Mục tiêu của chính sách này là tạo điều kiện thuận lợi và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, bảo đảm cho các nhà đầu tư yên tâm và tin tưởng đầu tư lâu dài ở Việt Nam
Đặc điểm đặc thù ở Vịêt Nam đó là: đất đai là tài sản quốc gia, thuộc sở hữu toàn dân. Các nhà đầu tư nước ngoài không có quyền sở hữu về đất đai.
Các loại văn bản pháp lý liên quan đến đất đai gắn với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là Luật đất đai, Luật đầu tư tại Vịêt Nam.
Mức tiền thuê đất được xác định tuỳ thuộc vào:
+ Mức quy định khởi điểm của từng vùng.
+ Địa điểm của khu đất.
+ Kết cấu hạ tầng của khu đất.
+ Hệ số ngành nghề.
Theo quyết định số 1477 – TC/TCĐN ngày 31-12-1994 của bộ tài chính ban hành bản quy định về quyền cho thuê mặt đất, mặt nước, mặt biển áp dụng đối với các hình thức đầu tư nước ngoài.
- Khung giá cho thuê đất được quy định từ 0,375 USD/m2/năm đến 1,7 USD/m2/năm tuỳ theo nhóm đô thị,
- Riêng đất nông nghiệp sử dụng đối với vùng không phải là đô thị giá thuê được qui định cụ thể như sau:
+ Những vùng đá, đồi trọc, đất xấu khó sử dụng từ 30-50 USD/ha/năm
+ Các vùng đất khác từ 150 – 170 USD/ha/năm .
- Đối với mặt sông hồ, vịnh, mặt biển giá thuê có 2 mức:
+ Mặt nước sông, hồ, vịnh từ 75-525 USD/ha/năm.
+ Mặt biển từ 150- 600 USD/km2/năm. Trong trường hợp sử dụng không cố định thì áp dụng mức giá từ 1500 USD đến 7500 USD. Mức giá thuê đất, mặt nước, mặt biển nêu trên là mức giá áp dụng cho thực trạng diện tích đất cho thuê không bao gồm chi phí đền bù, giải toả.
Mặc dù trong các văn bản nói trên đã cố gắng phân loại để xác định mức giá tiền thuê khác nhau cho phù hợp với điều kiện địa điểm, loại đất, hạ tầng cơ sở nhưng vẫn không tránh khỏi những bất hợp lý. Trong thực tế khi góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất và các dự án có vốn đầu tư nước ngoài thuờng có những vướng mắc sau:
+ Do Việt Nam chưa có quy định về tính giá trị nên trong một số trường hợp phần góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng lại có quá lớn so với giá trị của khu đất làm cho việc đàm phán kéo dài vì bên nước ngoài khó chấp nhận.
46 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2256 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đó, số dự án đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp là 738 dự án, chiếm 5,9% tổng số dự án đăng ký, với vốn đăng ký là 4.379,1 triệu USD, chiếm 2,3% tổng số vốn đăng ký. Bình quân mỗi năm ngành NN&PTNT thu hút gần 50 dự án tương ứng khoảng 200 triệu USD. Nhìn chung, các dự án FDI trong nông nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, chủ yếu gắn với nguồn nguyên liệu địa phương.
Riêng năm 2010, có 1.208 dự án được cáp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký là 23.107,7 triệu USD. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm 45,5% về số dự án và 22,4% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ- thương mại, chiếm 52,1% về số dự án và 77% về số vốn đầu tư đăng ký; lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, chiếm 2,4% về số dự án và 0,6% về vốn đầu tư đăng ký, không có dự án quy mô lớn.
Bảng 1: FDI được cấp giấy phép trong năm 2010 phân theo nghành kinh tế.
