Đề án Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp, phân tích tình hình đầu tư trong doanh nghiệp nhà nước

Quy mô vốn đầu tư: DNNN đã góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần; chi phối được những ngành và lĩnh vực then chốt; là lực lượng nòng cốt trong tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đóng góp cho ngân sách nhà nước; bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô. Qua tổ chức, sắp xếp lại, số lượng DNNN đã giảm mạnh từ khoảng 12300 doanh nghiệp đầu những năm 90 xuống còn khoảng 5200 doanh nghiệp vào cuối năm 2003, chiếm 8,5% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên phạm vi toàn quốc ở tất cả các khu vực kinh tế. Hàng năm, DNNN đóng góp khoảng 70% giá trị xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế, khoảng 55 - 60% tổng nguồn thu trong nước (bao gồm các khoản thuế gián thu, các khoản phí, lệ phí). Tốc độ tăng trưởng bình quân 10 năm ( 1991 - 2000) là 11%. Hiện nay, khu vực DNNN có khoảng 2,2 triệu người, tăng 4,1%/ năm, số lao động bình quân 1 DNNN là 421 người.

Năm 2002 có khoảng 83% DNNN làm ăn có lãi. Năm 2003, số DNNN làm ăn có lãi là 77,2% và tính đến 31/12/2004, 80% trong tổng số gần 4000 DNNN làm ăn có lãi. Tổng số thu vào ngân sách từ khối DNNN đạt 33000 tỷ đồng, tăng 15% so với năm 2003.

 

docx24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1768 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp, phân tích tình hình đầu tư trong doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hương hiệu có uy tín mang lạI cơ hộI đầu tư, thu hút đầu tư và quan trọng nhất là chiếm lĩnh được thị phần cho doanh nghiệp. Chi phí cho hoạt động marketing, củng cố uy tín và phát triển thương hiệu: - Chi phí cho quảng cáo (chiếm một tỉ phần không nhỏ trong tổng chi phí và tổng lợI nhuận). - Chi phí cho tiếp thị, khuyến mãi. - Chi phí cho nghiên cứu thị trường, xây dựng và củng cố uy tín và phát triển thương hiệu ( vì một thương hiệu tốt thì phải có cách tiếp thị và truyền thông tốt). - Việc đầu tư phát triển thương hiệu cần phải được xây dựng thành một chiến lược và có sự giúp đỡ của những chuyên gia. Nếu không, nó sẽ là con dao hai lưỡi. - Hình thành Quỹ đầu tư phát triển thương hiệu và mở rộng thị phần kinh doanh trích từ các khoản thu của doanh nghiệp. Đầu tư cho chất lượng sản phẩm: Đặc trưng: Trong sản xuất kinh doanh nói chung, doanh nghiệp luôn phảI đốI mặt và cân nhắc giữa chất lượng sản phẩm và lợI nhuận, hơn nữa là siêu lợI nhuận. Vậy để dung hòa tốt nhất giữa hai mặt đó của mục tiêu sản xuất, nhất thiết phảI nắm rõ về bản chất của chất lượng sản phẩm. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng sản phẩm. Có ý kiến cho rằng sản phẩm có chất lượng chỉ khi nó đáp ứng được đúng mức hoặc vượt mức yêu cầu trung bình chung. Một ý kiến khác cho rằng sản phẩm được cho là có chất lượng khi nó thỏa mãn được nhu cầu của ngườI tiêu dùng. Sau đây là một số định nghĩa của các tổ chức lớn trên thế giớI: - Theo tổ chức kiểm tra chất l ượng Châu Âu: chất lượng là mức phù hợp với sản phẩm đốI vớI yêu cầu của ngườI tiêu ùng. - Theo ISO 9000 – 2000 : chất lượng sản phẩm là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có của một sản phẩm, hệ thống hoặc quá trình thỏa mãn các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan. Trong đó yêu cầu là những nhu cầu hay mong muốn đã được công bố, ngầm hiểu chung hay bắt buộc. Các bên có