MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ 2
1.1. Lịch sử hình thành nghiệp vụ thị trường mở 2
1.2. Khái niệm 2
1.3. Nội dung hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở 4
1.3.1. Hàng hóa giao dịch trên NVTTM 4
1.3.2. Thành viên tham gia NVTTM 5
1.3.4. Xác định giá mua, giá bán GTCG 8
1.3.4.1. Trường hợp mua hoặc bán có kỳ hạn 8
1.3.4.2. Trường hợp mua hẳn hoặc bán hẳn GTCG: 10
1.3.5. Phương thức đầu thầu của NVTTM 11
1.4. Cơ chế tác động của thị trường mở 12
1.4.1. Tác động tới dự trữ của ngân hàng 13
1.4.2. Tác động lên lãi suất 13
1.5. Vai trò của nghiệp vụ thị trường mở 14
1.6. Ưu điểm và nhược điểm của NVTTM 15
1.6.1. Ưu điểm 15
1.6.2. Nhược điểm 16
1.7. Một số nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở của NHTW 16
KẾT LUẬN CHƯƠNG I: 17
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NHNN VIỆT NAM 18
2.1. Thực trạng của hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng nhà nước Việt Nam 18
2.2. Đánh giá hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng nhà nước Việt Nam 23
2.2.1. Những kết quả đã đạt được 23
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân 24
2.2.2.1. Những hạn chế 24
2.2.2.2. Nguyên nhân 25
2.3. Một số giải pháp kiến nghị 25
2.3.1. Kiến nghị giải pháp ngắn hạn 26
2.3.2. Kiến nghị giải pháp dài hạn 27
KẾT LUẬN CHƯƠNG II: 28
KẾT LUẬN 29
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 30
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3399 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Điều hành chính sách tiền tệ bằng nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
G: Giá trị GTCG tại thời điểm định giá
MG: Mệnh giá của GTCG
T: Thời hạn còn lại của GTCG (số ngày)
L: Lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ (trường hợp đấu thầu lãi suất) hoặc lãi suất do NHTW thông báo (trường hợp đấu thầu khối lượng) tại phiên đấu thầu (%/năm)
Đối với GTCG thanh toán gốc, lãi một lần khi đến hạn:
Đối với GTCG ngắn hạn, thanh toán gốc, lãi một lần khi đến hạn:
Trong đó:
G: Giá trị GTCG tại thời điểm định giá
GT: Giá trị của GTCG khi đến hạn thanh toán, gồm mệnh giá & tiền lãi
MG: Mệnh giá
T: Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá (số ngày)
L: Lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ (trường hợp đấu thầu lãi suất) hoặc lãi suất do NHTW thông báo (trường hợp đấu thầu khối lượng) tại phiên đấu thầu (%/năm)
Ls: Lãi suất phát hành của GTCG (%/năm)
n: Kỳ hạn GTCG (số ngày)
Đối với GTCG dài hạn, thanh toán gốc, lãi một lần khi đến hạn
Trong đó:
GT = MG x [1+ ( Ls x n)]
G: Giá trị GTCG tại thời điểm định giá
GT: Giá trị của GTCG khi đến hạn thanh toán, gồm mệnh giá và tiền lãi
MG: Mệnh giá
T: Thời hạn còn lại của GTCG (số ngày)
L: Lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ (trường hợp đấu thầu lãi suất) hoặc lãi suất do NHTW thông báo (trường hợp đấu thầu khối lượng) tại phiên đấu thầu (%/năm)
Ls: Lãi suất phát hành của GTCG (%/năm)
n: Kỳ hạn GTCG (năm)
Đối với GTCG dài hạn, thanh toán gốc, lãi một lần khi đến hạn:
Trong đó:
GT = MG x (1 + Ls)n
G: Giá trị GTCG tại thời điểm định giá
GT: Giá trị của GTCG khi đến hạn thanh toán, gồm mệnh giá và tiền lãi MG: Mệnh giá
T: Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá (số ngày)
L: Lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ (trường hợp đấu thầu lãi suất) hoặc lãi suất do NHTW thông báo (trường hợp đấu thầu khối lượng) tại phiên đấu thầu (%/năm)
Ls: Lãi suất phát hành của GTCG (%/năm)
n: Kỳ hạn GTCG (năm)
