Mục lục
Lời mở đầu 1
Phần một : Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình toàn cầu hóa. 2
1.1- Toàn cầu hóa, bản chất và tác dụng của nó. 2
1.1.1- Quan niệm về toàn cầu hóa 2
1.1.2- Bản chất và đặc điểm của toàn cầu hóa 2
1.1.3- Tác dụng của toàn cầu hóa kinh tế. 3
1.2- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) 5
1.2.1- Khái niệm, bản chất và đặc điểm của FDI 5
1.2.2- Tác dụng của FDI 7
1.3- Việc làm và tạo việc làm cho người lao động. 8
1.3.1- Một số khái niệm 8
1.3.2- Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động 11
1.4- Tác động của FDI với vấn đề tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình toàn cầu hóa. 12
1.4.1-Về mặt số lượng: 12
1.4.2- Về mặt chất lượng: 13
Phần hai : Thực trạng về đầu tư trực tiếp nước ngoài với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa. 15
2.1- Ảnh hưởng của tiến trình toàn cầu hóa đối với Việt Nam. 15
2.2- Tình hình thu hút và thực hiện FDI ở Việt Nam 15
2.3- Thực trạng về lao động, việc làm và thất nghiệp ở Việt Nam trong những năm qua. 16
2.3.1- Nguồn lao động: 16
2.3.2- Việc làm và tình hình tạo việc làm 17
2.3.3- Thất nghiệp ở Việt Nam. 18
2.4- Vấn đề tạo việc làm thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại Việt Nam hiện nay. 19
2.4.1 Về mặt số lượng: 19
2.4.2 Về mặt chất lượng: 20
2.5- Những hạn chế tạo việc làm thông qua FDI ở Việt Nam 21
2.6- Triển vọng thu hút FDI và tạo việc làm thông qua FDI năm 2007 của nước ta. 21
Phần ba : Những giải pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Viêt Nam. 23
3.1- Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam 23
3.2- Những giải pháp cơ bản nhằm tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam 25
3.3- Các giải pháp thu hút lao động làm việc trong khu vực FDI 27
Kết luận 29
Danh mục tài liệu tham khảo: 30
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2137 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ượng kinh tế-xã hội phổ biến ở các nước đang phát triển cũng như các nước công nghiệp tiên tiến. Theo đúng nghĩa của từ thất nghiệp là mất việc làm hay sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu sản xuất. Thất nghiệp luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia, nó không chỉ làm lãng phí “ tài sản” quý nhất là nguồn lực con người mà còn gây ra những hậu quả tâm lý- xã hội xấu đi kèm những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự không lường.
Phạm trù việc làm và thất nghiệp luôn gắn liền với phạm trù con người, do vậy hình thành nên khái niệm người có việc làm, người thiếu việc làm, người thất nghiệp.
Tại Hội nghị Quốc tế lần thứ 13 của Tổ chức Lao động quốc tế ( ILO) các nhà thống kê về Lao động đưa ra các khái niệm như sau:
Người có việc làm là người làm một việc gì đó được trả công, lợi nhuận bằng tiền hoặc hiện vật hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không nhận được tiền công hay hiện vật.
Người thiếu việc làm là người có số giờ làm việc trong tuần lễ điều tra dưới mức quy định chuẩn và họ có nhu cầu làm them.
Còn theo tài liệu điều tra lao động- việc làm hang năm của Bộ Lao động , Thương binh và Xã hội thì khái niệm người thất ngiệp như sau: Người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên thuộc nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sang làm việc nhưng không tìm được việc làm, được xác định dựa trên yếu tố:
Có hoạt động đi tìm việc làm trong 4 tuần qua; hoặc không có hoạt động đi tìm việc làm trong 4 tuần qua vì các lý do không biết tìm ở đâu hoặc tìm mãi không được.
Hoặc trong tuần lễ trước điều tra có tổng số giờ việc làm dưới 8 tiếng, muốn làm thêm nhưng không tìm được việc.
