MỤC LỤC
Nội dung Trang
Lời nói đầu 1
1. Khái niệm và vai trò của dịch vụ nói chung và dịch vụ thương mại nói riêng 2
2. Những đặc điểm chủ yếu của sản phẩm dịch vụ 7
3. Những loại hình dịch vụ, nội dung và đặc trưng của từng loại 8
4. Đánh giá hiệu quả dịch vụ ở các tổ chức thương mại 14
5. Thực trạng và các biện pháp phát triển thương mại dịch vụ ơ nước ta 15
Kết luận 28
Tài liệu tham khảo
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3533 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Dịch vụ thương mại và các biện pháp phát triển thương mại dịch vụ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận không nhỏ dân cư chưa có nghề nghiệp.
Tóm lại đối với doanh nghiệp thương mại thì dịch vụ đóng vai trò hết sức quan trọng và chủ chốt. Chỉ có thể hiểu được điều đó, làm tốt được điều đó thì các doanh nghiệp thương mại mới có cơ hội tồn tại, phát triển và mở rộng sang các lĩnh vực khác.
2. Những đặc điểm chủ yếu của sản phẩm dịch vụ
Ngày nay tổng sản phẩm quốc dân của một nước cũng như doanh thu của một doanh nghiệp không thể không tính đến sự đóng góp của lĩnh vực dịch vụ tỷ lệ này càng cao ở những nước có nền kinh tế phát triển. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất và tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhiều loại dịch vụ phát triển; với bản chất và mục đích kinh doanh trong lĩnh vực này cũng hết sức đa dạng và phong phú.
Về bản chất dịch vụ và sản phẩm vật chất có những nét rất khác biệt, khiến các nhà kinh doanh dịch vụ khi thiết kế chương trình hoạt động marketing không thể bỏ qua.
- Là sản phẩm vô hình, chất lượng dịch vụ khó đánh giá vì nó chịu nhiều yếu tố tác động như người bán, người mua và cả thời điểm dịch vụ đó.
- Sản xuất và tiêu dùng, dịch vụ diễn ra đồng thời nên cung cầu dịch vụ không thể tách rời nhau mà phải tiến hành cùng lúc.
- Dịch vụ không thể cất giữ trong kho, làm phần đệm điều chỉnh sự thay đổi nhu cầu thị trường như các sản phẩm vật chất khác...
Những đặc điểm này tạo ra những nét đặc thù cho các doanh nghiệp dịch vụ nếu các doanh nghiệp sản xuất cần 4 điểm cho hoạt động Marketing của mình thì các nhà kinh doanhcần 5 điểm: với 4 điểm kể trên và bỏ sung them con người (People)
Quy mô của sản xuất ngày càng tăng, tiến bộ khoa học kỹ thuật và các mối quan hệ kỹ thuật và các mối quan hệ giao dịch thương mại càng phát triển thì càng đặt ra nhiều yêu cầu mới cho hoạt động thương mại trong đó có cả hoạt động dịch vụ khách hàng, trước, trong và sau khi bán hàng.
3. Những loại hình dịch vụ, nội dung và đặc trưng của từng loại
Từ khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường thì cùng với sự phát triển của thị trường, các loại hình dịch vụ của nước ta đã phát triển rất nhanh và rất mạnh. Chúng được phát triển dưới hai dạng chính. Đó là dịch vụ mang tính chất sản xuất và dịch vụ thương mại thuần tuý.
a. Trong dịch vụ mang tính chất sản xuất có các nội dung và các đặc trưng sau:
* Bán hàng và vận chuyển hàng hoá theo yêu cầu của khách.
Việc doanh nghiệp thương mại thực hiện dịch vụ này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các hộ tiêu dùng tập trung sức vào công việc chính của mình là đẩy mạnh sản xuất và kinh doanh, sử dụng hợp lý sức lao động và phương tiện vận tải, giảm chi phí lưu thông, đồng thời cho phép các doanh nghiệp thương mại làm tốt công tác nghiên cứu thị trường phục vụ tốt yêu cầu của khách hàng và nâng cao được khả năng cạnh tranh.