Đối với giấy tờ có giá dài hạn, thanh toán lãi định kỳ:
Trong đó:
G: Giá trị GTCG tại thời điểm định giá
Ci: Số tiền thanh toán lãi, gốc lần thứ i
i: Lần thanh toán lãi, gốc thứ i
L: Lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ (trường hợp đấu thầu lãi suất) hoặc lãi suất do NHTW thông báo (trường hợp đấu thầu khối lượng) tại phiên đấu thầu
k: Số lần thanh toán lãi trong một năm
Ti: Thời hạn tính từ ngày định giá đến ngày thanh toán lãi, gốc lần thứ i
Giá thanh toán giữa NHTW với tổ chức tín dụng:
Gđ = G x (1- h)
Trong đó:
Gđ: Giá thanh toán
G: Giá trị GTCG tại thời điểm định giá
h: Tỷ lệ chênh lệch giữa giá trị GTCG tại thời điểm định giá và giá thanh toán
Giá mua lại giấy tờ có giá giữa NHTW với các tổ chức tín dụng xác định theo công thức sau:
L x Tb
Gv = Gđ x ( 1+ )
365
Trong đó:
Gv: Giá mua lại
Gđ: Giá thanh toán
L: Lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ (trường hợp đấu thầu lãi suất) hoặc lãi suất do NHTW thông báo (trường hợp đấu thầu khối lượng) tại phiên đấu thầu
Tb: Thời hạn bán (số ngày)
1.3.4.2. Trường hợp mua hẳn hoặc bán hẳn GTCG:
Giá mua hẳn hoặc bán hẳn GTCG giữa NHTW với các TCTD được tính toán như trường hợp mua bán có kỳ hạn GTCG như trên.
1.3.5. Phương thức đầu thầu của NVTTM
Các hình thức mua bán trên thị trường mở là mua bán hẳn và mua bán có thời hạn đều được thực hiện thông qua phương thức đấu thầu. Có hai phương thức mà NHTW áp dụng để đấu thầu là đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng.
Phương thức đấu thầu khối lượng: Là việc xác định khối lượng trúng thầu của các thành viên tham gia NVTTM trên cơ sở khối lượng dự thầu của các thành viên, khối lượng GTCG mua hoặc bán và lãi suất do NHTW thông báo cụ thể như sau:
NHTW thông báo cho các thành viên mức lãi suất và khối lượng các loại giấy tờ có giá cần mua hoặc cần bán (NHTW cũng có thể không thông báo khối lượng cần mua hoặc cần bán).
Các thành viên tham gia dự thầu khối lượng các loại GTCG cần mua hoặc cần bán theo mức lãi suất do NHTW công bố. Sau khi mở thầu, NHTW xác định khối lượng trúng thầu của thành viên tham gia dự thầu theo nguyên tắc sau:
Nếu tổng khối lượng dự thầu của các thành viên bằng hoặc thấp hơn khối lượng NHTW cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của đơn vị chính là khối lượng dự thầu
Nếu tổng khối lượng dự thầu của các thành viên lớn hơn khối lượng NHTW cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của các thành viên sẽ được phân bổ theo tỷ lệ thuận với khối lượng dự thầu. Các đơn dự thầu sẽ được phân bổ như sau: Tỷ lệ % phân bổ thầu: k = A/
Trong đó:
A: khối lượng NHTW chào mua/chào bán
n: tổng số thành viên tham gia dự thầu
bi: khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i
k: tỷ lệ phân bổ thầu
Trên cơ sở xác định được tỷ lệ k, khối lượng trúng thầu của thành viên thứ i (Wi) được xác định như sau: Wi = k x bi
Phương thức đấu thầu lãi suất: Là việc xác định lãi suất trúng thầu của các thành viên tham gia NVTTM trên cơ sở khối lượng dự thầu của các thành viên, khối lượng GTCG mà NHTW cần mua - bán.
NHTW có thể công bố hoặc không công bố khối lượng GTCG cần mua - bán.
Thành viên dự thầu theo mức lãi suất và khối lượng GTCG cần mua - bán ứng với mức lãi suất đó. Lãi suất dự thầu được tính theo tỷ lệ phần trăm và được làm tròn đến hai con số sau dấu phẩy. Lãi suất sẽ được sắp xếp theo thứ tự lãi suất dự thầu giảm dần, nếu NHTW là người mua và ngược lại lãi suất sẽ được sắp xếp theo thứ tự tăng dần nếu NHTW là người bán.
Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu cao nhất (trường hợp NHTW bán) và lãi suất dự thầu thấp nhất (trường hợp NHTW mua) mà tại đó đạt được khối lượng GTCG mà NHTW cần mua - bán.
Có hai phương thức xét thầu theo lãi suất là xét thầu theo lãi suất thống nhất hoặc theo lãi suất riêng lẻ:
Lãi suất thống nhất: là toàn bộ khối lượng trúng thầu được tính theo một mức lãi suất trúng thầu để tính số tiền phải thanh toán.
Lãi suất riêng lẻ: khối lượng trúng thầu được tính tương ứng với từng mức lãi suất dự thầu được công bố trúng thầu để tính số tiền thanh toán.
Khối lượng trúng thầu được tính theo nguyên tắc :
Nếu tổng khối lượng dự thầu của các thành viên nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng mà NHTW cần mua hoặc cần bán thì khối lượng dự thầu chính là khối lượng trúng thầu.
Nếu tổng khối lượng dự thầu của các thành viên lớn hơn khối lượng mà NHTW cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của thành viên được tính tỷ lệ thuận với khối lượng dự thầu của các thành viên đó.
k(rm) là tỷ lệ % trúng thầu được phân bổ tại mức lãi suất cuối cùng
k(rm) =
A -
B(rm)
Trong đó:
A: khối lượng NHTW chào mua/chào bán
rt : mức lãi suất thứ t được đăng ký
b(rt)i: khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i ứng với mức lãi suất rt
b(rt): tổng khối lượng đặt thầu của các thành viên ứng với mức lãi suất rt
rm: là mức lãi suất cuối cùng được chấp nhận.
Trên cơ sở xác định được tỷ lệ k(rm), khối lượng trúng thầu của thành viên thứ i (Wi) tại mức lãi suất rm được xác định như sau: W(rm) = k(rm) x b(rm)
1.4. Cơ chế tác động của thị trường mở
NVTTM là công cụ CSTT quan trọng nhất, có hiệu quả nhất vì nghiệp vụ này là yếu tố quyết định quan trọng nhất đối với những thay đổi trong cơ số tiền tệ và là nguồn chính gây nên những biến động trong lượng tiền cung ứng.
Thông qua hoạt động mua bán GTCG, NHTW đã tác động tới lượng tiền cung ứng thông qua những ảnh hưởng về mặt lượng và giá cả. Tác động về mặt lượng là tác động vào dự trữ của ngân hàng và tác động về mặt giá cả là tác động vào lãi suất.
1.4.1. Tác động tới dự trữ của ngân hàng
Việc NHTW mua GTCG trên NVTTM làm tăng cơ số tiền tệ và do đó làm tăng lượng tiền cung ứng, còn việc bán trên NVTTM sẽ thu hẹp cơ số tiền tệ và làm giảm lượng tiền cung ứng. Tìm hiểu mô hình lượng tiền cung ứng là làm rõ cơ chế tác động của NVTTM tới lượng tiền cung ứng.
Mô hình lượng tiền cung ứng:
1 + (C/D)
MS = x MB
{rd + (ER/D + C/D)}
Trong đó:
rd: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc C: Tiền mặt
D: Tiền gửi có thể phát séc ER: Tiền dự trữ quá mức
MS: Lượng tiền cung ứng bao gồm tiền mặt và tiền gửi không kỳ hạn (M1) = rd x D + ER + C
MB: Cơ số tiền tệ bằng tiền mặt cộng với tiền dự trữ
Dự trữ của ngân hàng phụ thuộc vào tiền gửi của ngân hàng tại NHTW và tiền gửi của khách hàng tại hệ thống ngân hàng.
Khi NHTW thực hiện bán GTCG cho các ngân hàng thì tiền gửi của ngân hàng tại NHTW sẽ giảm xuống tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra. Trường hợp người mua là khách hàng của ngân hàng thì số tiền mua GTCG sẽ làm giảm số tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng. Cuối cùng dự trữ của hệ thống ngân hàng tại NHTW giảm tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra, tức là (rd x D + ER) giảm đi.