liên quan gồm khách hàng nộI bộ, các nhân viên của tổ chức, những ngườI cung ứng nguyên nhiên vật liệu, luật pháp… Trên thực tế, nhu cầu có thể thay đổi theo thời gian, vì thế, cần xem xét định kỳ các yêu cầu chất lượng để có thể bảo đảm lúc nào sản phẩm của doanh nghiệp làm ra cũng thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng. Các nhu cầu thường được chuyển thành các đặc tính với các tiêu chuẩn nhất định. Nhu cầu có thể bao gồm tính năng sử dụng, tính dễ sử dụng, tính sẵn sàng, độ tin cậy, tính thuận tiện và dễ dàng trong sửa chữa, tính an toàn, thẩm mỹ, các tác động đến môi trường. Các doanh nghiệp sản xuất hoặc mua sản phẩm để bán lại trên thị trường cho người tiêu dùng nhằm thu được lợi nhuận, vì thế, quan niệm của người tiêu dùng về chất lượng phải được nắm bắt đầy đủ và kịp thời. Như vậy, một cách tổng quát, chúng ta có thể hiểu chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu. Sự phù hợp nầy phải được thể hiện trên cả 3 phương diện , mà ta có thể gọi tóm tắt là 3P, đó là : Performance hay Perfectibility : hiệu năng, khả năng hoàn thiện; Price : giá thỏa mãn nhu cầu; Punctuallity : đúng thời điểm. Vai trò ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng sản phẩm: Cạnh tranh bằng chất lượng - xu thế để phát triển bền vững . - Chất lượng luôn là nhân tố quan trọng, một trong những nhân tố quyết định khả năng sản suất của doanh nghiệp trên thị trường. Chất lượng hàng hóa tốt sẽ giúp doanh nghiệp tạo uy tín, danh tiếng tốt tớI người tiêu dùng, là cơ sở cho sự tồn tạI và phát triển cho doanh nghiệp. - Tăng chất lượng sản phẩm tương đương v ớI tăng năng suất lao động, giảm nguyên liệu sử dụng, tiết kiệm tài nguyên và giảm ô nhiễm môi trường. - Nâng cao chất lượng sản phẩm còn là biện pháp hữu hiệu kết hợp các loạI lợI ích của doanh nghiệp, ngườI tiêu ùng, ng ườI lao động và toàn xã hội. - Nâng cao chất lượng cũng đồng nghĩa v ớI giảm tỉ lệ phế phẩm, sử dụng tốt nguyên liệu, máy móc thiết bị, nâng cao năng suất, mở rộng thị trường nhờ chất lượng tốt hơn và giá cả cạnh tranh hơn. Từ đó tăng khả năng sản xuất, tăng thu nhập cho ngườI lao động. Chi phí cho đầu tư nâng cao chất l ượng ản phẩm: Chi phí đầu tư cho chất lượng sản phẩm rất đa dạng, nhiều loạI, đôi khi khó bóc tách , tính toán đầy đủ. Nh ững chi phí này đôi khi rất lớn nhưng hiệu quả mang lạI cũng rất cao. Đầu tư cho nâng cao chất lượng sản phẩm thường sẽ mang lạI lợI nhuận tăng thêm nhiều hơn so v ớI mở rộng số lượng sản phẩm. - Chi phí thêm để mua sắm máy móc thiết bị hiện đạI phù hợp: Đây là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để có thể tạo ra được sản phẩm tốt, đáp ứng nhu cầu của ngườI tiêu dùng, đáp ứng tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. - Chi phí thêm cho khâu mua sắm nguyên vật liệu: Chất lượng sản phẩm còn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng nguyên vật liệu được sử dụng. - Chi phí cho công tác kiểm tra: Đó là những chi phí để mua máy móc trang thiết bị, trả lương cho nhân viên thực hiện công tác kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu, sản phẩm, máy móc thiết bị sản xu ất. - Chi phí đào tạo lao động: Trình độ của ngườI lao động ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Việc có một độI ngũ lao động thích nghi vớI máy móc thiết bị của doanh nghiệp là vô cùng quan trọng bảo đảm tính an toàn, chuyên nghiệp. Đầu tư cho tài sản vô hình khác: Có thể nói