* Chuẩn bị hàng hoá trước khi bán và đưa vào sử dụng hàng hoá trước khi đưa vào sử dụng phải qua giai đoạn chuẩn bị cho thích dụng với nhu cầu tiêu dùng. Ví dụ như sắt thép phải cắt thành phôi phẩm; thuốc trừ sâu các loại phải được pha chế; nhiều loại mặt hàng tiêu dùng phải được chuẩn bị trước... Dịch vụ này cho phép tiết kiệm trong tiêu dùng, nâng cao năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm vận chuyển thuận tiện và thanh quyết toán đơn giản.
* Dịch vụ kỹ thuật khách hàng: đây là hình thức và giới thiệ hàng, hướng dẫn mua và sử dụng hàng hoá, tổ chức bảo dưỡng máy móc thiết bị...
* Dịch vụ cho thuê thiết bị
Đây là hình thức dịch vụ thích dùng đối với các cơ quan nghiên cứu khoa học kỹ thuật, thiết kế xây dựng... Nó áp dụng cho những loại thiết bị có giá trị cao nhưng thời gian sử dụng ít ở các doanh nghiệp hoặc là những hàng hoá có nhu cầu sử dụng không thường xuyên.
b. Dịch vụ thương mại thuần tuý: gồm các loại hình sau:
* Chào hàng: là một hình thức dịch vụ mà trong đó các doanh nghiệp thương mại tổ chức ra các điểm giới thiệu và bán trực tiếp hàng hoá cho khách hàng. Chào hàng có vị trí rất quan trọng trong các hoạt động chiêu thị vì nó sử dụng được lực lượng lao động nói chung và đưa hàng hoá gần với nơi tiêu dùng sản xuất.
Trong hoạt động kinh doanh, muốn chào hàng có kết quả thì nhân viên chào hàng phải đáp ứng được những điều kiện sau:
- Hiểu rõ được thị trường nơi mà mình định tổ chức chào hàng. Hiểu rõ vật tư hàng hoá đem đi giới thiệu (giá trị của hàng hoá, cách bảo quản, sử dụng, sự khác biệt giữa những sản phẩm của mình với những sản phẩm cạnh tranh tương tự).
- Biết nghệ thuật trình bày và giới thiệu các sản phẩm để thuyết phục người tiêu dùng, đối với những loại hàng hoá mới từ chưa biết đến biết đến ưa thích nẩy sinh nhu cầu đến mua sản phẩm. Nhân viên dịch vụ ở đây phải biết phân biệt với các loại hàng hoá tương tự khác, hiểu rõ thắc mắc của khách để giới thiệu một cách đúng đắn và trung thực.
* Dịch vụ quảng cáo
Quảng cáo là tuyên truyền, giới thiệu hàng hoá, bằng cách sử dụng các phương tiện khác nhau trong khoảng không gian và thời gian nhất định.
- Trong quản lý kinh doanh hiện nay, quảng cáo là công cụ quan trọng của Marketing, thương mại là phương tiện để đẩy mạnh bán hàng. Quảng cáo nhằm làm cho các hàng hoá bán được nhiều hơn, nhanh hơn, nhu cầu được đáp ứng kịp thời. Thông qua quảng cáo, người làm công tác thương mại hiểu được nhu cầu thị trường và sự phản ứng của thị trường nhanh hơn nó là phương tiện hỗ trợ đắc lực cho cạnh tranh, trên thị trường. Sản xuất càng phát triển, tiến bộ khoa học càng được phát triển và việc áp dụng vào sản xuất, nhu cầu của sản xuất ngày càng đa dạng, phong phú và phức tạp thì dịch vụ quảng cáo càng trở nên quan trọng. Hiện nay có nhiều sản phẩm, nhiều xí nghiệp nhiều nước chi phí cho các hoạt động chiêu thị, trong đó quảng cáo chiém một tỷ lệ khá lớn trong tổng chi phí chứa trong giá bán sản phẩm (từ 10-15%).