Lĩnh vực
Số dự án
Tỷ lệ (%)
Vốn đăng ký (triệu USD)
Tỷ lệ (%)
Tổng
1208
100
23107,3
100
Nông-lâm nghiệp, thủy sản
29
2,4
134,5
0,6
Công nghiệp - xây dựng
550
45,5
5175,7
22,4
Dịch vụ - Thương mại
629
52,1
17797,1
77
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch và đầu tư, 2010
Năm 2010, các doanh nghiệp FDI trong ngành đang sử dụng khoảng 75.000 lao động công nghiệp và hàng vạn lao động nông nghiệp, nộp ngân sách trên 17 triệu USD, tạo ra kim ngạch xuất khẩu xấp xỉ 500 triệu USD. Tỉ lệ vốn đưa vào thực hiện bình quân khoảng 50% tổng số vốn đăng ký.
2. Phân bố FDI theo địa phương
Hầu hết các dự án FDI vào nông nghiệp tập trung vào những tỉnh có lợi thế về vùng nguyên liệu, có điều kiện thuận lợi về thổ nhưỡng, khí hậu, cơ chế chính sách ưu đãi về đầu tư như: Bình Dương, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Lâm Đồng Thanh Hóa, Nghệ An, một số tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên. Trong đó, Bình Dương là tỉnh đứng đầu, tiếp theo là Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh và Lâm Đồng.
Bảng 2: FDI vào nghành nông nghiệp phân theo địa phương.
TT
Địa phương
Số dự án
Vốn đăng ký (USD)
Vốn thực hiện (USD)
Tỷ lệ vốn điều lệ (%)
1
Bình Dương
265
1109622258
450439627
20.31
2
Đồng Nai
103
1058744864
468793875
21.14
3
TPHCM
85
268579865
101309892
4.57
4
Tây Ninh
25
222527500
149407680
6.74
5
Lâm Đồng
77
172100716
105429882
4.75
6
Long An
19
150201700
56433936
2.54
7
Vũng Tàu
24
108443720
48023720
2.17
8
Nghệ An
6
105838640
50638000
2.28
9
Thanh Hóa
9
87079000
33290000
1.50
10
Ninh Bình
5
63329672
26322529
1.19
11
Các tỉnh khác
348
1336397754
727966035
32.82
Tổng số
952
4682865689
2218055176
100.000
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư
3. Phân bổ FDI theo cơ cấu vùng, miền
Cơ cấu vốn FDI còn có một số bất hợp lý. Trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp mặc dù đã có những chính sách ưu đãi nhất định, nhưng FDI còn quá thấp và tỷ trọng vốn FDI đăng ký liên tục giảm. Hầu hết các dự án FDI vào nông nghiệp tập trung vào những tỉnh có lợi thế về vùng nguyên liệu, có điều kiện thuận lợi về thổ nhưỡng, khí hậu như miền Đông Nam Bộ (54%), trong khi có tác động rất hạn chế đến khu vực miền núi phía Bắc (4%), đồng bằng sông Hồng (5%), Bắc Trung Bộ (5%), Tây Nguyên (4%) và đồng bằng sông Cửu Long (13%).
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, một số ưu đãi của Chính phủ đã được quy định trong nghị định của Chính phủ như miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu 5 năm cho sản xuất đối với các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư và các dự án đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nhưng thiếu hướng dẫn nên chưa được áp dụng.
Hình 1: Phân bố FDI theo các vùng kinh tế.
4- Cơ cấu đầu tư FDI trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư
Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp đã được chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngoài 1987. Tuy nhiên đến nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này, nên kết quả thu hút FDI vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa được như mong muốn.
Đến hết 2010, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm 10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ 7,4% so với năm 2009). Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450 triệu USD.
Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành nông-lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông,..) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông nghiệp (riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước có ngành nông nghiệp phát triển mạnh( Hoa Kỳ, Canada, Australia) vẫn chưa thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta.
Các dự án FDI trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực miền Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng lượng vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước.