Khi (rd x D + ER) giảm đi trong khi C không thay đổi hoặc thay đổi không bằng sự thay đổi của (rd x D + ER) thì điều này sẽ làm MB giảm, làm cho MS giảm. Ngược lại, khi NHTW thực hiện mua GTCG trên NVTTM sẽ làm cho dự trữ của ngân hàng tăng lên và MS tăng lên.
1.4.2. Tác động lên lãi suất
Việc tăng giảm MB đã làm tăng giảm tới MS. Sự thay đổi MS dẫn đến sự thay đổi cung cầu tiền tệ trên thị trường tiền tệ. Điều đó tác động đến giá cả của nó là lãi suất.
Khi NHTW bán GTCG khiến MB giảm, tác động tới MS giảm (cung tiền tệ dịch chuyển sang trái, MS0 đến MS1), làm cho lãi suất i trên thị trường tăng.
i MS1 MS0
i1 i0 MD
0 Q1 Q0 Lượng tiền cung ứng
Khi NHTW mua GTCG khiến MB tăng, tác động tới MS tăng (cung tiền tệ dịch chuyển sang phải, MS0 đến MS1), làm cho lãi suất i trên thị trường giảm.
i MS0 MS1
i0 i1 MD
0 Q0 Q1 Lượng tiền cung ứng
1.5. Vai trò của nghiệp vụ thị trường mở
Thứ nhất, để thực hiện được mục tiêu ổn định giá trị đồng nội tệ, NHTW đã xây dựng và thực thi các công cụ CSTT nhằm đưa tiền ra và rút tiền về từ lưu thông theo tín hiệu thị trường. NVTTM là công cụ CSTT gián tiếp quan trọng nhất làm thay đổi cung - cầu tiền tệ dẫn đến thay đổi lãi suất trên thị trường tiền tệ một cách linh hoạt và hiệu quả. Thông qua việc mua bán GTCG tại thị trường mở, NHTW có thể mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng và tác động một cách tốt nhất đến cơ số tiền tệ, lượng tiền cung ứng. Như vậy, NVTTM đã tạo điều kiện cho NHTW hạn chế sử dụng các công cụ mang tính trực tiếp trong điều hành CSTT.
Thứ hai, thông qua NVTTM, NHTW cấp tín hiệu cho thị trường về định hướng điều hành CSTT trong tương lai là nới lỏng hay thắt chặt. Đặc biệt khi thực hiện NVTTM thường xuyên và hiệu quả, lãi suất thị trường mở có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định hướng, chỉ đạo lãi suất thị trường và qua đó NHTW có thể hạn chế những biến động của lãi suất thị trường.
Thứ ba, thông qua việc phát hành, mua bán GTCG trên thị trường mở, các thành viên tham gia thị trường đã làm tăng thêm tính thanh khoản cho các GTCG này, góp phần thúc đẩy các thị trường tài chính phát triển. Từ đó, tạo điều kiện cho các trung gian tài chính thu hút vốn trong nền kinh tế và thay đổi thói quen tiết kiệm, tiêu dùng của các hộ gia đình trong nền kinh tế.
Thứ tư, thị trường mở có sự gắn kết chặt chẽ với các thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường nội tệ liên ngân hàng. Sự phát triển của thị trường mở tác động mạnh đến sự hoàn thiện và phát triển của thị trường liên ngân hàng.
Thứ năm, những quốc gia như Việt Nam đang trong quá trình mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, buộc phải thực hiện các cam kết yêu cầu của các tổ chức tài chính, tiền tệ, thương mại quốc tế hay các quốc gia phát triển. Trong đó có yêu cầu về cải cách hệ thống ngân hàng và nâng cao tính minh bạch trong các hoạt động của NHTW. Chính vì vậy, việc sử dụng NVTTM là một điều kiện cần thiết để hội nhập nền kinh tế vào khu vực và thế giới.
1.6. Ưu điểm và nhược điểm của NVTTM
1.6.1. Ưu điểm
NVTTM là một công cụ CSTT linh hoạt và hiệu quả so với những công cụ còn lại. Ưu điểm của NVTTM so với những công cụ còn lại là:
Thứ nhất, xét về mặt tác động tới lượng tiền cung ứng, NVTTM là công cụ được ưu tiên hàng đầu vì nó là nhân tố quyết định đầu tiên có thể làm thay đổi lãi suất và cơ sơ tiền tệ - nhân tố chính làm thay đổi lượng tiền cung ứng.