Trong thương mại, phương tiện quảng cáo rất đa dạng và phong phú, có những phương tiện quảng cáo bên trong mạng lưới thương mại va có những phương tiện quảng cáo nằm bên ngoài mạng lưới thương mại gồm:
- Báo chí: báo chí và các tạp chí là những phương tiện quảng cáo quan trọng nhất, nằm vào những đối tượng rộng trên một phạm vi rộng. Tuỳ theo yêu cầu của quảng cáo mà lựa chọn loại hình báo chí thích hợp. Nội dung quảng cáo báo chí thường gồm 3 bộ phận hơp thành: chữ, tranh vẽ quảng cáo, tên và địa chỉ cơ sở kinh doanh. Ba bộ phận đó phải liên hệ mật thiết với nhau và bổ sung cho nhau.
Chữ là bộ phận chính của nội dung chung quảng cáo bằng báo chí. Nó nêu tên hàng, công dụng, cách dùng, cách bảo quản, giá cả, và phương thức bán... Văn viết gọn rõ dễ hiểu, dễ nhớ và hấp dẫn. Tranh vẽ biểu hiện tên, công dụng, quy cách, màu sắc kiểu mốt... của hàng hoá: cần phải bảo đảm tính nghệ thuật, tính trung thực, tên và địa chỉ cơ sở kinh doanh để hướng dẫn khách hàng.
- Đài phát thanh (radio): radio là phương tiện quảng cáo thông dụng có khả năng thông báo nhanh cần hết sức chú ý đến thời điểm thông tin và thời điểm giành cho một thông tin.
- Vô tuyến truyền hình, băng hình và các biện pháp tác động thông qua hình ảnh của sản phẩm ở các góc độ có lợi nhất để các hộ tiêu dùng bị kích thích, lôi cuốn và quan tâm đến hàng hoá, nhất là những hàng hoá mới. Ở các nước có nền kinh tế phát triển, quảng cáo qua Tivi là loại quảng cáo thông dụng.
Để nâng cao hiệu quả quảng cáo qua ti vi cần hết sức chú ý tới việc lựa chọn hình ảnh đưa lên ti vi, thời điểm thông tin thời gian giành cho một tin và số lần lặp lại thông tin
- Quảng cáo bằng áp phích: đây là hình thức quảng cáo cho phép khai thác tối đa lợi thế về kích cỡ, hình ảnh, màu sắc, vị trí, thời gian và chủ đề quảng cáo... và có áp phích quảng cáo tổng hợp, áp phích quảng cáo chuyên đề. Hình thức này thích dụng khi các cơ sở kinh doanh mới khai trương hoặc khi mới có mặt hàng kinh doanh đặc biệt hoặc khi cần thiết kết hợp với triễn làm bán hàng.
- Bao bì và nhãn hiệu hàng hoá: đây là một loại hình quảng cáo hàng hoá quan trọng thông dụng và có hiệu quả cao. Quảng cáo thông qua nhãn hiệu và bao bì hàng hoá làm cho khách hàng tập trung chú ý ngay vào hàng hoá. Rõ ràng là để làm được chức năng quảng cáo, yêu cầu nhãn và bao bì phải đẹp và hấp dẫn. Nó vừa góp phần nâng cao chất lượng hàng hoá vừa bảo vệ giá trị sử dụng của hàng hoá.
- Quảng cáo bằng bưu điện: cơ sở kinh doanh có quan hệ kinh tế với nhiều khách hàng, trong đó có những khách hàng quan trọng thường xuyên liên hệ. Quảng cáo bằng bưu điện có vai trò quan trọng. Đây là loại quảng cáo mà các doanh nghiệp thường xuyên liên hệ với những khách hàng quan trọng gửi cho họ catalo, thư chúc tết quảng cáo, mẫu hàng và các ấn phẩm quảng cáo qua bưu điện. Vì hình thức này chỉ tập trung vào một số khách hàng, hiệu quả của quảng cáo không lớn.
Những hình thức quảng cáo bên trong mạng lưới thương mại:
- Biển đề tên cơ sở kinh doanh: mỗi cơ sở kinh doanh phải có biển đề để ở trên, chính giữa lối ra vào của cơ quan. Biển đề ghi tên, địa chỉ cơ sở kinh doanh và cơ quan chủ quản của nó. Tên cơ sở kinh doanh phải ghi rõ, đẹp, viết bằng chữ lớn đảm bảo cho người qua đường bằng phương tiện cơ giới có thể thấy được. Kích thước của biển đề phải vừa phải, cân xứng một cách hợp lý với quy mô kiến trúc cơ quan thương mại.
