MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
Phần I: Những lí luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài, khu công nghiệp,
khu chế xuất 3
I. Lí luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài 3
1. Khái niệm 3
2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài 4
3. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài 6
4. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài 7
II. Lí luận chung về khu công nghiệp (KCN) và khu chế xuất (KCX) 9
1. Khái niệm 9
1.1 Khái niệm về KCN 9
1.2 Khái niệm về KCX 9
2. Đặc điểm của KCN, KCX 10
2.1. Về tính chất hoạt động 10
2.2 Về cơ sở hạ tầng 11
2.3 Về quản lý 11
3. Điều kiện thành lập KCN, KCX 11
4. Vai trò của KCN, KCX 12
5. Phân biệt KCN, KCX 13
Phần II : Thực trạng đầu tư vào KCN, KCX ở Việt Nam 14
I. Tính tất yếu khách quan hình thành KCN, KCX 14
II. Quá trình hình thành và phát triển KCN, KCX Việt Nam 15
1. Về số lượng KCN, KCX 15
2. Về phân bố KCN, KCX 19
III. Tình hình thu hút FDI vào KCN, KCX 21
IV. Những tồn tại khó khăn trong thu hút FDI vào KCN, KCX 25
V. Một số bài học kinh nghiểm trong thu hút FDI vào phát triển KCN, KCX 26
Phần III: Những giải pháp nâng cao hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào KCN, KCX 28
I. Định hướng phát triển KCN, KCX Việt Nam đến năm 2010 28
1. Định hướng phát triển KCN, KCX 28
2. Mục tiêu phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN, KCX đến năm 2010 28
3. Phương hướng phát triển và thu hút FDI vào các KCN, KCX 29
II. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN, KCX. 30
Kết luận 36
Tài liệu tham khảo 37
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1769 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngày doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền ra quyết định chấp thuận đầu tư vào KCN. Trường hợp đặc biệt, thời hạn hoạt động của doanh nghiệp KCN có thể vượt quá thời hạn hoạt động của Công ty phát triển hạ tầng KCN, nhưng phải được UBND cấp tỉnh và cơ quan ra quyết định chấp thuận đầu tư hoặc cấp giấy phép đầu tư.
(Điều 9 – Quy chế KCN, KCX, khu công nghệ cao ban hành kèm nghị định 36-CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ)
- Doanh nghiệp KCN có khả năng hợp tác với nhau rất thuận lợi.
Về cơ sở hạ tầng kĩ thuật
Cơ sở hạ tầng kĩ thuật như đường xá, điện nước, điện thoại, hệ thống cấp thoát nước… do công ty phát triển hạ tầng KCN xây dựng. Công ty phát triển hạ tầng KCN là doanh nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế (không áp dụng cho trường hợp doanh nghiệp Việt Nam tham gia là doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam).
Về quản lý
Mỗi KCN đều thành lập một ban quản lý KCN cấp tỉnh để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các KCN. Bên cạnh đó, KCN còn chịu sự quản lý của nhiều cơ quan như: Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ công nghiệp, Bộ xây dựng, ban quản lý KCN Việt Nam…
Ngoài ra , KCX còn có một số đặc điểm khác sau:
- Doanh nghiệp KCX được tự do và không hạn chế số lượng nguyên vật liệu nhập khẩu. Sản phẩm của KCX chỉ dùng để bán ở thị trường nước ngoài, trừ trường hợp đối tác nước ngoài từ chối mới được bán ở thị trường nội địa.
- Các doanh nghiệp KCX được miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong giai đoạn đầu hoạt động.
- Các doanh nghiệp KCX được hưởng chế độ hải quan ưu đãi trong thủ tục giấy phép xuất nhập khẩu. Các doanh nhgiệp trong KCX được tự do chuyển lợi nhuận về nước, được toàn quyền quyết định nhân sự từ kiểm soát, quản lý đến điều hành sản xuất trong doanh nghiệp.
3. Điều kiện thành lập KCN
Hiện nay hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều có nhu cầu hình thành và phát triển KCN với các qui mô và hình thức khác nhau. Để các KCN thực sự hoạt động có hiệu quả, tránh dàn trải, lãng phí, Bộ kế hoạch và đầu tư đã đưa ra các điều kiện để thành lập KCN,KCX.