tài sản vô hình, chứ không phảI là tiền, chính là tài sản quan trọng nhất của doanh nghiệp. Ngoài KH&CN, thương hiệu, thì doanh nghiệp còn có và cần ph ảI có những tài sản vô hình khác nữa. Và việc đầu tư cho nh ững tài sản vô hình đó là đầu tư phát triển , vì khi đã đầu tư hiệu quả , nó luôn duy trì và gia tăng giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp. Đó là: - Đầu tư vào quyền sử dụng đất: Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật. Chủ sở hữu có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Quyền sử dụng là quyền của chủ sở hữu khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản, chỉ là một trong ba quyền của chủ sở hữu. Tại Việt Nam, hiện nay quyền sở hữu đất đai thuộc về Nhà nước, mọi công dân, tổ chức, công ty … chỉ có quyền sử dụng đất. Sau khi một dự án được phê duyệt, việc đầu tiên cần làm đ ốI v ớI tất cả các chủ đầu tư là xin cấp (với doanh nghiệp nhà nước) hoặc mua (với các doanh nghiệp khác) quyền sử đất. Do đó đây là hoạt động đầu tư đầu tiên làm tăng giá trị tài sản cho doanh nghiệp - giá trị tài sản hữu hình. - Chi phí cho việc thành lập doanh nghiệp: Bao gồm các chi phí thăm dò, lập dự án, chi phí huy động vốn đầu tư ban đầu, các chi phí xây dựng nhà xưởng, mua máy móc thiết bị ban đầu. Việc mở rộng sản xuất kinh doanh vớI việc xây dựng mớI thêm nhà xưởng, thiết bị, tăng thêm chi phí nhân công… cũng chính là hoạt động đầu tư phát triển. - Đầu tư cho hoạt động quản lí: Một bộ máy tinh giản gọn nhẹ nhưng hoạt động trơn tru và nhịp nhàng sẽ vừa hiệu quả hơn vừa tiết kiệm một khoản chi phí rất lớn cho doanh nghiệp. - Đầu tư cho bằng phát minh sáng chế: Bằng phát minh, sáng chế hay bản quyền là những tài sản vô hình quan trọng của doanh nghiệp. Nó tạo ra thế mạnh và lợI thế ạnh tranh cho doanh nghiệp trên thị trường. Đầu tư cho lĩnh vực này chính là đầu tư phát triển. VI.Đầu tư trong doanh nghiệp nhà nước - những đặc trưng chủ yếu Doanh nghiệp nhà nước được đặc trưng bởI chính khái niệm, vai trò và mục tiêu của nó. Chính bởI vậy hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước cũng nhằm mục đích để đạt được mục tiêu đó. Khái niệm: DNNN là những cơ sở kinh doanh do nhà nước sở hữu hoàn toàn hay một phần. Quyền sở hữu thuộc về nhà nước là đặc điểm phân biệt DNNN với DN trong khu vực tư nhân, còn hoạt động kinh doanh là đặc điểm phân biệt chúng với các tổ chức và cơ quan khác của chính phủ. Vai trò và mục tiêu của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế: DNNN là một thực thể kinh tế được thừa nhận ở hầu hết các nước trên thế giới và giữ vai trò như một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước, vừa thực hiện chức năng kinh tế, vừa làm một phần chức năng xã hội. ở hầu hết tất cả các nước dù là tư bản chủ nghĩa hay chủ nghĩa xã hội thì doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân luôn tồn tại cùng song song phát triển.Hiện nay đã có rất nhiều người phàn nàn về sự làm ăn kém hiệu quả của các DNNN so với các DN tư nhân nhưng người ta không tìm cách loại bỏ nó mà tập trung vào tìm giải pháp để cải tạo các DNNN làm ăn có hiệu quả hơn bởi vì sự tồn tại của các DNNN vẫn có những vai trò nhất định. Thứ nhất: DNNN đi đầu trong hoạt động đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn kinh doanh phức tạp và giải quyết các vấn đề xã hội.Vai trò này thể hiện sự khai thông và mở đường của DNNN đối với các DNNN khác, đi đầu trong các lĩnh vực kinh doanh sử dụng công nghệ cao, lao động có trình độ chuyên môn cao và lượng vốn đầu tư lớn.