Tạo việc làm:
Xét về bản chất thì việc làm là trạng thái phù hợp giữa hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất bao gồm cả về mặt số lượng và chất lượng. Nhưng đây mới chỉ là điều liện cần thiết để có việc làm vì trạng thái phù hợp này còn cần nhiều yếu tố khác. Do vậy, tạo việc làm là một quá trình trong đó việc tạo ra chỗ làm việc và thu hút người lao động vào làm việc mới chỉ là khâu đầu tiên của quá trình đó, Chính vì vậy, tạo việc làm là quá trình:
Một là, tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất. Việc tạo ra tư liệu sản xuất phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cụ thể như:vốn đầu tư, và tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng trong sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng đối với tư liệu sản xuất đó
Hai là, tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng sức lao động phụ thuộc vào quy mô dân số, các quy định về độ tuổi lao động và sự di chuyển lao động. Chất lượng lao động thì phụ thuộc vào sự phát triển của giáo dục, đào tạo và sự phát triển y tế, thể thao, chăm sóc sức khỏe cộng đồng..
Ba là, sự hình thành môi trường cho sư kết hợp các yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động. Môt trường cho sự kết hợp này bao gồm hệ thống các chính sách phát triển kinh tế- xã hội, chính sách khuyến khích và thu hút người lao động, chính sách bảo hộ sản xuất, chính sách thất nghiệp, chính sách khuyến khích và thu hút đầu tư,…
Bốn là, thực hiện các giải pháp để duy trì việc làm ổn định và có hiệu quả cao. Các giải pháp này có thể kể đến các nhóm giải phát về quản lý và điều hành, về thị trường đầu vào và thị trường đầu ra, các giái pháp duy trì và nâng cao chất lượng của sức lao động, kinh nghiêm quản trị kinh doanh của người sử dụng lao động…
Mặt khác việc làm chỉ có thể tạo ra khi cả người sử dụng lao động và người lao động gặp gỡ trao đổi nhất trí về sử dụng sức lao động. Do đó, cơ chế tạo việc làm phải được xem xét ở cả phía người sử dụng lao động và người lao động đồng thời không thể thiếu vai trò của Nhà nước, cụ thể:
Về phía người sử dụng lao động
Người sử dụng lao động có vai trò tạo chỗ làm việc và duy trì chỗ làm việc. Để tạo chỗ làm việc phải có vốn, nắm bắt được công nghệ, có kiến thức và kinh nghiệm trong tổ chức quản lý và phải có được thị trường. Mặt khác, muốn tạo việc làm người sử dụng lao động phải đến thị trường lao động để thuê lao động, chỉ khi người sử dụng lao động thuê được sức lao động cho chỗ làm việc của họ thì việc làm mới được hình thành.
Về phía người lao động
Người lao động muốn có việc làm phải có sức khỏe, kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo phù hợp với công việc đòi hỏi. Do vậy, người lao động phải đầu tư cho chính bản thân họ, thể hiện ở sự đầu tư nâng cao sức khỏe, đầu tư vào giáo dục và đào tạo, chuyên môn nghề nghiệp. mặt khác, người lao động phải chủ động kiếm việc làm và nắm bắt các cơ hội về việc làm.