3.1. Điều kiện quan trọng nhất khi xem xét thành lập các KCN là xác định nhu cầu thành lập KCN và phải có kế hoạch vận động các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào KCN
Thực tế có nhiều KCN đã được thành lập với cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, đồng bộ, hiện đại nhưng gặp khó khăn trong thu hút vốn đầu tư cho nên không đạt được mục tiêu, hiệu quả. Nguyên nhân là do trong quá trình xây dựng không xác định đúng nhu cầu hình thành KCN và không có kế hoạch thu hút vốn đầu tư vào KCN. Do vậy, khi xem xét thành lập KCN phải cân nhắc kĩ nhu cầu và có biện pháp kêu gọi vốn trong nước cũng như nước ngoài.
3.2. Sự phù hợp của KCN đó với qui hoạch phát triển hệ thống KCN trong phạm vi cả nước, kế hoạch phát triển ngành kinh tế kĩ thuật cũng như qui hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Xây dựng KCN phù hợp với qui hoạch KCN giúp cho sự phát triển được cân đối, hài hoà giữa các vùng, dựa trên lợi thế từng vùng.
Xem xét xây dựng KCN cần xác định mặt hàng, sản phẩm của KCN có phù hợp định hướng phát triển ngành kinh tế kĩ thuật hay không?
3.3. Các dự án thành lập KCN còn thể hiện đầy đủ yêu cầu và có giải pháp khả thi trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng, trước hết là hạ tầng kĩ thuật như giao thông, cấp điện, cấp nước, thông tin liên lạc, xử lí chất thải.
Xây dựng KCN cần xem xét khả năng cung ứng từ bên ngoài, nhu cầu đầu tư, khả năng thực hiện. Việc hình thành KCN cũng thu hút một lượng lớn lao động trong các KCN và lao động bên ngoài KCN cho nên cần phải có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực, có kế hoạch cải thiện và nâng cao đời sống người lao động.
4.Vai trò của KCN, KCX
Tăng cường khả năng thu hút đầu tư, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng
KCN, KCX là nơi có kết cấu hạ tầng thuận lợi, nhận được nhiều sự ưu đãi từ phía nhà nước. Do vậy, nó có khả năng lớn trong thu hút vốn đầu tư đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các doanh nghiệp KCN, KCX là các doanh nghiệp có tiềm lực về vốn, khoa học công nghệ, trình độ quản lý. Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường đạt hiệu quả khá tốt, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế. Mặt khác, sản phẩm của KCN, KCX chủ yếu để xuất khẩu sẽ giúp tăng thu ngoại tệ, ổn định cán cân thanh toán.
4.2. Tạo điều kiện tiếp cận với kĩ thuật, công nghệ hiện đại, học hỏi phương thức quản lý mới, nâng cao trình độ tay nghề của người lao động.
Các KCN, KCX được thành lập thu hút lượng lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Họ đem theo là những kĩ thuật – công nghệ hiện đại, đồng thời là những phương pháp quản lý mới tiên tiến nhằm sử dụng lao động, thời gian lao động, máy móc, nguyên nhiên liệu một cách hợp lý, hiệu quả. Do vậy, nó góp phần thay đổi ý thức, thói quen, tác phong làm việc của người lao động nâng cao năng suất. Mặt khác, các doanh nghiệp chế xuất cũng rất quan tâm đến việc bồi dưỡng, đào tạo các công nhân kĩ thuật phù hợp với năng lực sản xuất mới. Nhờ đó trình độ tay nghề người lao động được nâng cao. Rõ ràng, với việc thành lập KCN, KCX chúng ta có cơ hội tiếp cận nhiều hơn với nhiều thành tựu khoa học - công nghệ, khoa học quản lý mà không phải bỏ ra nhiều chi phí.
Góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động
Các nước đang phát triển có nguồn nhân lực khá dồi dào. Việc thành lập các KCN, KCX sẽ thu hút một số lượng lớn lao động lớn, giải quyết được một phần tình trạng thất nghiệp và làm thay đổi bộ mặt địa phương nơi hình thành KCN, KCX.