Thứ hai, NVTTM là công cụ được NHTW tiến hành một cách chủ động và hoàn toàn kiểm soát được lượng tiền cung ứng theo mục tiêu đề ra. Điều này so với nghiệp vụ chiết khấu, NHTW không thể kiểm soát được khối lượng chiết khấu mà phụ thuộc vào thái độ của các NHTM. Tuy nhiên việc kiểm soát này là gián tiếp không nhận thấy được.
Thứ ba, NVTTM vừa linh hoạt nhưng vừa chính xác, có thể sử dụng ở bất kỳ quy mô nào. Khi có yêu cầu thay đổi về dự trữ hoặc cơ sở tiền tệ, dù ở mức nào đi nữa, NVTTM cũng có thể đạt được bằng cách mua hoặc bán một lượng nhỏ chứng khoán. Nếu cần thay đổi dự trữ với quy mô lớn, NHTW cũng có đủ khả năng thực hiện thông qua việc mua hoặc bán một khối lượng lớn tương ứng các chứng khoán.
Thứ tư, NVTTM dễ dàng đảo chiều: nếu NHTW có mắc sai sót nào trong quá trình thực hiện nghiệp vụ TTM, thì có thể ngay tức khắc sửa sai sót đó bằng các nghiệp vụ bán (nếu như trước đó mua vào quá nhiều) hay mua (nếu như lúc đó bán ra quá nhiều) do tính chủ động của NHTW đối với NVTTM.
Thứ năm, NVTTM có tính an toàn cao: giao dịch trên NVTTM hầu như không gặp rủi ro, xét trên cả góc độ của NHTW hay ngân hàng thương mại. Bởi vì cơ sở bảo đảm cho các giao dịch trên NVTTM đều là những GTCT, có tính thanh khoản cao, rủi ro rất thấp.
Thứ sáu, NVTTM có thể thực hiện một cách nhanh chóng không vấp phải sự chậm trễ của các thủ tục hành chính: khi NHTW muốn thay đổi lượng tiền cung ứng thì chỉ cần đưa ra yêu cầu cho các nhà giao dịch chứng khoán và sau đó việc mua bán sẽ được thực hiện ngay.
1.6.2. Nhược điểm
Mặc dù là một công cụ có tính linh hoạt cao so với các công cụ CSTT
khác nhưng NVTTM vẫn mang những nhược điểm nhất định:
Thứ nhất, các tác động của NHTW đến tiền tệ cơ sở có thể bị triệt tiêu bởi các tác động ngược chiều làm cho dự trữ của hệ thống ngân hàng không tăng hoặc giảm tương ứng theo ý muốn của NHTW khi thực hiện mua bán GTCG. Trên thực tế, các hoạt động mua bán GTCG của NHTW làm triệt tiêu một phần hoặc toàn bộ vốn khả dụng trong cán cân thanh toán hoặc số tiền dư thừa tiền gửi ngân sách của NHTW tăng lên.
Thứ hai, khả năng phát huy hiệu quả của NVTTM không chỉ phụ thuộc vào NHTW mà còn phụ thuộc bởi môi trường nền kinh tế vĩ mô, hành vi của công chúng và quyết định của NHTM. Chẳng hạn, khi lãi suất thị trường giảm là kết quả tất yếu của sự tăng lên của lượng tiền cơ bản nhưng không phải lúc nào tín dụng cho nền kinh tế cũng tăng lên tương ứng.
1.7. Một số nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở của NHTW
NVTTM là một công cụ CSTT được thực hiện bởi NHTW nên các nhân tố tác động tới hoạt động của NVTTM xuất phát từ NHTW và các thành viên tham gia. Các nhân tố tác động tới hoạt động của NVTTM
Thứ nhất, cơ sở để NHTW quyết định thời điểm, khối lượng thực hiện NVTTM cùng các quy định khác là dựa vào dự báo về tình hình vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Khi dự báo vốn khả dụng đang dư thừa ngắn hạn, NHTW có thể chào bán GTCG nhằm thu hút lượng vốn khả dụng dư thừa đó. Và ngược lại, khi dự báo vốn khả dụng của ngân hàng đang bị thiếu hụt, NHTW sẽ chào mua để tăng khả năng thanh khoản cho ngân hàng. Như vậy, việc dự báo vốn khả dụng của ngân hàng là hết sức quan trọng trong việc ra thực hiện NVTTM.