Về phía Nhà nước
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong quá trình tạo việc làm, thể hiện trong việc tạo ra môi trường thuận lợi cho việc làm hình thành và phát triển, tạo ra môi trường thuận lợi cho người sử dụng lao động và người lao động phát huy được khả năng của họ, đưa ra các chính sách kiên quan đến người sử dụng lao động và người lao động, cụ thể như các chính sách về khuyến khích đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài, chính sách bảo hộ sản xuất trong nước,….và các chính sách về giáo dục- đào tạo, chính sách về sức khỏe- y tế- xã hội. Nhà nước đảm bảo phân bổ các nguồn lực hợp lý, tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh tạo việc làm. Nhà nước có vai trò trong hệ thống hướng nghiệp, các trung tâm giao dịch, giới thiệu việc làm…,tạo ra cơ sở pháp lý để cho thị trường lao động phát triển,…
1.3.2- Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động
Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động được thể hiện bởi các lý do sau:
Một là, trong tiến trình toàn cầu hóa, hôi nhập kinh tế quốc tế, cùng với việc dịch chuyển cơ cấu lao động sẽ kéo theo sự dich chuyển cơ cấu lao động; sự phân công lao động trong nước cũng như quốc tế. Kết quả là một số nghề cũ mất đi, một số nghề mới ra đời, có các dòng người di chuyển từ nơi có thu nhập thấp đến nơi có thu nhập cao, di chuyển từ nông thôn ra thành thị, từ nước này sang nước khác kiếm việc làm, gây nên sức ép về việc làm và tăng thất nghiệp. Mặt khác nước ta có quy mô dân số tương dối lớn, tỷ lệ tăng dân số cao và cơ cấu dân số thuộc loại dân số trẻ. Hàng năm, có khoảng từ 1.4-1.5 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động, cùng với số lao động thất nghiệp của các năm trước sẽ trở thành gánh nặng cho các gia đình và xã hội, ảnh hưởng đến trât tự. Do đó, cần thiết phải tạo việc làm cho số lao động bị thất nghiệp và giảm sức ép về việc làm.
Hai là tạo việc làm đầy đủ cho người lao động còn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động, ở chỗ cho họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó có quyền cơ bản nhất là được làm việc, nhằm nuôi sống bản thân và gia định và góp phần xây dựng đất nước.
Ba là, tạo việc làm cho người lao động tạo điều kiện tăng thu nhập, nâng cao đời sống, từ đó tăng vị thế cho người lao động trong và ngoài xã hội.
Bốn là, với ý nghĩa con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội, con người với lao động của mình tạo ra của cải vật chất, tinh thần chủ yếu cho xã hội, quyết định sự phát triển kinh tế- xã hội của một quốc gia. Song chỉ khi con người được làm việc, tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, thì nền kinh tế, xã hội ngày càng văn minh và phát triển. Do đó, cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động.
1.4- Tác động của FDI với vấn đề tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình toàn cầu hóa.
1.4.1-Về mặt số lượng:
FDI tạo ra việc làm trực tiếp trong chính khu vực FDI. Việc làm trực tiếp là việc làm được trực tiếp tạo ra trong hệ thống của doanh nghiệp FDI ,đó là các việc làm do doanh nghiệp tuyển dụng và trả lương., được tạo ra bởi chính nguồn vốn FDI, được tính theo bảng lương của doanh nghiệp FDI.
Cùng với sự xuất hiện và lớn mạnh của khu vực FDI một số khu vực sản xuất và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ cho khu vực có FDI cũng phát triển theo và tạo ra số việc làm đáng kể. Đa số các doanh nghiệp FDI có mạng lưới tiêu thụ rộng khắp sử dụng lao động bán hàng, quảng cáo, tiếp thị,…Khu vực FDI sử dụng các nguồn lực khác trong nước ít nhiều nhờ đó tạo ra việc làm gián tiếp cho những đơn vị cung cấp. Các dự án FDI cũng tạo ra hàng vạn chỗ làm việc cho ngành xây dựng trong nước thông qua nhu cầu xây dựng nhà xưởng, văn phòng, cơ sở hạ tầng,… Do vậy khi đánh giá tác động của FDI trong tạo việc làm còn phải xác định số lượng việc làm gián tiếp do FDI tạo ra. Số lượng việc làm gián tiếp được xác định là việc làm tạo ra trong các hoạt động của các ngành, các tổ chức, doanh nghiệp khác ngoài khu vực FDI nhưng lại phục vụ cho hoạt động của khu vực FDI. Nhận thấy, phần lớn các doanh nghiệp FDI còn tạo ra việc làm gián tiếp với số lượng lớn hơn nhiều so với số lượng việc làm trực tiếp mà nó tạo ra.
Số lượng việc làm trục tiếp và gián tiếp phụ thuộc vào vốn đầu tư, vào điều kiện của từng quốc gia, từng khu vực và từng loại hoạt động được tiến hành. - Tạo ra lao động trực tiếp trong chính khu vực có FDI.
