị trường gửi khách chính đến Quảng Ninh, do đó các liên doanh có thể nắm bắt được tâm lý, tập quán và sở thích của khách thông qua đó đáp ứng được những nhu cầu của họ trong quá trình nghỉ ngơi, tham quan, giải trí… 3.2.2.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực khách sạn Đây là lĩnh vực đầu tư chính của các nhà đầu tư nước ngoài đối với du lịch Quảng Ninh . Kể từ khi Hạ Long được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới lần thứ nhất thì lượng khách đến Quảng Ninh tăng không ngừng và nhu cầu lưu trú do đó cũng tăng theo. Chính vì vậy mà hệ thống khách sạn của Quảng Ninh không đã không đủ để đáp ứng những nhu cầu đó. Lần lượt đã có rất nhiều những nhà đầu tư nước ngoài nhảy vào lĩnh vực này. Kết quả là hàng loạt các khách sạn liên doanh có qui mô lớn, hiện đại ra đời góp phần đáp ứng cho nhu cầu của một lượng khách lớn và những đối tượng khách cao cấp. Hiện tại năng lực lưu trú thực tế tại khu vực Bãi Cháy tập trung tại 6 khách sạn lớn với tổng số phòng là 800 trong đó có 2 khách sạn liên doanh tiêu chuẩn cao là Haritage-Hạ Long và Hạ Long-Plaza chiếm gần 400 phòng hiện đại. Đây là 2 liên doanh về khách sạn hoạt động sớm nhất ở Quảng Ninh và bước đầu hoạt động đã đạt được những thành công nhất định. Khách sạn Haritage-Hạ Long là khách sạn liên doanh giữa tổng công ty than Việt Nam và công ty Orient Vacations Pte.Ltd của Singapore với tổng vốn đầu tư là 7,5 triệu USD. Khách sạn được bắt đầu xây dựng từ cuối năm 1994 và chính thức hoạt động từ tháng 10-1995 với 30 phòng. Hiện nay, sau khi hoàn thành khách sạn cao 8 tầng với 101 phòng nghỉ hiện đại, tiện nghi, đạt tiêu chuẩn quốc tế, tất cả đều nhìn ra vịnh Hạ Long kỳ vĩ. Khách sạn thật nổi bật nhờ kiến trúc riêng biệt, độc đáo giữa một khu vực có mật độ khách sạn dày đặc nhất khu du lịch Bãi Cháy. Khách sạn Haritage-Hạ Long là khách sạn đầu tiên ở Quảng Ninh được tổng cục du lịch Việt Nam xếp hạng 4 sao và được đánh giá cao về cơ sở vật chất và dịch vụ. Khách sạn có hai nhà hàng Âu, á với tổng số 250 chỗ luôn sẵn sàng phục vụ những món đặc sản biển, một phòng họp quốc tế 300 chỗ trang thiết bị hiện đại đáp ứng được các cuộc họi thảo quốc tế, trung tâm chăm sóc phục hồi sức khoẻ, vip bar… đã tạo được sự đa dạng, thu hút khách đến nghỉ ngơi, vui chơi giải trí… Trong quá trình hoạt động của mình khách sạn cũng đã gặp không ít những khó khăn. Ngay từ những năm đầu khi mới đi vào hoạt động khách sạn đã phải những trở ngại đầu tiên đó là cuộc khủng hoảng tiền tệ châu á năm 1997. Khách du lịch đến Quảng Ninh giảm sút khiên công suất sử dụng buồng phòng quá thấp, khách sạn bị thua lỗ triền miên. Trong 2 năm 1998 và 1999 khách sạn đã phải cắt giảm ngày công lao động, tiền lương của một vài bộ phận nhân viên, nợ tiền điện, tiền thưởng của người lao động tới 3 tháng. Ngoài nguyên nhân do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng thì cũng do “ông chủ” người nước ngoài quá cứng nhắc khi ban hành cơ chế, giá cả đặt ra xa vời với thực tế thị trường. Trong khi các khách sạn nhà nước vẫn có khả năng thu hút được một lượng khách lớn thì Haritage-Hạ Long vẫn “vườn không nhà trống”. Bắt đầu từ năm 2000, sau khi Haritage-Hạ Long có vị giám đốc mới là người Việt Nam thì khách sạn bắt đầu “ăn nên làm ra”. Doanh thu trong năm đạt gần 1,45 triệu USD, tăng 25% so với năm 1999; công suất sử dụng buồng phòng đạt 68,5% tăng 47%. Khách sạn đã nộp ngân sách nhà nước 1,64 tỷ đồng, bước đầu có lãi là 311 triệu đồng và tạo ra thu nhập khá ổn định cho 165 nhân viên. Có được