Thứ hai, quy định về NVTTM. Mỗi quốc gia khác nhau có những quy định khác nhau về GTCG, về thành viên tham gia thị trường, hình thức mua bán. Chẳng hạn một số quốc gia quy định về GTCG bao gồm cả những GTCG dài hạn; thành viên tham gia thị trường không chỉ là NHTM mà bao gồm công ty tín thác đầu tư, công ty chứng khoán như ở Hàn Quốc. Bên cạnh đó, nhiều quốc gia chỉ áp dụng hình thức mua bán có kỳ hạn vì tính linh hoạt và tiết kiệm chi phí giao dịch. Như vậy, do trình độ phát triển của thị trường tài chính và khả năng của NHTW nên các quy định của NHTW về NVTTM là khác nhau giữa các quốc gia.
Thứ ba, trình độ phát triển của thị trường tài chính quốc gia. Không chỉ là những quy định mà trình độ phát triển của thị trường tài chính quốc gia cũng ảnh hưởng tới khả năng vận hành, quy mô, sự tham gia của các thành viên,....
Thứ tư, danh mục GTCG của hệ thống ngân hàng. Để thực hiện giao dịch thành công NVTTM, các ngân hàng phải nắm giữ những GTCG có tính thanh khoản cao, mức độ rủi ro rất thấp và phù hợp với yêu cầu của NHTW cả về khối lượng. Danh mục GTCG càng đa dạng về số lượng và khối lượng tạo điều kiện cho việc giao dịch trên NVTTM khi cần thiết được thực hiện thành công.
KẾT LUẬN CHƯƠNG I:
Một trong những công cụ đắc lực và hiệu quả trong điều hành CSTT của NHTW là Nghiệp vụ thị trường mở. Để áp dụng được NVTTM trong điều hành CSTT, cần phải phân tích mổ xẻ những vấn đề của NVTTM: cơ chế tác động, chủ thể tham gia, hàng hóa giao dịch, cách thức đấu thầu,..... Chương I đã phân tích đầy đủ, rõ ràng cơ sở lý luận về NVTTM, từ đó NHTW mới vận hành công cụ này phù hợp với yêu cầu của từng thời kỳ, đặc biệt là những thời điểm khó khăn như khủng hoảng tài chính năm 2008 hoặc thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính.
Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ
THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NHNN VIỆT NAM
2.1. Thực trạng của hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng nhà nước Việt Nam
Bắt đầu từ ngày 12/7/2000, NHNN tiến hành đưa công cụ NVTTM vào hoạt động. Đây là một bước tiến mới trong điều hành CSTT của NHNN theo hướng từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp, phù hợp với thông lệ quốc tế và sự phát triển hội nhập của đất nước thời kỳ đổi mới kinh tế. Suốt hơn 9 năm qua, công cụ NVTTM liên tục được NHNN không ngừng cải tiến và dần trở thành một công cụ CSTT quan trọng của NHNN.
Thứ nhất, khung pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của NVTTM
Để tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai công cụ NVTTM tại Việt Nam, ngày 09/3/2000, Thống đốc đã ban hành Quy chế hoạt động nghiệp vụ thị trường mở kèm theo Quyết định số 85/2000/QĐ - NHNN. Quy chế này cũng quy định về công cụ NVTTM, các giao dịch trên thị trường mở, phương thức giao dịch, phương thức đấu thầu, điều kiện tham gia thị trường mở, các loại GTCG được giao dịch thông qua thị trường mở, quy trình tham gia NVTTM.
Tuy nhiên, việc quy định về hình thức giao dịch đấu thầu lãi suất, ngày thanh toán, lãi suất mua hoặc bán, khối lượng mua hoặc bán.... tại Quy chế 85/2000/QĐ - NHNN chưa phù hợp nên NHNN đã tiếp tục sửa đổi, bổ sung bằng các Quyết định số 1439/2001/QĐ - NHNN ngày 20/11/2001 và Quyết định số 877/2002/QĐ - NHNN ngày 19/8/2002, Quyết định số 1085/2003/QĐ - NHNN ngày 16/9/2003 và công văn số 1511/NHNN - TD ngày 28/12/2004 nhằm thay đổi các quy định để hoàn thiện và mở rộng các quy định về GTCG, đối tượng tham gia thị trường mở, thời gian thực hiện nghiệp vụ, các biểu mẫu kèm theo,.... theo hướng linh hoạt, phù hợp với xu hướng điều hành hiện đại của các NHTW các nước trên thế giới.