Bảng 3: Cơ cấu vốn FDI đến năm 2010 trong nông – lâm – ngư
Nông, lâm nghiệp
Số dự án
Vốn đăng ký (USD)
Vốn thực hiện (USD)
Nông-Lâm nghiệp
803
4,014,833,499
1,856,710,521
Thủy sản
130
450,187,779
169,822,132
Tổng số
933
4,465,021,278
2,026,532,653
Nguồn: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn.
5. Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư và nguồn gốc đầu tư
Hiện nay có hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án FDI còn hiệu lực trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam, trong đó các nhà đầu tư đến từ Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan chiếm hơn 60% tổng vốn đăng ký, riêng Đài Loan là 25%.
Bảng 4: FDI theo hình thức đầu tư đến năm 2010
STT
Hình thức đầu tư
Số dự án
Vốn đăng ký
1
100% vốn nước ngoài
722
2.310.202.009
2
Liên doanh
206
1.786.008.511
3
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
2
161.052.371
4
BOT
1
55.274.451
5
Công ty cổ phần
2
152.483.936
Tổng số
933
4.465.021.278
Nguồn: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp được thực hiện chủ yếu dưới 2 hình thức là hình thành doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trong đó, hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài vẫn chiếm vị trí cao khoảng 77,4% số dự án và 51, 74% vốn đăng ký, kế đó là hình thức liên doanh 22,1% số dự án và 40% vốn đăng ký. Các nhà đầu tư đến từ Đài Loan, Pháp, Thái Lan, Hàn Quốc, Xin-ga-po, Mỹ thường thực hiện đầu tư theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trong khi đó, các nhà đầu tư đến từ Pháp, Hồng Kông, Ma-lay-xi-a chủ yếu lựa chọn hình thức doanh nghiệp liên doanh.
6. Các chính sách thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam
6.1 Chính sách đất đai
Mục tiêu của chính sách này là tạo điều kiện thuận lợi và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, bảo đảm cho các nhà đầu tư yên tâm và tin tưởng đầu tư lâu dài ở Việt Nam
Đặc điểm đặc thù ở Vịêt Nam đó là: đất đai là tài sản quốc gia, thuộc sở hữu toàn dân. Các nhà đầu tư nước ngoài không có quyền sở hữu về đất đai.
Các loại văn bản pháp lý liên quan đến đất đai gắn với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là Luật đất đai, Luật đầu tư tại Vịêt Nam.
Mức tiền thuê đất được xác định tuỳ thuộc vào:
+ Mức quy định khởi điểm của từng vùng.
+ Địa điểm của khu đất.
+ Kết cấu hạ tầng của khu đất.
+ Hệ số ngành nghề.
Theo quyết định số 1477 – TC/TCĐN ngày 31-12-1994 của bộ tài chính ban hành bản quy định về quyền cho thuê mặt đất, mặt nước, mặt biển áp dụng đối với các hình thức đầu tư nước ngoài.
- Khung giá cho thuê đất được quy định từ 0,375 USD/m2/năm đến 1,7 USD/m2/năm tuỳ theo nhóm đô thị,
- Riêng đất nông nghiệp sử dụng đối với vùng không phải là đô thị giá thuê được qui định cụ thể như sau:
+ Những vùng đá, đồi trọc, đất xấu khó sử dụng từ 30-50 USD/ha/năm
+ Các vùng đất khác từ 150 – 170 USD/ha/năm .
- Đối với mặt sông hồ, vịnh, mặt biển giá thuê có 2 mức:
+ Mặt nước sông, hồ, vịnh từ 75-525 USD/ha/năm.
+ Mặt biển từ 150- 600 USD/km2/năm. Trong trường hợp sử dụng không cố định thì áp dụng mức giá từ 1500 USD đến 7500 USD. Mức giá thuê đất, mặt nước, mặt biển nêu trên là mức giá áp dụng cho thực trạng diện tích đất cho thuê không bao gồm chi phí đền bù, giải toả.