- Tủ kính quảng cáo: là hình thức quảng cáo chính và phổ biến của hệ thống quảng cáo cửa hàng thương nghiệp quy mô lớn và vừa. Nó rất thích hợp với quảng cáo mặt hàng hoá, chất liệu phụ tùng, mặt hàng điện máy... Tủ kính quảng cáo có nhiều loại, tủ kính cửa sổ, tủ kính giữa gian, tủ kính ôm cột... Mỗi loại có vị trí và tác dụng riêng.
- Bày hàng ở nơi bán hàng là hình thức quảng cáo chính phổ biến trong mọi loại hình thương nghiệp có quy mô cơ cấu mặt hàng va địa điểm doanh nghiệp khác nhau. Nó thích hợp cho mặt hàng bán buôn và bán lẻ
- Quảng cáo qua người bán hàng: đây là hình thức quảng cáo quan trọng. Người bán hàng thông báo cho khách hàng bằng chữ hay bằng miệng về hàng hoá, nội quy bán hàng, phương thức bán và thanh toán
Để nâng cao hiệu quả quảng cáo qua người bán hàng cần hết sức chú ý đến việc bồi dưỡng đào tạo đội ngũ nhân viên bán hàng. Người bán hàng phải có đầy đủ kiến thức về hàng hoá, biết về nghệ thuật chào hàng, trình bày sản phẩm và những kiến thức cần thiết khác về thị trường hàng hoá.
* Hội chợ:
Hội chợ là một hình thức để các tổ chức thương mại, các nhà kinh doanh quảng cáo hàng hoá, bán hàng và nắm nhu cầu, ký kết hợp đồng kinh tế, nhận biết các ưu nhược hàng hoá mà mình kinh doanh. Hội chợ trong thương mại được coi là hình thức dịch vụ thích dụng với những hàng hoá mới và những hàng hoá ứ đọng chậm luân chuyển.
Tuỳ thuộc theo điều kiện cụ thể về hàng hoá, thị trường, khách hàng mà các tổ chức thương mại quyết định đứng ra tổ chức Hội chợ hay tham gia Hội chợ. Nếu tổ chức Hội chợ, các doanh nghiệp cần phải khai thác triệt để Hội chợ quảng cáo cho hàng hoá của mình. Ở đây nghệ thuật quảng cáo có vai trò vô cùng quan trọng, nâng cao uy tín của công ty, doanh nghiệp, của sản phẩm bằng nhiều biện pháp để khuyếch trương các uy tín đó. Nắm bắt chính xác nhu cầu thị trường, tìm hiểu thêm các bạn hàng, tận dụng những điều kiện để bán hàng và thông qua Hội chợ để ký kết hợp đồng kinh tế tiếp theo.
c. Dịch vụ quản lý môi giới, tư vấn, chuyên gia:
Đây chính là những hình thức dịch vụ liên quan đến tổ chức quản lý kinh doanh thương mại.
4. Đánh giá hiệu quả dịch vụ ở các tổ chức thương mại
Trong cơ chế hiện nay, để đánh giá hiệu quả hoạt động dịch vụ của các tổ chức thương mại chúng ta phải tuỳ theo đặc điểm của từng lĩnh vực dịch vụ và các hình thức dịch vụ khác nhau mà người ta áp dụng những chỉ tiêu thích hợp để đánh giá hiệu quả kinh doanh. Trong kinh doanh dịch vụ như sửa chữa, chuẩn bị vật tư cho sản xuất, vận tải, không thực hiện việc sản xuất sản phẩm như chúng ta thấy trong lĩnh vực sản xuất mà chỉ là cung cấp dịch vụ cho người khác để lấy tiền bằng cách sử dụng máy móc hoặc sức lao động của công nhân lành nghề. Do đặc điểm của hoạt động dịch vụ nên thực tế sử dụng các chỉ tiêu kinh tế đặc thù để đánh giá.
Trong kinh doanh dịch vụ, chi phí trực tiếp là chi phí sử dụng máy móc thiết bị và công nhân. Còn chi phí gián tiếp là chi phí để trả cho mọi hoạt động khác trong kinh doanh như: tiền thuế, chi phí quản lý, chi phí văn phòng, bảo hiểm, điện thoại.