Như vậy, quy chế NVTTM được ban hành từ năm 2000, với 6 lần sửa đổi, bổ sung và một lần thay thế (gần đây nhất là Quyết định số 27/2008/QĐ-NHNN ban hành ngày 30/9/2008) cho phù hợp với sự phát triển của thị trường và yêu cầu điều hành CSTT của NHNN trong thời kỳ hậu WTO.
Thứ hai, doanh số trúng thầu nghiệp vụ thị trường mở
Với mục đích, NVTTM là công cụ chủ yếu và quan trọng hàng đầu trong điều hành CSTT của NHNN, NHNN đã tập trung thực hiện việc điều hòa lưu thông tiền tệ thông qua công cụ này. Điều này thể hiện ở doanh số mua bán GTCG trên thị trường mở những năm qua tăng nhanh hàng năm, bình quân hàng năm đạt trên 140%.
Bảng 1: TỔNG DOANH SỐ TRÚNG THẦU NVTTM TỪ NĂM 2000 - 2008
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
thực hiện
Số
phiên thực hiện
Khối lượng trúng thầu theo các
phương thức giao dịch (tỷ đồng)
Doanh
số bình quân
Tốc độ
tăng trưởng (%)
Mua kỳ hạn
Mua
hẳn
Bán
kỳ hạn
Bán
hẳn
Tổng cộng
2000
17
480
874
550
-
1.904
112
2001
48
60
3.254
570
50
3.934
82
106,7
2002
85
-
7.246
1.900
-
9.146
108
132,5
2003
107
-
9.844
11.340
-
21.184
198
131,6
2004
123
-
60.986
-
950
61.936
504
192,4
2005
159
-
100.679
1.100
700
102.479
649
65,5
2006
162
36.833
-
200
87.202
124.235
767
21,5
2007
355
65.821
554.746
620.567
1.748
399,5
2008
402
947.205
12.022
76.837
1.036.064
2.577
67
Tổng cộng
1457
1.050.399
182.883
27.682
720.485
1.981.449
749
140
Nguồn: Tổng hợp từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - www.sbv.gov.vn
& Tạp chí Ngân hàng số 24 (03/1/2009)
Tỷ đồng
Biều đồ 1: DOANH SỐ TRÚNG THẦU NVTTM TỪ NĂM 2000 - 2008
Đặc biệt là vào năm 2007, doanh số trúng thầu tăng lên đột biến đạt 316.507 tỷ đồng, gấp 2,54 lần đối với năm 2006. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì trong năm 2007, lạm phát của nền kinh tế có dấu hiệu tăng mạnh, công cụ NVTTM được sử dụng chủ yếu và linh hoạt vì không tạo thêm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát tăng mạnh.
Từ năm 2000 - 2008, tổng doanh số trúng thầu nghiệp vụ thị trường mở đã đạt con số 1.981.449 tỷ đồng, bình quân hàng năm đạt 220.161 tỷ đồng/năm. Doanh số hàng năm đều tăng trưởng với tốc độ cao, năm 2008 gấp 545 lần so với năm 2000. Điều này chứng tỏ khả năng điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của các TCTD và các điều kiện của thị trường tiền tệ ngày càng tăng.
Thứ ba, hàng hóa giao dịch trên thị trường mở
Bảng 2: HÀNG HÓA GIAO DỊCH TRÊN THỊ TRƯỜNG MỞ
Năm
GTCG
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Tín phiếu KBNN
x
x
x
x
x
x
x
x
x
Tín phiếu NHNN
x
x
x
x
x
x
x
x
x
Trái phiếu CP
x
x
x
x
x
x
Trái phiếu KBNN
x
x
x
x
x
x
Trái phiếu đầu tư
x
x
x
x
x
x
Trái phiếu CP
(QHTPT phát hành)
x
x
x
x
Tr.phiếu địa phương (UBND Hà nội phát hành)
x
x
x
x
Tr.phiếu ĐP (UBND Tp.HCM phát hành)
x
x
x
x
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Hàng hóa trên thị trường mở ngày càng được đa dạng hóa hàng năm. Tuy nhiên, phải thừa nhận một thực tế là bên cạnh các GTCG như tín phiếu KBNN, NHNN, trái phiếu CP,.... thì các chứng chỉ tiền gửi của NHTM, thương phiếu,.... cũng được đưa ra giao dịch trên thị trường mở ở các nước trên thế giới. Điều đó chứng tỏ danh mục GTCG giao dịch trên thị trường mở ở Việt Nam vẫn còn hạn chế, chưa tạo tính thanh khoản cho thị trường.