4.4. Tiết kiệm nguồn lực phát triển cơ sở hạ tầng, sử dụng đất có hiệu quả hơn
Trong KCN, KCX cơ sở hạ tầng do công ty phát triển hạ tầng KCN, KCX xây dựng theo một qui hoạch có tính dài hạn. Các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng được quản lý thống nhất nên tránh tình trạng đầu tư chồng chéo, lãng phí. Nhờ đó việc hình thành KCN, KCX giúp tiết kiệm các nguồn lực và sử dụng đất có hiệu quả hơn.
4.5. Tạo ra mối liên kết giữa các ngành nghề
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp KCN đòi hỏi nguồn cung cấp nguyên nhiên liệu và dịch vụ đầu vào thường xuyên. Chính điều này tạo ra mối liên hệ giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác.
4.6. Quản lý chất thải và giảm ô nhiễm môi trường
Việc hình thành và phát triển KCN, KCX góp phần tích cực vào việc kiểm soát chất thải công nghiệp và bảo vệ môi trường. Các KCN, KCX thường được qui hoạch chi tiết để tập trung các nhà máy,xí nghiệp nằm rải rác, do vậy, sẽ quản lý được tập trung nguồn rác thải công nghiệp, giảm mức độ ô nhiễm khu dân cư.
5. Phân biệt KCN và KCX
KCX là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất để xuất khẩu, còn KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp. KCN có thể bao gồm KCX. Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trong KCN sẽ được đặc biệt ưu đãi như sản xuất ở trong KCX độc lập.
KCN không chỉ cho phép các công ty có vốn đầu tư nước ngoài mà còn cho phép các công ty 100% vốn nước ngoài hoạt động trong khi đó KCX chỉ cho phép các công ty có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động.
KCN vừa gắn với mục tiêu xuất khẩu vừa thực hiện nâng cao khả năng sản xuất của thị trường nội địa, mang những chức năng hiệu quả hơn KCX.
PHẦN II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀO CÁC KCN, KCX VIỆT NAM
I. Tính tất yếu khách quan hình thành KCN, KCX
Một trong những nhân tố quyết định sự vươn lên mau chóng, vượt bậc của những nước có xuất phát điểm thấp đó là chiến lược công nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu thông qua biện pháp thu hút FDI và chuyển giao công nghệ. Hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ có hiệu quả nhất là thiết lập các KCN, KCX, đặc khu kinh tế…
Đối với những nền kinh tế có trình độ phát triển thấp như ở nước ta hiện nay, việc tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh cao là điều không đơn giản. Vì vậy, chúng ta cần phải có những điều kiện và nhân tố cần thiết trước hết là vốn, kĩ thuật, công nghệ tiên tiến, đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân lành nghề có trình độ cao để sản xuất hàng hoá với giá cả và chất lượng có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. KCN, KCX được coi là một công cụ quan trọng trong thu hút vốn và kĩ thuật, là cửa ngõ khai thông ra thị trường thế giới.
Việt Nam trong xu thế chung của thế giới và trước những yêu cầu đặt ra cần phải xây dựng và phát triển KCN, KCX bởi vì:
- Trong việc thu hút FDI, đầu tư của các nước phát triển, các công ty đa quốc gia, các tập đoàn tư bản lớn là quan trọng nhất. Trong cuộc cạnh tranh bành trướng thị trường các công ty xuyên quốc gia có xu hướng di chuyển một bộ phận năng lực sản xuất công nghiệp, thường là các ngành có hàm lượng lao động cao, không đòi hỏi trình độ kĩ thật tinh vi đến những nơi có nguồn nguyên liệu, nhân công rẻ, cước phí vận chuyển không quá lớn và có nhiều ưu đãi. KCN, KCX là môi trường thuận lợi giúp các công ty xuyên quốc gia đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu.
- Sự yếu kém về hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của đất nước đã hạn chế khả năng tăng trưởng kinh tế và hợp tác quốc tế của cả nước và các vùng. Mặc dù, chúng ta đang nỗ lực xây dựng kết cấu hạ tầng nhưng với khả năng và nguồn vốn hạn hẹp, nên trong một thời gian ngắn không thể khắc phục nhược điểm này trên qui mô toàn quốc mà cần thiết phải có các biện pháp đặc biệt với từng khu vực, từng vùng trước hết là các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội có nhiều khả năng phát triển công nghiệp, nhằm khuyến khích các nhà đầu tư chuyển vốn, phương tiện kĩ thuật. KCN, KCX là địa bàn nhỏ hẹp có thể tập trung mọi điều kiện cần thiết để tạo cơ sở hạ tầng đạt trình độ quốc tế và chi phí thấp, đáp ứng đòi hỏi của nhà đầu tư nước ngoài.