Đánh giá hiệu quả hoạt động dịch vụ ở các tổ chức thương mại chúng ta thấy có một số điểm nổi bật sau:
- Từ khi nước ta chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường thì các ngành dịch vụ bung ra phát triển mạnh mẽ. Cùng với các loại dịch vụ phát triển, thì dịch vụ thương mại cũng ngày càng phát triển. Nó phát triển cả về bề sâu và bề rộng. Nó mang lại hiệu quả vô cùng to lớn cho ngành thương mại, nó thúc đẩy việc bán hàng, từ đó làm tăng doanh số bán ra và tăng doanh thu cho các doanh nghiệp thương mại. Nó được thể hiện 70% hàng hoá bán buôn có tỷ trọng cao trong bán lẻ ở một số ngành thiết yếu.
- Các loại hình dịch vụ gắn liền với lưu thông hàng hoá phát triển mạnh thúc đẩy được kinh doanh sản xuất góp phần phục vụ đời sống cho người lao động.
- Dịch vụ còn đóng vai trò rất to lớn và mang lại hiệu quả cho việc mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước của các tổ chức thương mại.
5. Thực trạng và các biện pháp phát triển thương mại dịch vụ ở nước ta.
a. Thực trạng thương mại dịch vụ ở nước ta
Chuyển sang nền kinh tế thị trường tất cả các quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp được tiền tệ hoá, các yếu tố sản xuất như đất đai và tài nguyên vốn, sức lao động của các sản phẩm dịch vụ chất xám và tiền tệ là hàng hoá còn giá cả được hình thành thông qua tác động cung cầu trên thị trường thì hoạt động thương mại dịch vụ có rất nhiều điều kiện để phát triển và phát huy hết vai trò của mình. Thương mại dịch vụ là cơ sở để thực hiện quá trình thương mại hoá nền kinh tế.
Thực tiễn 10 năm công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay thương mại dịch vụ đóng vai trò rất quan trọng thực sự đã trở thành điều kiện và tiền đề để thúc đẩy hàng hoá phát triển. Đương nhiên quá trình phát triển của thương mại đặt ra nhiều vấn đề mà nền kinh tế quan tâm. Đánh giá tình hình thị trường và hoạt động tiền mặt dịch vụ ở nước ta trong những năm qua có thể được đánh giá xem xét như sau:
Sau 10 năm đổi mới, ngành thương mại dịch vụ đã đạt nhiều thành tựu đáng kể. Nghị quyết 12 NQ/TW của Bộ Chính trị đã khẳng định những năm qua thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, ngành thương mại đã cùng các ngành các địa phương nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá và dịch vụ góp phần tạo nên sự biến đổi sâu sắc trên thị trường trong nước và vị thế mới trên thị trường ngoài nước". Có các biểu hiện cụ thể:
- Chuyển việc mua bán hàng hoá từ cơ chế tập trung bao cấp sang mua bán theo cơ chế thị trường giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị và quan hệ cung cầu. Đây là một trong những thành tựu lớn nhất sau 10 năm đổi mới hoạt động thương mại dịch vụ chuyển từ thị trường ở trạng thái chia cắt khép kín theo địa giới hành chính kiểu "tự cung tự cấp" sang thị trường tự do lưu thông theo quy luật kinh tế thị trường và theo pháp luật. Với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, bước đầu đã huy động được tiềm năng về vốn và kỹ thuật vào lưu thông hàng hoá làm cho thị trường trong nước phát triển sống động, tổng mức lưu chuyển hàng hoá xã hội nhanh. Kết quả của sự tham gia của các thành phần kinh tế trong lưu thông được khái quát là: đến tháng 1 năm 1995 cả nước có 9860 doanh nghiệp thương mại (gồm 1845 doanh nghiệp Nhà nước, 5418 doanh nghiệp tư nhân, 2063 công ty trách nhiệm hữu hạn, 30 công ty cổ phần) và trên 1 triệu hộ kinh doanh thương mại thực hiện tổng mức lưu chuyển hàng hoá là 150.000 tỷ đồng, gấp 2,36 lần so với năm 1985 (đã loại trừ nhiều yếu tố trượt giá).