Đây là những lĩnh vực mũi nhọncủa cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.Đồng thời , DNNN là những chủ thể đi đầu trong phục vụ nông nghiệp như tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp, cung cấp công nghệ chế biến cho nông nghiệp và các loại máy móc, công nghệ phân bón cho nông nghiệp.Nước ta có dân số ở nông thôn và làm nghề nông lớn .Vì vậy, việc phát huy vai trò của các DNNN sé tạo điều kiện để phát triển mạnh lĩnh vực nông nghiệp và phát huy nội lực của lĩnh vực nông nghiệp.Ngoài ra, các DNNN đi đầu trong việc giải quyết các vấn đề xã hội như hoạt động ủng hộ bão lụt, cứu đói, các công việc có tính chất đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, “kỷ cương, tình thương , trách nhiệm”. Hơn nữa ,DNNN còn đi đầu trong việc đầu tư vào vùng sâu, vùng xa, hải đảo, biên giới, nơi mà các loại hình doanh nghiệp khác khó có đủ nhiệt tình để vươn tới.Một khía cách không kém phần quan trọng nữa là các DNNN là những đơn vị đầu trong quá trình liên danh, liên kết với nước ngoài và trong thực hiện cam kết quốc tê. Chẳng hạn khi tham gia AFTA, DNNN là nhừng đơn vị đầu trong việc thực hiện cam kết về cắt giảm thuế, cải tiến các mặt hàng kinh doanh và canh tranh trực tiếp với các doanh nghiêp ở các nước khác.Trong điều kiện Việt Nam đang có chiến lược thúc đẩy sản xuất và tích cực tìm kiếm thị trường và bạn hàng nước ngoài thì DNNN phải là những chủ thể đi đầu trong hoạt động này.DNNN còn cần phải đóng vai trò là những chủ thể đi đầu trong việc thưcj hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nứơc. Thứ hai, các DNNN phải lắm giữ vai trò lành đạo nền kinh tế, bảo đảm an ninh quốc gia, quốc phòng toàn dân.Các DNNN là chỗ dựa để Đảng thực hiện quyền thống lình, lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối đối với nền kinh tế.Đồng thời, các DNNN đóng vai trò là người “anh cả” hướng dẫn và tạo điều kiện cho các DN thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển và vươn lên trong cạnh tranh.DNNN phải là hình mẫu cho sự phát triển của các DN khác và là đại diện cho một phương thức kinh doanh và quản lý mang đặc thù Việt Nam.Liên quan đến khía cạnh này, các DNNN có khả năng chi phối rất lớn đến sự vận động của thị trường, ảnh hưởng đến cung cầu những mặt hàng thiết yếu của dân cư. Thứ ba, DNNN làm trọng điểm đầu tư để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá , hiện đại hoá.Mục tiên của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tăng trưởng nhanh và phát huy có hiệu quả cao nội lưch của từng doanh nghiệp trong điều kiện các yếu tố bên ngoài đã giảm tác dụng đáng kể.Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện chủ yếu ở việc thiết lập một cơ cấu kinh tế mới với những ngành công nghiệp mới có trình độ công nghệ cao, cho ra đời các thế hệ sản phẩm mới có khả năng sinh lợi lớn, có triển vọng phát triển lâu dài và khai thác có hiệu quả các nguồn lực phát triển cũng như các lợi thế so sánh của đất nước. Đồng thời, các ngành sản phẩm truyền thống vẫn được duy trì khả năng giải quyết các vấn đề xã hội và bảo đảm thu nhập cho một bộ phận dân cư cũng như việc tạo ra một khối lượng sản phẩm nhất định cho xã hội. Thứ tư, các DNNN có khả năng cạnh tranh quốc tế cao trên thị trường trong và ngoài nước về giá cả, chất lượng, dịch vụ trong ngắn hạn và dài hạn. Đây là một trong những lợi thế quan trọng của DNNN so với các loại hình DN khác.Trước hết, DNNN phải tạo ra những sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam có đặc điểm độc đáo đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng trong nứơc và nước ngoài.Tiếp đến, chất lượng sản phẩm do các DNNN sản xuất phải đạt trình độ quốc tế, bảo đảm ổn định lau dài và được cải tiến liên tục, được chứng nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.