- Luật đầu tư nước ngoài là cơ sở pháp lý tạo ra môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy vậy, những qui đinh về quản lý và thủ tục hành chính đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn phức tạp, rườm rà, hạn chế tính năng động, linh hoạt. KCN, KCX cho phép áp dụng qui chế riêng, thủ tục thông thoáng, đơn giản.
II. Quá trình hình thành và phát triển KCN, KCX Việt Nam
Quá trình hình thành và phát triển KCN, KCX ở Việt Nam tuy có hơi muộn so với các nước trong khu vực và trên thế giới song do vậy mà chúng ta có nhiều lợi thế do học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia khác. Trên cơ sở thực tế Việt Nam và kinh nghiệm xây dựng KCN, KCX của các nước, chúng ta vừa có cơ hội vừa phải đối mặt với nhiều thách thức.
1. Về số lượng các KCN, KCX
STT
Tỉnh
STT
KCN,KCX
Diện Tích(ha)
1
Hà Nội
1
KCN Nội Bài
100
2
KCN Sài Đồng B
73
3
KCN Bắc Thăng Long
198
4
KCN Đài T ư
40
5
KCN Daewoo-Hanel
197
6
KCN Nam Thăng Long
30
2
Hải Phòng
7
KCN Nomura
153
8
KCN Đình Vũ
164
9
KCX H ải Phòng 96
150
3
Quảng Ninh
10
KCN Cái Lân
78
4
Bắc Ninh
11
KCN Tiên Sơn
135
12
KCN Quế Võ
312
5
Bắc Giang
13
KCN Đinh Trám
98
6
Phú Thọ
14
KCN Thuỵ Vân
70
7
Vĩnh Phúc
15
KCN Kim Hoa
50
16
KCN Quang Minh
344
8
Hà Tây
17
KCN Bắc Phú Cát
327
9
Thái Nguyên
18
KCN Sông Công
69
10
Thái Bình
19
KCN Phúc Khánh
120
11
Hải Dương
20
KCN Đại An
74
21
KCN Nam Sách
64
22
KCN Phúc Điền
67
12
Hưng Yên
23
KCN Phố Nối B
95
24
KCN Phố Nối A
390
13
Nam Định
25
KCN Hoà Xá
327
14
Hà Nam
26
KCN Đồng Văn
110
15
Ninh Bình
27
KCN Ninh Phúc
125
16
Thanh Hoá
28
KCN Lệ Môn
88
17
Nghệ An
29
KCN Bắc Vinh
60
30
KCN Nam Cấm
79
18
Hà Tĩnh
31
KCN Vũng Án
116
19
Quảng Trị
32
KCN Nam Đông Hà
99
20
Huế
33
KCN Phú Bài
185
21
Đà Nẵng
34
KCN Đà Nẵng
63
35
KCN Liên Chiểu
374
36
KCN Hoà Khánh
423
37
KCN Hoà Cầm
125
22
Quảng Nam
38
KCN Điện Nam- Điện Ngọc
145
23
Quảng Ngãi
39
KCN Tịnh Phong
142
40
KCN Quảng Phú
100
24
Bình Định
41
KCN Phú Tài
328
42
KCN Long Mỹ
100
25
Phú Yên
43
KCN Hoà Hiệp
102
26
Đắk Nông
44
KCN Tâm Thắng
181
27
Khánh Hoà
45
KCN Suối Dầu
78
28
Lâm Đồng
46
KCN Lộc Sơn
93
29
Bình Phước
47
KCN Chơn Thành
115
30
Bình Thuận
48
KCN Phan Thiết
70
31
Tây Ninh
49
KCN Trảm Bàng
197
50
KCX Linh Trung III
204
32
Đồng Nai
51
KCN Amata
362
52
KCN Nhơn Trạch I
430
53
KCN Nhơn Trạch II
350
54
KCN Nhơn Trạch III
368
55
KCN Gò Dầu
186
56
KCN Loteco
100
57
KCN Biên Hoà I
335
58
KCN Biên Hoà II