Mặc dù trong các văn bản nói trên đã cố gắng phân loại để xác định mức giá tiền thuê khác nhau cho phù hợp với điều kiện địa điểm, loại đất, hạ tầng cơ sở nhưng vẫn không tránh khỏi những bất hợp lý. Trong thực tế khi góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất và các dự án có vốn đầu tư nước ngoài thuờng có những vướng mắc sau:
+ Do Việt Nam chưa có quy định về tính giá trị nên trong một số trường hợp phần góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng lại có quá lớn so với giá trị của khu đất làm cho việc đàm phán kéo dài vì bên nước ngoài khó chấp nhận.
+ Trong một số trường hợp, khi đàm phán với nước ngoài, các đối tác Việt Nam đã đưa ra mức giá cho thuê thấp để được bên nước ngoài chấp nhận. Nhưng khi thẩm định dự án, họ lại được yêu cầu phải đàm phán để tăng giá thuê đất thì gặp khó khăn, mất nhiều thời gian và cũng khó thuyết phục bên nước ngoài.
+ Một số dự án nhầm lẫn giữa việc góp vốn bằng giá trị nhà xưởng với việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Một số dự án chỉ tính tiền thuê đất của diện tích xây dựng nhưng không tính các diện tích khác như đường nội bộ, diện tích trồng cây xanh…Đây là cách hiểu sai chế độ qui định.
Để tiếp tục tăng mức hấp dẫn của môi trường đầu tư nước ngoài, chính sách sử dụng đất cho các dự án đầu tư nước ngoài đã được cải thiện. Luật đầu tư tại Việt Nam hiện đã sửa đổi chính sách đất đai theo hướng khuyến khích và rõ ràng hơn: Giá tiền thuê đất; mặt khác, mặt biến đổi với từng dự án được giữ ổn định tối thiểu là 5 năm, khi điều chỉnh tăng thì mức tăng không vượt quá 15% của mức qui định lần trước. Trong trường hợp doanh nghiêp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên hợp doanh đã trả tiền thuê đất cho cả đời dự án, nếu giá tiền thuê có tăng trong thời hạn đó thì tiền thuê đã trả không bị điều chỉnh lại.
Do Việt Nam còn thiếu qui hoạch chi tiết để phục vụ cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho việc tạo ra các địa điểm ổn định thu hút vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa quan trọng.
Tuy nhiên chính sách đất đai áp dụng đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài, nhất là tại khu vực nông nghiệp vẫn còn những vướng mắc nhất định:
+ Giá thuê đất của Việt Nam cao hơn so với nhiều nước trong khu vực. Nếu tính cả chi phí đền bù, giải tỏa thì giá đất bị đẩy lên quá cao. Đây là yếu tố làm giảm sức cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư. Thời điểm tính giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa hợp lý.
+ Việc giao đất, nhất là các dự án có đền bù và giải toả kéo dài trong nhiều trường hợp việc giải toả này kéo dài trong một số năm thậm chí có dự án kéo dài tới 5 năm. Thủ tục thuê đất, cấp đất, giá đền bù, giải phóng mặt bằng còn phức tạp gây mất cơ hội và thời gian của các nhà đầu tư. Hiệu lực pháp luật của các qui định về đất đai còn thấp. Luật đất đai mặc dù đã sửa đổi song thiếu những văn bản hướng dẫn chi tiết.
+ Thiếu qui hoạch chi tiết cho việc thu hút FDI. Một số địa phương tự ý sử lý vấn đề đất đai áp dụng đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
6.2. Chính sách lao động
Chính sách lao động có mục tiêu giải quyết việc làm, nâng cao tay nghề, kỹ năng cho người lao động, nâng cao trình độ quản lý và cải thiện thu nhập cho người lao động.