1.4.2- Về mặt chất lượng:
Khi nghiên cứu tạo việc làm thông qua FDI các nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc xác định số lượng và các cơ hội việc làm tạo ra một cách một cách trực tiếp hay gián tiếp mà còn phân tích chất lượng của việc làm thông qua các chỉ tiêu Vốn/ lao động ( hay vốn/chỗ làm việc), trình độ lao động, điều kiện lao động, tiền lương và thu nhập của lao động, năng suất lao động, tính ổn định của lao động,… Nhìn chung, việc làm được tạo ra từ nguồn FDI có chất lượng cao hơn việc làm từ các nguồn trong nước.
Vốn đầu tư/ lao động là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng việc làm theo đầu vào. Vốn và công nghệ thường có quan hệ thuận nên với với những điều kiện khác không đổi tỷ lệ vốn/lao động càng cao phản ánh trình độ công nghệ càng cao. Chỉ tiêu vốn/ lao động trong khu vực có FDI cao hơn nhiều so với yêu cầu về vốn để tạo ra một chỗ làm việc ở khu vực trong nước. Do đó, công nghệ sử dụng nguồn vốn FDI nói chung là cao hơn ở khu vực trong nước.
Điều kiện lao động ở các doanh nghiệp có FDI tốt hơn so với các doanh nghiệp có vốn trong nước cùng ngành, cùng lĩnh vực, thể hiện ở điều kiện nhà xưởng, công cụ lao động, môi trường lao động,…
Việc làm trong khu vực có FDI đòi hỏi lao động có trình độ tương đối cao so với khu vực trong nước. Lao động trong khu vực FDI được tuyển chọn cẩn thận và phải đáp ứng các yêu cầu cao về chuyên môn kỹ thuật và nhất là kỷ luật, tác phong làm việc,…
Năng suất lao động cao hơn là một kết quả tất yếu của khu vực có FDI. Với trình độ công nghệ cao hơn, trình độ quản lý và trình độ tổ chức cao hơn, năng suất lao động ở đây cao hơn khu vực khác.
Tiền lương và thu nhập ở khu vực FDI cao hơn so với các khu vực trong nước. Từ mức tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định cho đến mức tiền lương bình quân ở khu vực này cũng cao hơn. Mặt khác, do yêu cầu kỹ thuật và công nghệ cao hơn mà chi phí tiền lương cũng cao hơn so với khu vực trong nước.
Phần hai : Thực trạng về đầu tư trực tiếp nước ngoài với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa.
2.1- Ảnh hưởng của tiến trình toàn cầu hóa đối với Việt Nam.
Toàn cầu hóa là một hiện thực mới ở Việt Nam, nước ta mới chỉ thực sự làm quen với toàn cầu hóa trong vòng 20 năm trở lại đây. Hiện nay, làn sóng toàn cầu hóa xảy ra với tốc độ cao hơn, cường độ mạnh hơn, và phạm vi rộng lớn hơn rất nhiều so với trước đây. Vì vậy, Việt Nam phải có có ý thức chủ động hòa mình vào làn sóng ấy.
Cần phải nhận thấy, xu thế toàn cầu hóa hiện nay mang lại nhiều cơ hội và nhiều thách thức cho Việt nam .Từ việc toàn cầu hóa là nhân tố thúc đẩy cơ cấu lại và hiện đại hóa kinh tế, phát triển nguồn nhân lực, tăng năng suất lao động và cải thiện thu nhập cho người dân làm tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế-xã hội, mở ra con đường phát triển lâu dai bền vững cho nước ta..Đến những tác động tiêu cực như: đói nghèo, bất bình đẳng, sự tụt hâu, thấp kém của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Do đó, Việt Nam cần phải tỉnh táo, chủ động hội nhập và đối phó có hiệu quả với những thách thức và biết phát huy những cơ hội do toàn cầu hóa tạo ra.