365
59
KCN Sông Mây
227
60
KCN Hố Nai
230
61
KCN Dệt May Nhơn Trạch
184
62
KCN An Phước
130
63
KCN Tam Phước
323
64
KCN Long Thành
510
65
KCN Nhơn Trạch V
302
33
Bình Dương
66
KCN VN-Singapore
292
67
KCN Bình Dương
17
68
KCN Sóng Thần I
180
69
KCN Sóng Thần II
319
70
KCN Đồng An
132
71
KCN Tân Đông Hiệp A
47
72
KCN Tân Đông Hiệp B
164
73
KCN Việt Hương
46
74
KCN Mỹ Phước
377
75
KCN Việt Hương II
110
76
KCN Dệt May Bình An
26
34
TP Hồ Chí Minh
77
KCX Tân Thuận
300
78
KCX Linh Trung I
60
79
KCX Linh Trung II
62
80
KCN Bình Chiểu
27
81
KCN Tân Tạo
444
82
KCN Vĩnh Lộc
202
83
KCN Hiệp Phước
332
84
KCN Tân Bình
186
85
KCN Tân Thới Hiệp
215
86
KCN Lê Minh Xuân
100
87
KCN Tây Bắc Củ Chi
220
88
KCN Cát Lái II
117
89
KCN Tân Phú Trung
200
90
KCN Cát Lái IV
112
91
KCN Phong Phú
148
35
Đồng Tháp
92
KCN Sa Đéc
69
36
Long An
93
KCN Đức Hoà I
70
94
KCN Th. Đạo-Bến Lức
114
95
KCN Xuyên Á
306
96
KCN Tân Kim
117
97
KCN Tân Đ ức
273
37
Tiền Giang
98
KCN Mỹ Tho
79
99
KCN Tân Hương
138
38
Bà Rịa Vũng Tàu
100
KCN Mỹ Xuân A
270
101
KCN Mỹ Xuân A2
313
102
KCN Đông Xuyên
161
103
KCN Mỹ Xu ân B1
226
104
KCN Phú Mỹ I
954
105
KCN Cái Mép
670
106
KCN Phú Mỹ II
300
39
Vĩnh Long
107
KCN Hoà Phú
137
40
Cần Thơ
108
KCN Cần Thơ
300
109
KCN Hưng Phú I
350
41
Sóc Trăng
110
KCN An Nghiệp
100
42
Cà Mau
111
KCN Khánh An
180
43
Gia Lai
112
KCN Trà Đa
109.3
Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư
Như vậy, tính đến cuối năm 2004, cả nước ta đã có 112 KCN, KCX với tổng diện tích tự nhiên 21.829 ha, trong đó 64 khu đã đi vào hoạt động với tổng diện tích tự nhiên là 14.012 ha và 44 khu ( tổng diện tích tự nhiên 7818 ha) đang trong giai đoạn giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng.
Đến hết tháng 12/2004 đã có 43 tỉnh, thành phố trực thuộc TW trong cả nước phát triển KCN, KCX. Các tỉnh có nhiều KCN, KCX nhất là Đồng Nai (15 khu với diện tích tự nhiên là 4402 ha), thành phố Hồ Chí Minh ( 15 khu với diện tích tự nhiên là 2725 ha), Bình Dương ( 11 khu với diện tích tự nhiên là 1710 ha )
Ngoài các KCN, KCX đang trong quá trình giải phóng mặt bằng, hầu hết các KCN, KCX khác khẩn trương hoàn thiện các công trình hạ tầng, triển khai xây dựng trạm xử lý chất thải tập trung. Ở những địa phương tập trung nhiều KCN, KCX (Đồng Nai, Bình Dương…) đang triển khai xây dựng nhà chung cư cho lao động và giải quyết nhiều công trình phục vụ nhu cầu xã hội văn hoá cho người lao động.