Số lao động của Việt Nam làm việc trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài phần lớn là lao động trẻ, có khả năng thích ứng nhanh với yêu cầu công nghệ sản xuất tiên tiến nhưng hạn chế lớn về thể lực, kinh nghiệm và tay nghề dù phần lớn lao động lao động trong lĩnh vực nông nghiệp xuất thân từ nông thôn. Đồng thời tính kỷ luật của người lao động chưa cao. Sự hiểu biết về pháp luật của người lao động còn hạn chế.
+ Phần đông thiếu sự hiểu biết về các qui định của pháp luật lao động, chưa nắm vững các chính sách, quyền lợi và nghĩa vụ của mình để tiến hành ký hợp đồng còn mang tính hình thức, bị thiệt thòi, bị áp đặt dẫn đến mâu thuẫn phát sinh tranh chấp.
+ Một số người lao động đòi hỏi vượt quá qui định pháp luật và do sự hạn chế về ngoại ngữ nên có những bất đồng do không hiểu nhau dẫn đến mâu thuẫn.
Tuy nhiên chính sách lao động còn những hạn chế. Mặc dù đã giải quyết được công ăn việc làm cho một lực lượng lao động nhất định, song mục tiêu nâng cao tay nghề cho công nhân, nâng cao trình độ quản lý cho đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế.
6.3. Chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm
Trước năm 1996, chính sách đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vẫn chủ yếu là thay thế nhập khẩu. Do đó, chính sách về thị trường chủ yếu là thị trường trong nước. Theo Luật đầu tư tại Việt Nam, Nhà nước Việt Nam khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào:
- Thực hiện các chương trình kinh tế lớn, sản xuất hàng xuất khẩu và hàng thay thế hàng nhập khẩu.
- Sử dụng kỹ thuật cao, công nghệ hiện đại, đầu tư theo chiều sâu, khai thác và tận dụng các khả năng và nâng cao công suất của các cơ sở kinh tế hiện có.
- Sử dụng nhiều lao động, nguyên vật liệu và tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở Việt Nam.
- Xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng.
- Dịch vụ thu tiền nước ngoài như dịch vụ du lịch, sửa chữa tàu, dịch vụ sân bay, cảng khẩu khác.
Luật sửa đổi, bổ xung gần đây đã khuyến khích đầu tư với mục tiêu ưu tiên hàng đầu là hàng xuất khẩu. Vì vậy, việc tiêu thụ sản phẩm ở các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã có định hướng xuất khẩu. Năm 2010, xuất khẩu của khu vực nông thôn chiếm 7/10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Thành tựu này có được cũng có một phần đóng góp không nhỏ của FDI trong lĩnh vực mở rộng thị trường cho sản xuất nông nghiệp.
Tuy nhiên, việc thúc đẩy xuất khẩu chỉ mới dừng lại ở tình trạng sản phẩm thô lượng được qua chế biến không nhiều, do đó mà giá cả bên Việt Nam, tình hình lợi nhuận thu được từ xuất khẩu theo ý kiến chủ quan của em thì chưa đạt hiệu quả cao. Đây là yếu tố gây thua thiệt cho bên Việt Nam – một vấn đề đang đặt ra gay gắt hiện nay.
Ngoài ra, việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá do sản xuất nông nghiệp tạo ra vẫn còn kém, nhiều loại sản xuất ra nhưng lại không biết bán cho ai, trong khi sản phẩm của nông nghiệp lại có tính chất bảo quản không được lâu. Đó chính là vấn đề mà hiện nay Nhà nước và các nhà FDI muốn đầu tư vào nông nghiệp quan tâm và đang tìm hướng giải quyết.
6.4. Chính sách công nghệ
Mục tiêu của chính sách công nghệ là thu hút công nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại của nước ngoài để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề, thực hiện nội địa hoá công nghệ để tăng năng lực nội sinh của nền kinh tế nói chung. Điều này được khẳng định trong Luật Đầu tư tại Việt Nam là thu hút công nghệ hiện đại để đầu tư theo chiều sâu vào các cơ sở kinh tế hiện có hoặc thu hút công nghệ cao để sản xuất hàng xuất khẩu.