Thứ tư, thành viên tham gia vào thị trường mở
Bảng 3: THÀNH VIÊN THAM GIA THỊ TRƯỜNG MỞ
Năm
Số lượng thành viên
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
NHNN Việt Nam
1
1
1
1
1
1
1
1
1
NHTM Nhà nước
4
4
4
5
5
5
5
3
3
NHTM Cổ phần
9
10
10
11
13
17
23
32
38
Ngân hàng nước ngoài
4
4
5
5
6
9
11
14
14
Ngân hàng liên doanh
1
1
1
1
1
1
2
4
4
Năm
Số lượng thành viên
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Công ty tài chính
1
1
1
1
1
1
1
1
1
Quỹ Tín dụng NDTW
1
1
1
1
1
1
1
1
1
Tổng số thành viên
21
22
23
25
26
35
44
56
62
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Số lượng thành viên tham gia thị trường mở ngày càng tăng, năm 2008, có 4 NHTM quốc doanh, 38 NHTM cổ phần, 4 Ngân hàng liên doanh, 14 Ngân hàng nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 2 quỹ và công ty tài chính. Như vậy, số lượng thành viên tham gia tăng lên và không chỉ là NHTM mà còn có sự tham gia của ngân hàng nước ngoài, các công ty tài chính,....
Sự hiện diện của các TCTD tiêu biểu nhưng chỉ chiếm 44% tổng số các TCTD hiện có và tập trung ở nhóm NHTM cổ phần, cho thấy mức độ tham gia của các thành viên vẫn còn nhiều hạn chế. Điều này dẫn tới một thực tế là có những TCTD có nhu cầu thực sự tham gia vào thị trường mở nhưng không có cơ hội. Vì vậy, NHNN cần có những điều chỉnh kịp thời để tăng số lượng thành viên tham gia thị trường đặc biệt trong bối cảnh ngày càng có nhiều tổ chức tài chính quốc tế tham gia.
Thứ năm, phương thức thực hiện NVTTM
Ở Việt Nam, phương thức thực hiện NVTTM được NHNN thực hiện theo phương thức đấu thầu, thực hiện xét thầu cho từng thành viên tham gia. Trước năm 2007, việc đấu thầu được thực hiện theo hình thức đầu thấu lãi suất cho từng thành viên. Từ năm 2007 trở lại đây, khi tỷ trọng của doanh số giao dịch trên thị trường mở với lượng tiền cung ứng ngày càng có xu hướng ngày càng gia tăng và đứng trước yêu cầu ngày càng gia tăng của nền kinh tế NHNN đã thực hiện đấu thầu khối lượng có công bố lãi suất trong các phiên chào bán nhằm khuyến khích các thành viên mua bán.
Thứ sáu, số phiên và tuần suất giao dịch
Hiện nay, NHNN đang áp dụng hình thức: Mua hẳn, mua có kỳ hạn, bán hẳn, bán có kỳ hạn. Năm 2000, khi mới thực hiện NVTTM, các phiên giao dịch được tổ chức định kỳ với chu kỳ 10 ngày/phiên. Năm 2002, NHNN đã tăng định kỳ tổ chức các phiên giao dịch trên thị trường là 2 phiên/tuần và thông tin định kỳ các phiên giao dịch. Việc tăng cường số lượng phiên giao dịch đã giúp các thành viên tham gia chủ động, linh hoạt và kịp thời điều chỉnh lượng vốn khả dụng đáp ứng nhu cầu kinh doanh tiền tệ của mình. Ngoài ra NHNN còn thực hiện các phiên giao dịch đột xuất theo yêu cầu thực tế. Số phiên giao dịch tăng nhanh và đến năm 2008, số phiên giao dịch đạt 1 phiên/1 ngày.
Bảng 4: SỐ LƯỢ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 110920.doc