BẢNG SỐ LƯỢNG KCN, KCX THÀNH LẬP QUA CÁC NĂM
Năm cấp phép
Số lượng KCN, KCX được thành lập
1991
1
1992
1
1993
0
1994
5
1995
5
1996
13
1997
21
1998
15
1999
2
2000
1
2001
3
2002
10
2003
21
2004
14
Tổng
112
Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư
Các khu công nghiệp chủ yếu được thành lập nhiều vào năm 1996,1997,1998 sau đó chúng chững lại và tiếp tục tăng vào các năm 2003, 2004. Trong giai đoạn đầu số lượng KCN, KCX còn ít vì chúng còn đang trong quá trình thử nghiệm, tìm kiếm một mô hình xây dựng phù hợp. Giai đoạn khủng hoảng tài chính tiền tệ các nhà đầu tư ít đầu tư hơn cho việc xây dựng các KCN, KCX.
Nhìn chung các KCN, KCX còn nhiều diện tích trống, tỷ lệ lấp đầy còn thấp, chủ yếu mới chỉ lấp đầy khoảng < 50% diện tích đất. Do vậy cần phải có kế hoạch thu hút vốn đầu tư lấp đầy diện tích hơn là tiếp tục xây dựng các KCN, KCX mới. Theo số liệu đến hết năm 2004 các nhà đầu tư cho thuê lại khoảng 44% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê. Nếu tính các KCN, KCX đang vận hành không tính đến các KCN, KCX tập trung năm 2003 đang trong quá trình xây dựng cơ bản thì tỷ lệ lấp đầy KCN, KCX trong cả nước đạt 62% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê lại.
2. Về phân bố các KCN, KCX
Nhìn chung các KCN, KCX còn tập trung chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm, trong khi đó ở các vùng nông thôn còn ít. Vì vậy, trong tương lai chúng ta phải có kế hoạch phát triển các KCN, KCX ở nông thôn để đảm bảo phát triển cân đối vùng, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Miền Nam hiện nay có 65, miền Bắc có 27, miền Trung có 20 KCN và KCX. So với các KCN, KCX thành công trong cả nước, tỷ lệ thành công của các KCN, KCX miền Nam có tỷ lệ thành công là 64%, miền Bắc là 14% và miền Nam là 13%. Miền Nam đi đầu trong cả nước trong phát triển KCN, KCX đã và đang phát triển nhanh trong việc việc góp phần tăng trưởng GDP của cả nước. Điển hình là KCX Tân Thuận thành công nhất trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương. Các KCN phía Bắc hình thành và phân bố rộng trên các khắp các tỉnh, tuy nhiên việc triển khai phát triển cơ sở hạ tầng còn khó khăn do chậm giải phóng mặt bằng. Trong khi đó các KCN, KCX ở miền Trung lại phân bố rải rác, xa các trung tâm, các đầu mối thông tin nên rất hạn chế trong thu hút đầu tư nước ngoài. Miền Nam là khu vực có tốc độ xây dựng KCN, KCX rất nhanh, khoảng 60% số KCN, KCX trog cả nước. Như vậy, miền Bắc và miền Nam có ưu thế trong việc liên kết, phối hợp giữa các KCN, KCX còn miền Trung thì gặp nhiều khó khăn do các KCN, KCX phân bố rải rác.
KCN, KCX Ở CÁC MIỀN (THÁNG 12/2004)
Miền
Số lượng KCN, KCX
Tỷ trọng (%)
Miền Bắc
27
24,11
Miền Trung
20
20
Miền Nam
65
55,89
112
Nguồn Bộ kế hoạch và đầu tư
Biểu đồ số lượng KCN, KCX trên các vùng Biểu đồ tỷ trọng các KCN, KCX trên các
Các KCN, KCX Việt Nam tuy phân bố chưa đồng đều nhưng được qui hoạch ở vị trí rất thuận lợi: Khu vực thuận lợi về nước, giao thông ( KCN Đình Vũ – Đồ Sơn – Hải Phòng, KCN Dung Quất…), khu vực thuận lợi về giao thông đường bộ, hang không, gần các thành phố lớn ( KCN Nomura - Hải Phòng, Sài Đồng A, B, Bắc Thăng Long – Hà Nội…), khu vực thuận lợi về giao thông, nước, dễ giải toả….