2.2- Tình hình thu hút và thực hiện FDI ở Việt Nam
Trong nhiều năm trở lại đây, cùng với quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh và đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam. Với quy mô, cơ cấu, tổng vốn đầu tư, vốn thực hiện và thành quả mà FDI tạo ra, có thể nhận thấy FDI đã đóng góp một phần đáng kể vào GDP, Ngân sách Nhà nước , đã tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống, năng lực sản xuất cho nền kinh tế- xã hội Việt Nam.
Năm 2006, đầu tư trực tiếp nước ngoài là điểm sáng nổi bật nhất trong bức tranh toàn cảnh kinh tế Việt Nam. Tổng vốn FDI đăng ký mới và đầu tư bổ sung đạt trên 10,2 tỷ USD,mức cao nhất kể từ năm 1988 đến nay( trước đây cao nhất là 8,6 tỷ USD năm 1995). trong đó có khoảng 800 dự án được cấp mới, với tổng vốn đăng ký trên 7,6 tỉ USDvà 490 lượt dự án tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất với số vốn tăng thêm khoảng 2,42 tỉ USD. Vốn bình quân 1 dự án 8,4 triệu USD tăng 1,2 triệu USD năm 2005, chứng tỏ số lượng dự án có quy mô lớn đã tăng. Ước tính vốn thực hiện trong năm 2006 đạt khoảng 4,1 tỉ USD, tăng 24,2% so với năm 2005. Địa phương thu hút nhiều dự án và vốn đầu tư là Bà Rịa- Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương. xuất hiện của một số dự án mới có quy mô lớn từ các tập đoàn xuyên quốc gia Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, như dự án của Công ty thép Posco có vốn đầu tư 1,126 tỉ USD, dự án của Tập đoàn Intel với tổng vốn đầu tư 1 tỉ USD, dự án của Tập đoàn Tycoons với tổng vốn đầu tư 556 triệu USD, dự án Tây Hồ Tây vốn đầu tư 314,1 triệu USD, dự án Winvest Investment với vốn đầu tư 300 triệu USD... Nhiều dự án được cấp phép đã tích cực triển khai thực hiện như các nhà máy của Công ty Hoya Glass Disle, Canon, Matsushita, Brothers Industries, Honda… Ước tính vốn thực hiện trong năm 2006 đạt khoảng 4,1 tỉ USD, tăng 24,2% so với năm 2005.
Hoạt động sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục khả quan. Doanh thu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong năm 2006 đạt 29,4 tỉ USD, tăng 31,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, giá trị xuất khẩu (trừ dầu thô) đạt 14,6 tỉ USD, tăng 31,2% so với cùng kỳ. Nếu tính cả dầu thô thì giá trị xuất khẩu năm 2006 đạt 22,6 tỉ USD, chiếm 57% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,5%, cao hơn mức tăng sản xuất công nghiệp bình quân của cả nước (18,5%). Nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong năm 2006 đạt 16,35 tỉ USD, tăng 19,3% so với năm 2005. Trong năm 2006, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nộp ngân sách nhà nước đạt 1,26 tỉ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ.
2.3- Thực trạng về lao động, việc làm và thất nghiệp ở Việt Nam trong những năm qua.
2.3.1- Nguồn lao động:
Về số lượng
Theo điều tra lao động việc làm (của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) ngày 1/7/2995 lực lượng lao động cả nước là 44385 nghìn người trong đó nữ chiếm 48,7%, bình quân hàng năm tăng 844 ngìn người với tốc độ tương ứng là 1,7%/năm, nhóm lực lượng lao động trẻ từ 15-34 là 20582,1 nghìn người chiếm 46,38%, nhóm cao tuổi trên 55 tuổi là 3637,3 nghìn người chiếm 8,18%. Có thể nhận thấy lực lượng lao động nước ta khá dồi dào, mức tăng lao động cao. Lao động trẻ chiếm tỷ lệ lớn, đây là lực lượng chính tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế nước ta.