Đồng thời, phương thức giao hàng, giá cả thoả đáng cũng như hoạt động dịch vụ sau bán hàng phát triển thích hợp với xu thế kinh doanh hiện nay. Thứ năm, hiệu quả kinh doanh của các DNNN phải cao do những lợi thế đặc thù củ nó như lợi thế về cơ chế, vốn đầu tư,những ưu đãi của chính phủ, lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao.Đây là hệ quả của các đặc điểm nói trên. Hiệu quả này thể hiện trước hết tỷ suất lợi nhuộn cao, tốc độ quay vòng vốn nhanh, dự báo và kiểm soát được cá loại rủi ro trong kinh doanh và gây dựng được chữ tín trong kinh doanh với bạn hàng trong nứơc và quốc tế.Trong giai đoạn chuyển đổi hiện nay, đặc điểm này có thể chưa được biểu hiên rõ nhưng về lâu dài, đây phải là đặc đỉêm nổi bật của các DNNN. Từ những yếu tố trên cần xây dựng một hệ thống các DNNN đóng vai trò chủ đạo theo đúng bản chất của nó đồng thời thích hợp với điều kiện phát triển của kinh tế trong nước và quốc tế. Chương 2 : Tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghịêp nhà nước ở Việt Nam. I.Tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. 1.Tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. a. Quy mô vốn đầu tư: DNNN đã góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần; chi phối được những ngành và lĩnh vực then chốt; là lực lượng nòng cốt trong tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đóng góp cho ngân sách nhà nước; bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô. Qua tổ chức, sắp xếp lại, số lượng DNNN đã giảm mạnh từ khoảng 12300 doanh nghiệp đầu những năm 90 xuống còn khoảng 5200 doanh nghiệp vào cuối năm 2003, chiếm 8,5% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên phạm vi toàn quốc ở tất cả các khu vực kinh tế. Hàng năm, DNNN đóng góp khoảng 70% giá trị xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế, khoảng 55 - 60% tổng nguồn thu trong nước (bao gồm các khoản thuế gián thu, các khoản phí, lệ phí). Tốc độ tăng trưởng bình quân 10 năm ( 1991 - 2000) là 11%. Hiện nay, khu vực DNNN có khoảng 2,2 triệu người, tăng 4,1%/ năm, số lao động bình quân 1 DNNN là 421 người. Năm 2002 có khoảng 83% DNNN làm ăn có lãi. Năm 2003, số DNNN làm ăn có lãi là 77,2% và tính đến 31/12/2004, 80% trong tổng số gần 4000 DNNN làm ăn có lãi. Tổng số thu vào ngân sách từ khối DNNN đạt 33000 tỷ đồng, tăng 15% so với năm 2003. Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các D.nghiệp 2000 2001 2002 2003 2004 Đơn vị: tỷ đồng Doanh nghiệp Nhà nước 670234 781705 858616 932942 1128484 DNNN trung ương 577990 679891 734004 798163 968447 DNNN địa phương 92244 101814 124612 134779 160037 Doanh nghiệp ngoài Nhà nước 98348 142202 202341 289625 422892 Tập thể 7887 8179 9486 10882 12771 Tư nhân 15828 21498 27229 34397 43222 Công ty hợp danh 5 84 1422 124 Công ty TNHH 44491 65308 99728 139444 204534 Công ty cổ phần có vốn Nhà nước 10417 27211 39106 56094 76992 Công ty cổ phần không có vốn Nhà nước 19725 20001 