Qua xem xét trên thực tế thì nhiều dự án phát huy tác dụng tốt trong chuyển giao công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực chăn nuôi, lâm nghiệp.
Tuy nhiên, công nghệ tiên tiến nhập vào chưa nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu cần thiết cả về số lượng, lẫn qui mô,chưa cân đối với các ngành kinh tế, nhất là ở một số ngành then chốt có tác dụng tạo môi trường cho nông nghiệp đi lên như: công nghiệp chế biến. Nhìn chung trong các liên doanh với nước ngoài hàm lượng công nghệ thể hiện trong giá trị gia tăng của sản phẩm chế biến còn thấp, mức độ hiện đại và tinh vi của chính bản thân công nghệ còn thấp. Trừ một số ít dây chuyền công nghệ nhập vào tương đối hiện đại, còn lại phần lớn ở trình độ thấp so với các nước trong khu vực, thậm chí có cả công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ kỹ, gây ô nhiễm môi trường sau đó phải xử lý…
III. Những thành tựu và hạn chế của FDI vào lĩnh vực nông nghiệp trong những năm qua
1. Những thành tựu
- Một là, các dự án FDI trong lĩnh vực nông nghiệp đã góp phần bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển trong lĩnh vực này, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
- Hai là, hoạt động của các dự án FDI trong lĩnh vực này đã bước đầu thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, góp phần đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu và tiếp thu một số công nghệ mới.
- Ba là, FDI trong lĩnh vực nông nghiệp đã góp phần góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo thêm nhiều việc làm mới, nâng cao thu nhập trực tiếp và gián tiếp cho dân cư các địa phương, góp phần xóa đói giảm nghèo cải thiện đời sống kinh tế -xã hội của nhiều vùng nông thôn.
FDI trong nông nghiệp đã có tác động nhất định đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cân đối xuất nhập nhẩu, ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua nguyên, vật liệu... tại Việt Nam. Nguồn thu NSNN từ khu vực FDI, cùng với đóng góp của khu vực này vào bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đã tạo điều kiện để thực hiện các chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo…
2. Những hạn chế
2.1. Hạn chế
Khủng hoảng kinh tế thế giới đã làm thay đổi lưu lượng và cấu trúc dòng vốn FDI toàn cầu. Theo Báo cáo Đầu tư Thế giới 2009 của Liên hiệp quốc, dòng FDI sẽ giảm từ 1.700 tỷ USD trong năm 2008 xuống còn 1.200 tỷ USD trong năm 2009, sau đó có thể tăng lên 1.400 tỷ USD trong năm 2010 và 1.800 tỷ USD trong năm 2011.
Về cơ cấu, do dòng vốn FDI đổ vào các nước phát triển giảm mạnh trong năm 2008, tỷ trọng FDI vào các nước đang phát triển đã chiếm tới 43% tổng lượng FDI toàn cầu. Trong sự thay đổi này, một xu thế quan trọng đối với các nước đang phát triển là dòng FDI chảy vào khu vực nông - lâm - ngư nghiệp (gọi chung là khu vực nông nghiệp) trong mấy năm trở lại đây đang tăng lên.
Nếu như trong những năm 1990, lượng vốn FDI trong nông nghiệp của toàn thế giới chưa tới 1 tỷ USD/năm, thì trong giai đoạn 2008 -2010, con số này đã lên tới 3 tỷ USD/năm. Không những thế, các tập đoàn đa quốc gia ngày nay không chỉ tham gia vào các hoạt động ở hạ nguồn (như chế biến và siêu thị), mà còn mở rộng lên thượng nguồn, tham gia cả hoạt động sản xuất và ký hợp đồng tiêu thụ với nông dân, làm cho quy mô của FDI trong khu vực nông nghiệp ngày càng lớn.
Trong khi FDI vào khu vực nông nghiệp của cả thế giới đang ngày một tăng, thì ở Việt Nam lại đang xảy ra điều ngược lại. Nếu như lượng giải ngân FDI trung bình trong khu vực nông – lâm – ngư nghiệp của Việt Nam trong 20 năm, từ 1990 đến 2010 là khoảng 100 triệu USD/năm, thì con số này giảm xuống còn 62 triệu trong giai đoạn 2005-2007 và chỉ còn 51 triệu trong giai đoạn 2008 - 2010. Tỷ trọng của FDI trong khu vực nông – lâm – ngư nghiệp cũng giảm một cách tương ứng.
Bảng 5: Cơ cấu vốn FDI vào Việt Nam năm 2010.
Số dự án
Vốn đăng ký (triệu USD)
Tổng số
1208
23107,3
Nông nghiệp và lâm nghiệp
28
128,5
Thủy sản
1
6,0
Công nghiệp khai thác mỏ
6
397,0
Công nghiệp chế biến
388
3942,8
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước
32
183,9
Xây dựng
124
652,0
Thương nghiệp, sủa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình
152
261,1
Khách sạn và nhà hàng
45
9156,8
Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc
131
299,8
Tài chính tín dụng
2
100,0
Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tu vấn
254
7808,4
Giáo dục và đào tạo
12
30,4
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội
11
15.0
Hoạt động văn hóa và thể thao
13
107.4
Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng
9
18.2
Năm 2002, lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp chiếm khoảng 8% trong tổng cơ cấu đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam. Tuy nhiên đến năm 2010, lĩnh vực này chỉ còn 0,6%. Trong khi đó, các lĩnh vực dịch vụ, bất động sản lại chiếm đến 77%; công nghiệp, xây dựng chiếm 22,4%.
Năm 2010, vốn đăng ký FDI vào nước ta tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và xây dựng với 1179 dự án, tổng số vốn đăng ký 22972,8 tỷ USD. Khối doanh nghiệp FDI đã đóng góp vào ngân sách Nhà nước 1,982 tỷ USD, tăng 25,8% so với năm 2009 tạo ra 200.000 việc làm mới. Tuy nhiên, trong cơ cấu vốn FDI, lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ và ngày càng có xu hướng giảm, nhất là trong 3 năm gần đây. Trong khi đó FDI trong nông nghiệp chỉ chiếm 2,4% tổng số dự án FDI của cả nước với 29 dự án. Vốn đầu tư cho lĩnh vực này cũng rất thấp và dàn trải, chiếm khoảng 0,6% tổng vốn đầu tư FDI. Đây là một trong những điểm yếu của chúng ta trong việc thu hút vốn FDI, mặc dù Nhà nước luôn khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nhưng do hạn chế trong các giải pháp xúc tiến thương mại, chưa quan tâm đầy đủ trong việc giao đất, giải phóng mặt bằng cũng như quản lý hợp đồng đầu tư với nông dân... nên các nhà đầu tư nước ngoài rất thờ ơ.
Bên cạnh đó, còn có sự phân bố không đồng đều trong nông nghiệp. Các dự án FDI chỉ tập trung vào một số ngành như: chăn nuôi, chế biến thức ăn chăn nuôi, trồng rừng, chế biến gỗ và lâm sản, thủy sản. Trong đó, đầu tư vào trồng rừng và chế biến gỗ chiếm khoảng 78% tổng vốn FDI vào nông nghiệp. Cả nước có 453 dự án FDI đầu tư vào trồng rừng và chế biến gỗ đã được cấp phép với tổng số vốn đăng ký khoảng 1,7 tỷ USD, trong có 421 dự án đang có hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 1,38 tỷ USD, nhưng vốn thực hiện chỉ đạt 359 triệu USD.