Về chất lượng
Nguồn lao động nước ta tuy dồi dào về số lượng nhưng lại thấp về chất lượng. Trình độ học vấn của lao động Việt Nam, kể cả lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn được chuyên gia quốc tế đánh giá vào loại khá so với nhiều nước trên thế giới, nếu như năm 2004 mới chỉ có 47% nguồn lao động có trình độ phổ thông cơ sở và phổ thông trung học, thì đến đầu năm 2006 con số này là 58%. Tuy nhiên, trình độ chuyên môn thì quá thấp, năm 2005 lao động qua đào tạo chiếm 24,8%, trong đó 19% qua đào tạo nghề, lao động tuy đã qua đào tạo, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu sử dụng doanh nghiệp thường phải đào tạo lại. Tay nghề, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thấp và kỹ năng làm việc còn thấp, mang nặng thói quen và tập quán sản xuất nhỏ, kỷ luật lao động lỏng lẻo, thiếu trách nhiệm đối với công việc; quan hệ hợp tác yếu và hầu hết không biết ngoại ngữ. Mặt khác, thể lực và tình hình sức khoẻ nói chung của lao động Việt Nam yếu so với nhiều nước về cân nặng, chiều cao và sức bền. Đã làm cho lao động Việt Nam không còn ưu thế, khi thị trường lao động cần công nhân có kỹ thuật, tay nghề cao có xu hướng tăng lên để cung cấp cho các doanh nghiệp, mà chúng ta chưa có Từ đó, ảnh hưởng đến sự tham gia của lao động Việt Nam trong hợp tác và phân công lao động quốc tế. Đây chính là thách thức lớn khi nước ta đứng trước xu thế hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
2.3.2- Việc làm và tình hình tạo việc làm
Giai đoạn từ 2001 đến năm 2005, trung bình mỗi năm cả nước tạo việc làm cho hơn 1,5 triệu lao động, trong đó lao động là thanh niên chiếm khoảng 70%. Thông qua các chương trình kinh tế - xã hội đã giải quyết việc làm cho khoảng 3 - 4 triệu thanh niên; qua Quỹ quốc gia giải quyết việc làm là 1,7 triệu người . Năm 2005, đã có trên 70.000 lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài, đưa tổng số lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài lên trên 400.000 người, thu nhập 1,5 tỷ USD. Riêng năm 2006, cả nước đã tạo việc làm cho 1,572 triệu người; xuất khẩu lao động và chuyên gia 78.855 người.
Tuy nhiên chất lượng lao động còn thấp kém, chưa đáp ứng được các yếu cầu của doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp nước ngoài. Trình độ chuyên môn nghề nghiệp thấp, vẫn dựa theo các truyền thống và thông lệ làm việc lạc hậu, lại khó thích nghi với tác phong công nghiệp, kém về tinh thần trách nhiệm và kỷ kuật lao động. Do đó, làm cản trở các doanh nghiệp thu hút, tuyển lao động vào làm việc. Theo Bộ LĐ-TB-XH, thời gian qua việc quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, đầu tư các công trình trọng điểm chưa gắn với các giải pháp về đào tạo, sử dụng lao động, chuyển đổi nghề, tái tạo việc làm, tạo việc làm ổn định cho người lao động trong vùng. Ngoài ra, cơ cấu ngành nghề đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường, thiếu lao động kỹ thuật cao, chất lượng lao động thấp. Đây là những điểm yếu mà lao động Việt Nam cần khắc phục.
2.3.3- Thất nghiệp ở Việt Nam.
Theo điều tra lao động- việc làm, năm 2005 tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam là 2,1%, trong đó thất nghiệp thành thị là 5,31% và thất nghiệp nông thôn là 1,1%. Trong những năm qua tỷ lệ thất nghiệp có giảm liên tục và tỷ lệ thấp nghiệp là không cao, tuy nhiên tỷ lệ thiếu việc làm lại rất lớn , ngay ở khu vực nông thôn tỷ lệ sử dụng thời gian lao động mới đạt khoảng 80%; nếu quy từ số thiếu việc làm ra thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ lên đến hai con số và đó là tỷ lệ cao.