26708 47386 85249 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 229841 262107 291120 344611 414789 DN 100% vốn nước ngoài 83902 106832 131896 160949 217653 DN liên doanh vớI nước ngoài 145939 155275 159224 183662 197136 Tổng số 998423 1186014 1352077 1567178 1966165 Doanh nghiệp Nhà nước 67.13 65.91 63.5 59.53 57.4 DNNN trung ương 57.89 57.33 54.29 50.93 49.26 DNNN địa phương 9.24 8.58 9.22 8.6 8.14 Doanh nghiệp ngoài Nhà nước 9.85 11.99 14.97 18.48 21.51 Tập thể 0.79 0.69 0.7 0.69 0.65 Tư nhân 1.59 1.81 2.01 2.19 2.2 Công ty hợp danh 0 0.01 0.09 0.01 Công ty TNHH 4.46 5.51 7.38 8.9 10.4 Công ty cổ phần có vốn Nhà nước 1.04 2.29 2.89 3.58 3.92 Công ty cổ phần không có vốn Nhà nước 1.98 1.69 1.98 3.02 4.34 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 23.02 22.1 21.53 21.99 21.1 DN 100% vốn nước ngoài 8.4 9.01 9.76 10.27 11.07 DN liên doanh vớI nước ngoài 14.62 13.09 11.78 11.72 10.03 TỔNG SỐ 100 100 100 100 100 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Tuy nhiên, theo nghiên cứu năm 2006, tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước có nhiều đổi mới. Năm 2006, cả nước chỉ còn 3,61% là doanh nghiệp nhà nước, tuy số lượng ít nhưng doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả cao hơn, số liệu cụ thể như sau: doanh nghiệp nhà nước vẫn là nơi thu hút nhiều lao động (32,7%), đóng góp nhiều nhất cho ngân sách nhà nước (gần 41%), là nơi tập trung nguồn vốn lớn(54%) và có lợi nhuận cao (hơn 41%). Số vốn đầu tư trong doanh nghịêp nhà nước trung bình tăng từ 130 tỷ năm 2000 lên 335 tỷ năm 2005, sốlượng lao động tăng từ 363 người năm 2000 lên 499 người năm 2005. b.Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư: Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2003 có khoảng 13,5% DNNN thua lỗ. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn kinh doanh của khối DNNN năm 2003 là 10,8%, tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn kinh doanh chỉ là 7,34%. Tổng số nộp ngân sách là 87.000 tỷ đồng nhưng phần thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ có 8.000 tỷ đồng. Nợ xấu trong năm 2003 còn khoảng 4.900 tỷ đồng. Lao động dôi dư vẫn còn khoảng 20%. Đến 31/12/2004, trong tổng số gần 4000 DNNN thì số đơn vị thua lỗ, hòa vốn vào khoảng 800 đơn vị, chiếm 20%. Nhiều tổng công ty có số vốn lũy kế lớn như: Tổng Công ty Cà phê 610 tỷ đồng, Tổng Công ty Giấy 200 tỷ đồng, các Tổng Công ty Xây dựng giao thông 810 tỷ đồng. c. Khả năng công nghệ hiện tại trong các doanh nghiệp nhà nước. Các DNNN của ta hiện nay phần lớn đang sử dụng những máy móc thiết bị cũ, lạc hậu, làm cho năng suất lao động không cao, chất lượng sản phẩm thấp, dẫn đên giá sản phẩm cao. Nếu so sánh với doanh nghiệp của các nước trong khu vực, phần lớn các DNNN của nước ta có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu, trình độ tay nghề của đội ngũ công nhân nói chung còn thấp. Tài sản cố định bình quân cho một lao động của mỗi DNNN chỉ 40 - 50 triệu đồng, trong đó gần một nửa số doanh nghiệp chỉ đạt 20 triệu đồng. Trình độ công nghệ của nước ta hiện tụt hậu khoảng 25 - 30 năm so với Thái Lan và một số nước khác trong khu vực, dẫn đến chi phí đầu vào cao hơn 30 - 50% so với các đối tác sản xuất cùng loại hàng hóa. Theo đánh giá sơ bộ, có khoảng 20% doanh nghiệp thường xuyên kinh doanh thua lỗ, 30% thất thường và 30% có lãi. Số các doanh nghiệp làm ăn có lãi thường là những doanh nghiệp độc quyền kinh doanh của Nhà nước như: bưu chính - viễn thông, điện lực, xăng dầu... vì thế cũng không phản ánh đúng thực lực kinh doanh. 