kết quả này là do khách sạn đã bám sát thị trường, áp dụng giá cả linh hoạt, ưu tiên khách Việt Nam nên thu hút đợc đông đảo khách nội địa. Theo dự tính đến hết năm 2001, khách sạn sẽ đón được 45.000 lượt khách, công suất sử dụng buồng phòng trên 70%. Mặc dù là một khách sạn liên doanh với nước ngoài nhưng tại Haritage-Hạ Long đang tồn tại một chi bộ Đảng và tổ chức công đoàn. Đây là một điểm sáng hiếm có trong các liên doanh nước ngoài tại Việt Nam. Tổ chức công đoàn của khách sạn rất quan tâm bảo vệ đời sống cho người lao động. Khách sạn không những mua bảo hiển y tế và đóng bảo hiểm xã hội mà còn mua cả bảo hiểm thân thể cho người lao động. Hiện nay, khách sạn đang áp dụng phương pháp quản lý mới phù hợp trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh, với mục tiêu đạt hiệu quả cao trongkinh doanh và đạt chất lượng dịch vụ quốc tế ngang tầm khu vực và thế giới. Có thể nói, khách sạn Haritage-Hạ Long hiện nay đang là một đại diện tiêu biểu trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực khách sạn của ngành du lịch Quảng Ninh. Trong khi Haritage-Hạ Long khá vất vả trong những bước đi đầu thì khách sạn liên doanh Hạ Long-Plaza lại đạt được những thành công đáng kể. Khách sạn Hạ Long-Plaza là liên doanh giữa công ty ĐTPTSX Hạ Long với đối tác Siam Infinity Import-Export của Pháp với tổng vốn đầu tư là 11 triệu USD. Khách sạn được bắt đầu khởi công xây dựng từ năm 1996 và đi vào kinh doanh từ năm 1998. Ngay từ năm đầu kinh doanh, khách sạn đã có lãi và nộp ngân sách nhà nước đầy đủ. Trong năm 2000, khách sạn đã đạt được tổng doanh thu hơn 1 triệu USD trong đó lãi 1,6 tỷ đồng và nộp cho ngân sách nhà nước 1,4 tỷ đồng. Công suất sử dụng buồng phòng ở Hạ Long-Plaza khá cao trên 70%, chủ yếu phục vụ cho đối tượng khách cao cấp với giá phòng trung bình trên 50 USD một đêm. Nằm ở một vị trí đẹp khách sạn Hạ Long-Plaza nổi bật với chiều cao 11 tầng gồm gần 200 phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế, trang bị hiện đại; là nơi thường xuyên được tổ chức các hội thảo quốc tế về Hạ Long. Các dịch vụ bổ trợ như nhà hàng, khu thể thao, vui chơi giải trí của khách sạn luôn làm thỏa mãn những vị khách khó tính nhất. Đội ngũ nhân viên phục vụ tại khách sạn đều là những người có tay nghề cao bao gồm 145 nhân viên, đời sống được quan tâm chu đáo. Các dịp lễ tết của Việt Nam khách sạn đều có những mức thưởng xứng đáng. Đây có thể coi là một điển hình kinh doanh có hiệu quả của các liên doanh tại Quảng Ninh trong lĩnh vực du lịch. Bên cạnh 2 khách sạn liên doanh trên, một số khách sạn khác cũng đã đi vào hoạt động như: khách sạn Hải Ninh-Lợi Lai tại thị xã Móng Cái là liên doanh giữa công ty ngoại thương Hải Ninh và công ty Profit Come E,D của Thượng Hải, Trung Quốc; khách sạn Hồng Hải tại thành phố Hạ Long là liên doanh giữa công ty du lịch dịch vụ Hòn Gai với đối tác là công ty mậu dịch Bắc Hải, Trung Quốc… ngoài ra còn khá nhiều liên doanh khách sạn khác đang trong quá trình xây dựng: khách sạn Intuordeco thành phố Hạ Long giữa công ty xuất nhập khẩu Quảng Ninh và Gor Hock Guan của Hàn Quốc có vốn đầu tư lớn nhất vào du lịch Quảng Ninh là 68 triệu USD; 1 khách sạn 5 sao vừa mới được khởi công ở Móng Cái ngày 4/11/2000 là kết quả của sự hợp tác giữa công ty đầu tư và phát triển khách sạn Móng Cái và công ty PanFord của Hồng Kông với tổng vốn đầu tư là 26,8 triệu USD, là một trong 3 công trình có vốn đàu tư nước ngoài vào du lịch lớn nhất tại Quảng Ninh; một khách sạn nổi liên doanh với Hồng Kông dự kiến sẽ hoàn thành vào tháng 12 năm nay tại Tuần Châu… Ngoài ra, trong kho “dự trữ” của hệ thống khách sạn bên bờ Bãi Cháy còn một số dự án lớn được cấp giấy phép đầu tư như: khách sạn 5 sao của công ty quốc tế Hoàng Gia, làng biệt thự Royal… cho tới thời điểm này đã sẵn sàng tiến hành nhưng vẫn chưa có thể giải phóng được mặt bằng. Như vậy, cho đến nay số các dự án có vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực khách sạn ở Quảng Ninh hầu hết đã khởi công hoặc bước vào kinh doanh. Các dự án trong giai đoạn gần đây có quy mô và số vốn đầu tư rất lớn, chủ yếu là xây dựng khách sạn 5 sao. Trong tương lai gần, các khách sạn này sẽ đáp ứng cho nhu cầu lưu trú của số lượng khách lớn, đặc biệt là lượng khách du lịch quốc tế đến Hạ Long ngày càng tăng. Hiện nay, trong khi hầu như tất cả các tỉnh, thành phố trên cả nước đã bão hoà và thừa khách sạn (như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh…) thì ngược lại tại trung tâm du lịch Bãi Cháy, thành phố Hạ Long hiện tượng thiếu phòng khách sạn vẫn thường xuyên xảy ra nhất là vào các dịp tết, lễ hội và những ngày nghỉ cuối tuần. Hiện tại khu du lịch Bãi Cháy có 1600 phòng khách sạn các loại, trong đó có 1300 phòng đủ tiêu chuẩn đón khách quốc tế. Cho dù có khai thác hết công suất thì năng lực lưu trú của cả khu vực cũng chỉ phục vụ được 3000 lượt khách mỗi ngày. Trong khi đó váo các dịp lễ, tết, những ngày nghỉ cuối tuần nhất là vào những ngày hè, hệ thống khách sạn thường xuyên phải chịu áp lực quá tải, có lúc số lượng khách có nhu cầu lưu trú nhiều khi lên đến 4000-5000 người. Việc thiếu phòng là hoàn toàn tất yếu. Như vậy, đây vẫn thực sự là một mảnh đất màu mỡ cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài trong thế kỷ 21. 3.2.2.2 Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực vui chơi giải trí Có thể nói, lĩnh vực vui chơi giải là một khâu yếu kém của du lịch Việt Nam nói chung và Quảng Ninh nói riêng. Hình thức vui chơi giải trí đơn điệu, qui mô nhỏ, không có các khu vui chơi giải trí tổng hợp với nhiều hình thức vui chơi giải trí đa dạng, chính vì vậy làm hạn chế thời gian lưu trú của khách cũng như kết quả king doanh du lịch . Các trung tâm vui chơi giải trí hầu như không có hoặc mới chỉ đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch nội địa, phần lớn các khách du lịch quốc tế tới đây đều phàn nàn về điều này. Trong khi đó theo thống kê của các nước phát triển như Mỹ, Hồng Kông, Singapore… thì doanh thu từ vui chơi giải trí luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu từ du lịch , chỉ đứng sau doanh thu từ lưu trú. Tính đến nay, trong lĩnh vực vui chơi giải trí, với 10 triệu USD đã bỏ ra, công viên quốc tế Hoàng Gia được coi là dự án đầu tư lớn nhất phục vụ cho trung tâm du lịch Hạ Long. Công viên quốc tế Hoàng Gia là một phần trong dự án liên doanh giữa công ty xuất nhập khẩu Hòn Gai và công ty Mĩ Lai của Đài Loan với tổng vốn đầu tư là 39 triệu USD. Công viên được bắt đầu khởi công xây dựng từ cuối năm 1994 tại một vị trí đẹp nhất dọc theo bờ biển Bãi Cháy dài 1,5 km,rộng 8 ha. Công viên gồm 3 khu chính là: Khu A, được gọi là bãi tắm tự do, có chiều dài 400 m. Trên cơ sở bãi tắm Bãi Cháy cũ công ty đã đổ trên 10 vạn m3 cát sạch được trở từ mỏ cát Vân Hải về. Khu này được phục vụ miễn phí cho các du khách. Khu B và khu C là khu trung tâm của công viên, là nơi mà công ty tập trung đầu tư. Bên trong khu B được đầu tư rất công phu: tất cả từ cỏ, c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28769.doc
Tài liệu liên quan