Mặt khác 88,9% những người thất nghiệp là thất nghiệp dài hạn, trong đó 80% là do không có nghề. Trong khi tỷ lệ thất nghiệp chung là 2,1% thì tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên nhóm tuổi (15-24) là 4,6% ( ở thành thị là 13,4% ,chiếm trên 70% số người thất nghiệp). Từ đó gây nên những hậu quả kinh tế- tâm lý- xã hội nặng nề, gây ra những tệ nạn xã hội , làm gia tăng tội phạm,tội ác,…
Một số chỉ tiêu cơ bản của thị trường lao động Việt Nam giai đoạn 1996-2005:
1996
1997
1998
1999
2002
2001
2002
2003
2004
2005
Tốc độ tăng GDP (%)
9,34
8,15
5,8
4,8
6,75
6,8
7,04
7,26
7,7
8,4
Lực lượng lao động (triệu người)
36,1
36,7
37,8
39,0
39,3
40,1
41,0
41,0
42,1
44,4
Tỷ lệ lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật(%)
11,0
12,7
13,4
14,1
15,4
16,8
18,7
21,2
22,6
24,8
Tỷ lệ lao động làm công ăn lương trong tổng số có việc làm(%)
16,8
18,5
21,2
18,2
18,4
20,7
20,4
21,9
25,6
25,6
Tỷ lệ thất nghiệp chung (%)
1,9
2,9
2,3
2,3
2,3
2,8
2,1
2,3
2,1
2,1
Tỷ lệ thất nghiệp thành thị (%)
5,7
5,8
6,6
6,5
6,3
5,4
5,8
5,6
5,4
5,3
Tỷ lệ thiếu việc làm
10,2
17,3
13,1
10,9
8,6
14,4
13,7
11,8
9,2
-
(Nguồn: Tạp chí Lao động và xã hội – số 300, từ ngày 1-15/12/2006)
2.4- Vấn đề tạo việc làm thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại Việt Nam hiện nay.
2.4.1 Về mặt số lượng:
Cùng với sự gia tăng dòng vốn FDI, sự xuất hiện ngày càng nhiều các doanh nghiệp, công ty, các dự án có quy mô lớn của các tập đoàn xuyên quốc gia thì số lượng lao động được tuyển vào làm việc trong khu vực này cũng tăng lên lien tục. Theo số liệu của Bộ kế hoạch và Đầu tư, đến cuối năm 2005, khu vực FDI đang thu hút khoảng 880 nghìn lao động trực tiếp và hơn 2 triệu lao động gián tiếp. Nếu giai đoạn 1996-2000, trung bình mỗi năm các doanh nghiệp có vốn FDI thu hút được hơn 40 nghìn lao động, thì giai đoạn 2001-2005 đã tăng lên hơn 100 nghìn người ( chiếm 7-8% tổng số việc làm mới được tạo ra của cả nước).
Tính đến thời điểm đầu năm 2005, tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng khu vực FDI chiếm 82,4%, nông-lâm nghiệp và thủy sản là 10,2% và các ngành dịch vụ là 7.4%. Điều này phản ánh xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở nước ta. Mặt khác có sự dịch chuyển cơ cấu lao động theo hình thức FDI, tỷ lệ lao động trong các doanh nghiệp lien doanh giảm mạnh thay vào đó là sự gia tăng trong các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Bên cạnh lao động trực tiếp các doanh nghiệp FDI đã tạo ra việc làm cho một lực lượng đông đảo lao động gián tiếp, lên khoảng hơn 2 triệu người thông qua vệ tinh cung cấp các sản phẩm và dịc vụ. mặt khác, xu hướng liên kết giữa doanh nghiệp có vốn FDI và các vệ tinh được dự báo sẽ tiếp tục phát triển và mở rộng trong tương lai và là nguồn tạo việc làm quan trọng cho xã hội.