2.Tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. a. Đầu tư xây dựng cơ bản: Xây dựng cơ bản là hoạt động quan trọng nhất của doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư. Đầu tư xây dụng cơ bản có vai trò quyết định trong việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho doanh nghiệp, là nhân tố quan trọng góp phần nâng cao năng lực sản xuất cho doanh nghiệp. Cùng với việc tăng trưởng nền kinh tế thì tốc độ đô thị hóa xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật ở nước ta cũng tăng một cách nhanh chóng, bộ mặt đất nước ngày càng thay đổi. Nhà nước đã đẩy mạnh việc đầu tư xây dựng cơ bản, tăng cường đầu tư vốn từ ngân sách cho các công trình, các ngành của nền kinh tế. Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản trong các DNNN cũng liên tục tăng trưởng và phát triển nhanh chóng, tạo ra nhiều thành tựu to lớn, nhiều công trình, nhiều tài sản quan trọng cho đất nước. Thế nhưng cũng từ việc đầu tư xây dựng cơ bản, còn rất nhiều vấn đề bức xúc mà cả xã hội đều quan tâm, đặc biệt là thất thoát, lãng phí vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đang tồn tại trong tất cả các khâu, từ khâu khảo sát, thiết kế đến khâu tổ chức đấu thầu, quản lý các chủ đầu tư. Tỷ lệ thất thoát vốn đầu tư trung bình là hơn 10%, cá biệt có công trình, dự án thất thoát đến 60%. b. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực: Nhân tố con người là nhân tố không thể thiếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nó là nhân tố chính đảm bảo sự ổn đinh của sản xuất và tính đồng bộ của đổi mới công nghệ. Do đó, đầu tư phát triển nguồn nhân lực là đòi hỏi tất yếu. Hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước đang sử dụng khoảng 3triệu lao động, nhưng năng suất lao động trong các doanh nghiệp này còn thấp, trình độ công nhân hạn chế do đó hiệu quả kinh tế không cao. Có thể thấy rõ rằng lao động tuy nhiều nhưng chất lượng lao động không cao, luôn khan hiếm lao động có trình độ chuyên môn cao và công nhân có tay nghề. Và một lực lượng đóng vai trò quan trọng đối với sự thành công của doanh nghiệp chính là đội ngũ quản lý, nhưng trình độ đội ngũ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp chưa cao, chua được đào tạo chuyên sâu về kinh tế và kinh doanh trong môi trường của nền kinh tế thị trường. Thực trạng đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực được thể hiện qua các nội dung chủ yếu gồm: Một: công tác đào tào và đào tạo lại nguồn nhân lực cho doanh nghiệp. Để đáp ứng nhu cầu của về lao động của doanh nghịêp, ngoài việc thu hút lao động giỏi từ các trường ĐH và Cao đẳng, các trường Trung học chuyên nghiệp, … các doanh nghiệp đã hình thành nên quỹ đào tạo nghề cho cán bộ công nhân viên. Ví dụ như tổng công ty xây dựng Vinaconex, Tổng công ty Bưu chính viễn thông, Tổng công ty Than, … Mặc dù nguồn vốn cho đào tạo đã tăng nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu về chỉ tiêu đào tạo, định mức cho đào tạo nghề hiện nay rất thấp nhưng cũng chỉ cung cấp được 60% và đầu tư dàn trải, hiệu quả kém. Hai: quan tâm đến đào tạo lại và giải quyết lao động dôi dư. Để phát triển doanh nghiệp phải tiến hành đổi mới cơ cấu tổ chức, đổi mới công nghệ và vấn đề lao động dư dôi là một thực tế khách quan cần