Và Thống kê của Cục Đầu tư Nước ngoài cho thấy, trong tổng số vốn đăng ký đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam năm 2010 khoảng hơn 11,5 tỷ USD thì đầu tư vào nhóm nông, lâm, thủy sản chỉ có 1,2%, với 20 dự án. Qua đó cũng có thể thấy vai trò của FDI trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam đang tiếp tục suy giảm.
Điều đáng lo ngại không chỉ ở chỗ dòng FDI vào nông - lâm - ngư nghiệp ở Việt Nam đi ngược lại thế giới, và do vậy khó tận dụng được cơ hội thị trường và lợi thế của Việt Nam, mà còn là sự không tương thích giữa tầm quan trọng của khu vực nông nghiệp trong nền kinh tế nước ta.
Trong khi nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tới hơn 50% lực lượng lao động, đóng góp khoảng 20% cho GDP và chiếm tới 7/10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của đất nước và khoảng 23% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước thì tỷ trọng đầu tư cho khu vực này lại giảm gần một nửa, từ 13,8% vào năm 2008 xuống chỉ còn 7,1% vào năm 2010, chủ yếu do sự suy giảm của đầu tư nhà nước.
Đối tác nước ngoài trong lĩnh vực này còn thiếu tính đa dạng. Vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp được thực hiện chủ yếu dưới 2 hình thức là hình thành doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Mặt khác, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp là rất ít so với các lĩnh vực khác. Trong khi FDI vào nghành công nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất với 45% tổng đầu tư FDI vào Việt Nam với 17.855 triệu USD năm 2007 với 1445 dự án, hay bất động sản là 26%, xây dựng 6%... thì ngành nông nghiêp chỉ thu hút 282.47 triệu USD chiếm 2% tổng vốn đầu tư FDI vào nước ta năm 2007 và chỉ còn 0.6% năm 2010. Rõ ràng 2% (năm 2007) và 0.6% (năm 2010) là một con số quá nhỏ chưa phát huy đầy đủ tiềm năng với một đất nước có tới gần 2/3 lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, và với một nền nông nghiệp lâu đời đang đóng góp hơn 20% GDP cho quốc gia hằng năm.
2.2. Những trở ngại dẫn đến hạn chế động lực FDI vào nông nghiệp
Hoạt động nông nghiệp nói chung và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực này gặp nhiều rủi ro. Các điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, địa hình, cơ sở hạ tầng vùng triển khai các dự án FDI trong nông, lâm nghiệp, đều không thuận lợi so với các điều kiện chung của cả nước, mà ngược lại có phần khó khăn hơn, vì phần lớn các dự án tập trung ở những vùng đất mới khai phá, nằm ở các vùng miền núi, trung du, các công trình thủy lợi chưa hoàn chỉnh. Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn chủ yếu dựa vào sản phẩm nguyên liệu thô, thời gian đầu tư và thu hồi vốn dài, chịu ảnh hưởng trực tiếp của thời tiết và thiên tai, đặc biệt là giá nguyên liệu thô trên thị trường thế giới luôn biến động bất lợi. Trong khi đó các nông sản có chất lượng tiêu dùng cao, nhãn hiệu nổi tiếng và hàm lượng giá trị gia tăng cao chưa được tạo dựng.
2.2.1. Hoạt động kinh doanh nông nghiệp chứa đựng nhiều rủi ro
Địa bàn diễn ra kinh doanh nông nghiệp thường rộng lớn, cơ sở hạ tầng kém phát triển, tác động bất thường của điều kiện thời tiết, khí hậu khó lường. Sản phẩm nông sản mang tính thời vụ cao, dễ hư hỏng, dễ bị ảnh hưởng xấu của của dịch bệnh và sự suy thoái về chất lượng. Các doanh nghiệp FDI nông nghiệp thường tốn kém nhiều vốn vào đào tạo chuyên môn cho lao động và đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật của sản xuất nông nghiệp như thủy lợi nội đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua Thực trạng và giải pháp.doc