(Nguồn số liệu từ: Cục đầu tư nước ngoài- Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
2.4.2 Về mặt chất lượng:
Có thể khẳng định chất lượng lao động trong các doanh nghiệp FDI cao hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Một tỷ lệ lớn người lao động trong khu vực này đã được đào tạo và đào tạo lại để nâng cao kỹ năng quản lý, trình độ chyên môn,nghiệp vụm tay nghề cũng như thay đổi tác phong làm việc nhằm thích ứng với điều kiện và cơ chế làm việc mới. Nhờ đó, người lao động có thể nắm bắt và làm chủ được các công nghệ hiện đại, từng bước thay thế các chuyên gia nước ngoài, thậm chí có thể cải tiến và thích nghi với các công nghệ mới,…
Điều kiện lao động tại các doanh nghiệp có FDI cũng tốt hơn đáng kể so với các đơn vị khác cùng ngành. Khu vực FDI có điều kiện nhà xưởng, trang bị bảo hộ lao động tốt hơn, mội trường lao động cũng sạch sẽ hơn. Khu vực FDI chú trọng hơn vào việc đào tạo cho người lao động. Tỷ lệ vốn/lao động của khu vực FDI cao hơn hẳn so với các khu vực khác trong nước. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc , nâng cao tay nghề phát huy tính sang tạo, tự chủ.
FDI đã góp phần cải thiện thu nhập của một số lượng lao động và tăng cường sức mua của người dân. Theo kết quả điều tra về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam do Tổng cục Thống kê tiến hành năm 2003, mức thu nhập bình quân của một lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI đạt 1,774 triệu đồng/ tháng, cao hơn đáng kể so với doanh nghiệp Nhà nước ( 1,495 triệu đông) và các doanh nghiệp tư nhân (1,046 triệu đồng). Tổng thu nhập của tất cả lao động làm việc trong khu vực FDI ước tính đạt hơn 1 tỷ USD/ năm.
2.5- Những hạn chế tạo việc làm thông qua FDI ở Việt Nam
FDI là một trong những giải pháp quan trọng của nước ta trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội , tạo việc làm, giảm thiểu thất nghiệp, tăng thu nhập, nâng cao dời sống cho người dân,.. của nước ta. Nhưng hiện nay, việc thu hút nguồn vốn FDI, thu hút các nhà đầu tư vào Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, thách thưc. Vấn đề nầy xuất phát bởi những hạn chế sau: Môi trường đầu tư, cơ sở vật chất hạ tầng còn thấp kém và lạc hậu. Hệ thống pháp luật còn bất cập, phức tạp và chồng chéo, hệ thống chính sách chưa động bộ và hiệu quả. Hệ thống ngân hàng hoạt động kém hiệu quả. Sức mua hạn chế của thị trường trong nước gây sự e ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp là yếu tố gây cản trở và làm chuyển hướng đầu tư sang các nước khác. Thiếu giải pháp khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản và khu vực nông nghiệp,… Điều kiện ăn, ở, đi lại của người lao động làm việc xa nhà nhất là trong các khu công nghiệp và khu chế xuất gây em ngại cho lao động đến làm ở đây,…
2.6- Triển vọng thu hút FDI và tạo việc làm thông qua FDI năm 2007 của nước ta.
Về tình hình thu hút FDI năm 2007:
Dự báo tình hình FDI năm 2007 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư : Vốn thực hiện đạt 4,2 - 4,5 tỉ USD, tăng 24% so với năm 2006; Vốn cấp mới đạt 6,8 tỉ USD, (tăng 5% so với năm 2006) trong đó vốn đầu tư cấp mới đạt khoảng 5 tỉ USD, số còn lại là vốn tăng thêm. Cơ cấu ngành: công nghiệp - xây dựng khoảng 60%, nông - lâm -ngư nghiệp 6% và dịch vụ 34%; Doanh thu xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt 17 tỉ USD (tăng 23% so với năm 2006), nhập khẩu 19 tỉ USD (tăng 16,5 % so với năm 2006).
Về vấn đề tạo việc làm:
Dự báo của Vụ Lao động - Việc làm, từ nay đến 2010, mỗi năm sẽ có khoảng 1,4 - 1,5 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 69510.DOC