Tính chung thời kỳ 1991-1995 tổng mức lưu chuyển hàng hoá trên xã hội tăng bình quân 20% năm. 6 tháng đầu năm 1996 tổng mức bán ra là 96.000 tỷ đồng, đạt 53% dự kiến cả năm (140.000 tỷ đồng) trong đó bán lẻ 6600 tỷ đồng, đạt 47% dự kiến cả năm (140.000 tỷ đồng).
Thị trường nước ngoài được mở rộng theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong 5 năm 1991-1995 kinh tế đối ngoại đã phát triển và đạt được những thành công đáng kể, kinh doanh xuất nhập khẩu tăng không ngừng, gấp 2 lần so với năm 1986-1990, trong đó xuất khẩu tăng 2,8 lần, nhập khẩu tăng 1,8 lần, thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng. Hiện nay ta có quan hệ buôn bán với hơn 105 nước và khu vực, đã ký hiệp định thương mại với hơn 60 nước (khu vực Châu Á Thái Bình Dương chiếm tỷ trọng 80% tổng kim ngạch buôn bán của Việt Nam, Châu Âu 15%, Châu Phi, Tây Nam Á 3%, Châu Mỹ 2%). Việt Nam có 5 bạn hàng lớn ở khu vực Châu Á là Nhật bản (chiếm 20% ttổng kim ngạch xuất nhập khẩu), Singapore (17%), Hongkong (10%), Hàn Quốc (9%), Đài Loan (&%), tạo ra tiền đề khá tốt thị trường xuất nhập khẩu, góp phần cho các doanh nghiệp nước ta đổi mới công nghệ sản xuất đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đổi mới phương thức kinh doanh và nâng cao khả năng đối tác. Nhờ đó đã góp phần làm cho nền kinh tế nước ta vượt qua tình trạng hiểm nghèo, kinh tế xã hội nước ta có đà phát triển.
* Về xuất khẩu: năm 1988 lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt trên 1 tỷ USD. Năm 1994: 3,6 tỷ USD, năm 1995: 5,23 tỷ USD, sáu tháng đầu năm 1996 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 3,050 tỷ USD bằng 46,2% so với kế hoạch cả năm. Kim ngạch xuất khẩu 5 năm 1991-1995 đạt khoảng 17 tỷ USD tăng bình quân 20% năm. Riêng năm 1995 tốc độ tăng khoảng 31% so với năm 1994. Tỷ trọng của tổng kim ngạch xuất khẩu trong GDP là 26,4% thời kỳ này. Tỷ trọng xuất khẩu của các địa phương có xu hướng tăng dần hàng năm: năm 1991 đạt 36,4%; năm 1995 đạt khoảng 45%. Hàng hoá xuất khẩu thông qua chế biến có chiều hướng tăng, năm 1990: 5%; 1991: 8,5%; 1992: 23%; 1993: 20%; 1994: 22%. Điều này góp phần giải quyết việc làm cho nhân dân. Tích cực đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu: hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm 32,8%, hàng công nghiệp nhẹ chiếm 18,1%; hàng nông lâm thuỷ sản chiếm 49,1%. Nhóm hàng công nghiệp có xu thế ngày càng gia tăng tỷ trọng, đặc biệt là hàng công nghiệp nhẹ mà chủ yếu là hàng dệt, may mặc, dày dép.
* Về nhập khẩu: tổng giá trị nhập khẩu trong thời kỳ 1991-1995 đạt khoảng 22 tỷ USD, tỷ trọng nhập khẩu của các địa phương tăng dần từ 29,9% năm 1991 lên 36,5% năm 1995. Cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu được thay đổi. Tỷ trọng nhập khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ tăng cao từ 25,2% năm 1991 lên 39,5% năm 1995. Tổng giá trị nhập khẩu 6 tháng đầu năm 1996 là 4,820 tỷ USD bằng 51,3% kế hoạch năm và 128,9% so với cùng kỳ năm 1995.