III. Tình hình thu hút FDI vào các KCN, KCX
CÁC NƯỚC, VÙNG LÃNH THỔ XÂY DỰNG KCN, KCX
TẠI VIỆT NAM (THÁNG 12/2003)
Chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
Diện tích (ha )
Việt Nam
15735
Đài Loan - Việt Nam
917
Nhật Bản - Việt Nam
451
Thái Lan - Việt Nam
362
Trung Quôc - Việt Nam
325,26
Singapore - Việt Nam
292
Hàn Quốc - Việt Nam
197
Malaysia - Việt Nam
163
Hồng Kông - Việt Nam
150
Mỹ, Bỉ, Thái Lan
164
Đài Loan (100%)
40
Có thể thấy rằng Việt Nam còn là nhà đầu tư chủ yếu trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho KCN, KCX. Các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, KCX phần nhiều là các nước trong khu vực châu Á. Mục tiêu khi xây dựng các KCN, KCX đó là thu hút FDI từ các tập đoàn tư bản lớn, các công ty xuyên quốc gia đến từ Mỹ, EU. Nhìn chung mục tiêu này vẫn chưa đạt được.
CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ XÂY DỰNG KCN, KCX
Ở VIỆT NAM (THÁNG 12/2003)
Chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
Tỷ lệ (% )
Việt Nam
86,94
Liên doanh
12,68
100% vốn nước ngoài
0,39
Biểu đồ tỷ trọng các hình thức đ ầu tư xây dựng hạ tầng KCN, KCX
Hình thức đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu vẫn là 100% vốn trong nước, hình thức đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng với 100% vốn nước ngoài còn rất hạn chế chỉ đạt có 0,39%. Thực tế cho thấy việc các nhà đầu tư nước ngoài tự tiến hành đầu tư nước ngoài tiến hành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sẽ tốt hơn về mặt chất lượng và tạo uy tín để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài khác tham gia sản xuất kinh doanh trong KCN, trong khi đó tỷ lệ liên doanh và 100% vốn nước ngoài mới chỉ đạt khoảng 15%, một con số còn ít ỏi.
TÌNH HÌNH THU HÚT ĐẦU TƯ VÀO KCN, KCX
PHÂN THEO MIỀN (T12/2003)
Miền
Diện tích
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Dự án
Tổng vốn đầu tư
Miền Bắc
3491
123
1149
Miền Trung
2572
63
628
Miền Nam
12733
1190
9275
18796.26
1385
11106
Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư
Biểu đồ tình hình thu hút vốn đầu tư vào các KCN, KCX
Vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu vào miền Nam, miền Bắc và miền Trung còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Miền Nam chiếm 80% tổng số dự án và 84% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX. Như vậy miền Nam là vùng rất có ưu thế trong việc thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX. Miền Bắc và miền Trung cần phải có nhiều chính sách ưu đãi hơn nữa để có thể thu hút vốn phát triển đảm bảo sự cân đối giữa các vùng, miền trong cả nước.
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NĂM 2004
CỦA CÁC KCN, KCX
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2003
Năm 2004
So với năm 2003 (%)
Số lượng KCN, KCX
21
14
67
Doanh thu
Tr. USD
9685
11678
121
Xuất khẩu
Tr. USD
3939
4804
122
Nhập khẩu
Tr. USD
4375
6986
160
Nộp ngân sách
Tr. USD
473
492
104
FDI
- Tình hình cấp mới
+ Số dự án
+ Tổng vốn đầu tư đăng kí
-Tình hình tăng vốn
+ Số dự án
+ Tổng vốn tăng
- Tổng vốn tăng thêm
252
914
323
676
1589
278
1326
373
994
2320
110
145
115
147
146
Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Như vậy, trong năm 2004 cả nước đã thu hút được 1495 dự án có vốn đầu tư nước ngoài, với tổng số vốn đăng kí là 11.6 tỷ USD chưa kể 969 triệu USD đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng KCN, KCX. Năm 2004 tình hình hoạt động của các KCN, KCX đạt kết quả tốt và tăng hơn so với năm 2003. Trong năm 2004 số dự án mới cấp phép tăng 10%, số dự án mở rộng qui mô tăng 15% với qui mô vốn tăng tương ứng là 45% và 48%. Các KCN, KCX ở các địa phương : Đồng Nai, Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất chiếm 75% tổng số dự án và số vốn đầu tư nước ngoài mới so với cả nước. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cấp mới và tăng vốn bổ sung tăng gần 50% so với năm 2003. Các địa phương gia tăng vốn nhanh nhất vẫn là các tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt có nhiều dự án thực hiện vốn đầu tư lớn nhất trong năm 2004 là : công ty TNHH sợi Tainan (Đài Loan) tăng 95 triệu USD, công ty TNHH Canon (Nhật Bản) tăng 100 triệu USD, công ty Ching Luh (Đài Loan) tăng 52 triệu USD.