được quan tâm giải quyết. Để giải quyết vấn đề lao động dư dôi cho nên chi phí để thực hiện đào tạo lại và đào tạo nghề mới cho lao động dư dôi là một khoản đầu tư không nhỏ. Ba: Trả lương phù hợp với chất lượng và lượng lao động của người lao động hay noi cách khác là có chế độ đãi ngộ tốt để giữ lao động chất lượng cao và thu hút nhân tài về với doanh nghiệp. Hiện tượng chảy máu chất xám xảy ra gây tổn thất cho doanh nghiệp và xã hội. Do đó, xây dựng và thực hiện chế độ đãi ngộ tốt là phương án duy nhất để đầu tư và phát triển nguồn nhân lực bền vững và lâu dài cho doanh nghiệp. Tổng số lao động trong các doanh nghiệp tại thời điểm 31/12 hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp 2000 2001 2002 2003 2004 Người TỔNG SỐ 3536998 3933226 4657803 5175092 5770201 Doanh nghiệp Nhà nước 2088531 2114324 2260306 2264942 2249902    Trung ương 1301210 1351478 1444420 1463954 1517391    Địa phương 787321 762846 815886 800988 732511 Doanh nghiệp ngoài Nhà nước 1040902 1329615 1706409 2049891 2475448    Tập thể 182280 152353 159916 160949 157831    Tư nhân 236253 277562 339638 378087 431912    Công ty hợp danh 113 56 474 655 445    Công ty TNHH 516796 697869 922569 1143055 1393713    Công ty cổ phần có vốn Nhà nước 61872 114266 143899 160879 184050    Công ty cổ phần không có vốn Nhà nước 43588 87509 139913 206266 307497 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 407565 489287 691088 860259 1044851    DN 100% vốn nước ngoài 285975 364283 536276 687725 865175    DN liên doanh với nước ngoài 121590 125004 154812 172534 179676 Cơ cấu (%) TỔNG SỐ 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 Doanh nghiệp Nhà nước 59.05 53.76 48.53 43.77 38.99    Trung ương 36.79 34.36 31.01 28.29 26.30    Địa phương 22.26 19.39 17.52 15.48 12.69 Doanh nghiệp ngoài Nhà nước 29.42 33.80 36.64 39.61 42.90    Tập thể 5.15 3.87 3.43 3.11 2.74    Tư nhân 6.68 7.06 7.29 7.31 7.48    Công ty hợp danh 0.00 0.00 0.01 0.01 0.01    Công ty TNHH 14.61 17.74 19.82 22.09 24.15    Công ty cổ phần có vốn Nhà nước 1.75 2.91 3.09 3.11 3.19    Công ty cổ phần không có vốn Nhà nước 1.23 2.22 3.00 3.99 5.33 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 11.53 12.44 14.83 16.62 18.11    DN 100% vốn nước ngoài 8.09 9.26 11.51 13.29 14.99    DN liên doanh với nước ngoài 3.44 3.18 3.32 3.33 3.12 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Trong những năm 2005, 2006 số lao động đã được tinh giản dần dần nhằm giảm bớt chi phí, tăng hiệu quả lao động. c. Đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển: Đối với doanh nghiệp, việc đầu tư đổi mới công nghệ là nhiệm vụ hết sức cấp thiết để nâng cao hiểu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển. Tỷ lệ đầu tư cho doanh nghiệp nhà nước là rất thấp và chủ yếu được huy động từ nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Đối với DNNN, nhiều tổng công ty đã quan tâm đến công tác phát triển KHCN, chú trọng các đề tài nghiên cứu phục vụ trực tiếp cho sản xuất như cải tiến thiết bị, tiếp nhận và chuyển giao công nghệ mới, làm chủ công nghệ hiện đại nhằm tạo ra nhiều sản phẩm mới, nâng cao chất lượng hàng hóa, tiết kiệm năng lượng, cải thiện môi trường. Tuy nhiên việc đổi mới thiết bị còn rất chậm. Đầu tư cho KHCN của DNNN còn rất nhỏ bé so với tỷ lệ đầu tư cho

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxban_chinh__KTDT_nhom_11_KTDT46B.docx
Tài liệu liên quan