Các loại hình dịch vụ gắn với lưu thông hàng hoá trong các năm đổi mới phát triển mạnh, thúc đẩy kinh doanh, sản xuất góp phần phục vụ đời sống và giải quyết được việc làm cho người lao động, đóng góp ngày càng tăng cho ngân sách. Hoạt động thương mại thu hút tren 2 triệu lao động đóng góp 34% tổng thu ngân sách (không kể liên doanh với nước ngoài) và chiếm 14% tổng sản phẩm trong nước.
Qua những năm đổi mới đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp đanh hình thành. Ý thức hiệu quả ngày càng rõ và được sàng lọc và đào tạo trong cơ chế mới nhiều cán bộ quản lý kinh doanh thương nghiệp vẫn giữ được phẩm chất đạo đức đang tích cực nâng cao trình độ năng lực để có thể đối tác trong điều kiện quốc tế hoá các quan hệ. Đánh giá một cách tổng quát như Nghị quyết của Bộ Chính trị đã khẳng định: "Hoạt động thương nghiệp đã góp phần đảm bảo các nhu cầu về vật tư, hàng hoá cho nền kinh tế quốc dân. Háng hoá trong nước phong phú, giá cả tương đối ổn định, lạm phát bị kiềm chế ngày càng có nhiều loại hàng hoá Việt Nam có mặt trên thị trường thế giới. Thương nghiệp đã góp phần tích cực vào việc phát triển sản xuất, phân công lại lao động xã hội, thúc đẩy các ngành đổi mới công nghệ, cải tiến cơ cấu sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, làm cho sản xuất từng bước gắn với nhu cầu thị trường. Bước đầu phát huy được lợi thế so sánh giữa các miền, giữa thị trường nước ta với thị trường thế giới, tạo ra giá trị gia tăng chi nền kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân".
Tuy niên bên cạnh những thành tựu và kết quả nêu trên vẫn còn một số tồn tại, khuyết điểm và những vấn đề phức tạp mới nẩy sinh trên thị trường và hoạt động thương mại dịch vụ đó là: thị trường hàng hoá và số lượng doanh nghiệp bung ra kinh doanh phát triển với tốc độ nhanh nhưng nặng tính tự phát. Nền thương nghiệp về cơ bản vẫn là một nền thương nghiệp nhỏ, tổ chức phân tán, manh múng, buôn bán theo kiểu "Chụp dựt" qua nhiều tầng nấc dẫn đến tình trạng ép giá đầu vào nâng giá đầu ra ở thị trường trong nước, bị chèn ép giá ở thị trường nước ngoài. Chưa thiết lập được mối liên kết lâu dài giữa các cươ sở sản xuất với các nhà buôn bán và giữa các nhà buôn bán với nhau để hình thành các kênh lưu thông ổn định, tạo điều kiện hỗ trợ thúc đẩy sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng, xây dựng thị trường cung ứng và tiêu thụ vững chắc đặc biệt trên lĩnh vực vật tư nông nghiệp, mua nông sản thực phẩm. Trong kinh doanh gần đây có khuynh hướng: hầu hết các đơn vị đăng ký kinh doanh tổng hợp cốt để "rộng đường hoạt động" còn trong thực tế hàng ngày thì chờ thời cơ. Khi thấy lợi thì đổ xô tranh mua tranh bán, khi tiêu thụ khó khăn thì bỏ mặc người sản xuất, tạo ra tình trạng thừa thiếu hàng hoá, gây ra những cơn sốt về giá, gây mất ổn định và nhiều bất lợi thua thiệt.
* Điều lâu nay gây nhức nhối là: kỷ cương pháp luật bi vi phạm, trật tự thị trường chưa được xác lập. Nạn buôn lậu, buôn bán hàng giả diễn ra nghiêm trọng, tác động xấu đến đời sống và sản xuất. Tình trạng kinh doanh không đăng ký, không chấp hành hoá đơn chứng từ, trốn thuế, cạnh tranh không lành mạnh còn nhiều. Trình độ văn minh thương nghiệp, tiêu chuẩn vệ sinh trong ăn uống và thực phẩm thấp. Hoạt động quảng cáo cũng như văn hoá phẩm chưa được quản lý tốt, gây hại đến đạo đức, lối sống, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục. Không ít cán bộ thoái hoá biến chất lợi dụng cương vị công tác tham ô, hối lộ, mưu cầu lợi ích riêng, làm phương hại đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.