Ta có thể xem xét thêm kết quả thu hút FDI và tình hình hoạt động của các dự án FDI từ năm 1991 đến năm 2002
1991-1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng FDI
741,7
734,59
722,9
485,7
577,1
608,5
460,3
415,1
Nộp ngân sách
0
8
18,9
26,9
47,6
104,2
128
26,2
Tổng doanh thu
346
448,7
1141,7
1451,2
1858,8
2910,4
3021,7
562,8
Tổng xuất khẩu
109,9
324,7
643,3
897,6
1057,8
1610,6
1535,5
355,6
Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư
Qua đây ta có thể thấy rằng tổng FDI thu hút vào KCN, KCX ngày càng có xu hướng gia tăng. Năm 1996 là năm chúng ta đạt được tỷ lệ thu hút FDI nói chung và vào KCN, KCX cao nhất trong cả giai đoạn chiếm 17%.
Tính đến cuối tháng 3/ 2005, cả nước ta đã có khoảng 6300 dự án FDI được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đầu tư hơn 60 tỷ USD. Trong đó, khoảng 5300 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng kí gần 50 tỷ USD, vốn thực hiện đạt trên 26 tỷ USD. Số dự án có vốn đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX đạt gần 1800 dự án chiếm trên 30% tổng số dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký vào các KCN, KCX trên 15 tỷ chiếm khoảng 33% tổng vốn đầu tư đăng kí. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu ở các KCN, KCX thuộc thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía nam xấp xỉ 1400 dự án với tổng vốn đầu tư đăng kí 12,5 tỷ USD chiếm trên 75% số dự án và xấp xỉ 80% vốn đầu tư đăng kí. Các lĩnh vực thu hút được nhiều lao động có tỷ lệ xuất khẩu cao như công nghiệp nhẹ (dệt may), công nghiệp thực phẩm và công nghiệp nặng (lắp ráp các sản phẩm điện, điện tử) thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư.
IV. Những tồn tại khó khăn trong đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN, KCX
1. Do đánh giá vai trò của KCN, KCX và cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ” chưa nhất quán, nên còn hiện tượng cào bằng giữa chính sách bên ngoài và bên trong KCN, KCX, không chú trọng đến những nét đặc thù của KCN, KCX. Từ đó, thể hiện sự không nhất quán về cơ chế tổ chức. Trong đó hệ thống tổ chức chỉ đạo từ trên xuống chưa rõ ràng nên làm cho việc điều hành thiếu tập trung thống nhất, mỗi địa phương một kiểu. Có lúc lại chưa coi KCN, KCX là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc gia thậm chí coi KCN, KCX như nước ngoài để tận dụng thế mạnh của nó đóng góp vào nền kinh tế quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, có lúc đặt ra chính sách thuế chưa hợp lý làm cho một số nhà đầu tư nản lòng chuyển sang đầu tư ở nước khác, ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư.
2. Hạn chế của cơ chế “một cửa, tại chỗ” là một số bộ quản lý chuyên ngành chưa uỷ quyền cho ban quản lý. Cũng còn nhiều ý kiến khác nhau về sự phân cấp quản ký KCN, KCX đã làm cho quá trình thực hiện cơ chế “một cửa, tại chỗ” không ổn định. Mặt khác, cũng cần khắc phục một số mặt yếu kém về năng lực điều hành của một số ít các bộ như còn nặng tư tưởng quản lý hành chính đơn thuần, chưa dựa trên tinh thần coi khó khăn của nhà đầu tư dù là nhà đầu tư nước ngoài như chính khó khăn của mình, chưa thấm nhuần quan điểm phục vụ tốt nhà đầu tư.
3. Trong qui hoạch KCN, KCX có các phân khu chức năng nhưng quá trình thu hút đầu tư có nơi không thực hiện theo qui định mà chạy theo chỉ tiêu lấp đầy từ đó gây ra hậu quả về môi trường phải khắc phục rất phức tạp.
4. Các
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 69464.DOC