Khi đề cập đến tình trạng ngành thương mại dịch vụ chúng ta không thể không kể đến vai trò của thương nghiệp quốc doanh trong việc phát triển ngành thương mại dịch vụ. Nghị định 338/HĐBT ngày 20/11/1991 là cơ sở để sắp xếp lại doanh nghiệp quốc doanh vốn có đặc điểm là số lượng đông, quy mô nhỏ, tổ chức phân tán. Ngày 7/8/1994 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định 90/TTg nhằm đánh giá kết quả hoạt động, chấn chỉnh tổ chức quản lý các doanh nghiệp Nhà nước đã được đăng ký lại theo Nghị định 388?HĐBT. Tiếp đó để thúc đẩy việc tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước khẩn trương hơn, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị 500/TTg ngày 28/8/1995 về xây dựng phương án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước trong từng Bộ, ngành, ở từng địa phương. Trước khi có Nghị định 388/HĐBT cả nước có 2554 doanh nghiệp quốc doanh, vốn ít, bình quân một đơn vị thương nghiệp quốc doanh chỉ có 2,14 tỷ đồng, trong đó vốn lưu động là 1,24 tỷ đồng. 335 số doanh nghiệp vốn pháp định dưới 500 triệu đồng, không ít công ty có vốn pháp định nhỏ hơn 100 triệu, 14,5% có vốn từ 500-1000 triệu; 24,4% có vốn từ 1-3 tỷ đồng. Chỉ có 10,54% có vốn trên 10 tỷ đồng. Vốn ít lại bị chiếm dụng, vốn kinh doanh chủ yếu là vốn vay ngân hàng. Năm 1991 lãi vay là 719,5 tỷ chiếm 21,5% tổng số phí lưu thông. Hiệu quả kinh doanh thấp, 30,8% số công ty không có lãi hoặc trong tình trạng bấp bênh. Tổng số lỗ lên đến 199,298 tỷ đồng, trong đó thương nghiệp địa phương lỗ 164,103 tỷ đồng. Lao động đông, số người không có việc làm nhiều. Vào thời điểm 1/7/1992 có 285.104 lao động trong khu vực quốc doanh, trong đó có 48.500 người (13%) phải nghỉ chờ việc.
Đến cuối năm 1994 cả nước còn 1650, giảm 36% với 371 công ty thuộc các ngành trung ương quản lý. Tổng số vốn và quy mô từng công ty tăng lên. Năm1994 vốn của thương nghiệp quốc doanh là 11,960 tỷ đồng (có 7000 tỷ đồng vốn lưu động), trung bình một công ty có 7,2 tỷ đồng. Mức lợi nhuận nộp ngân sách cao hơn. Năm 1994 có 76% công ty kinh doanh có lãi với tổng só tiền lãi 1067 tỷ đồng, nộp ngân sách 1282,690 tỷ đồng. Lực lượng lao động năm 1994 toàn ngành còn 264.500 CBCNV giảm 7,3% so với năm 1991, thu nhập tăng, bình quân đạt 403.000đ/người/tháng. (năm 1991 là 175.000đ). Chính phủ đã phê duyệt cho thành lập 1 công ty theo quyết định 90/TTg quyết định thành lập 2 Tổng công ty theo quyết định 91/TTg, 12 Bộ ngành và 43 tỉnh thành phố đã trình Thủ tướng Chính phủ đề án tổng thể sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước (trong đó có thương nghiệp quốc doanh).
Đánh giá về thương nghiệp quốc doanh hiện nay Bộ Chính trị đã khẳng định rằng thương nghiệp quốc doanh đã vượt qua được những khó khăn và những thách thức trong cơ chế thị trường "đã có sự chuyển đổi về cơ cấu tổ chức và phương hướng kinh doanh dần dần thích ứng với cơ chế mới, đang giữ tỷ trọng cao trong bán lẻ ở một số ngành hàng thiết yếu, đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách Nhà nước, thực hiện các mặt hàng chính sách đối với đồng bào miền núi và dân tộc. Một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, phát huy được vai trò chủ đạo trên thị trường nội địa, bước đầu tìm được chỗ đứng t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Dịch vụ thương mại và các biện pháp phát triển thương mại dịch vụ.doc