Đề án Doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần

MỤCLỤC

A- Lời nói đầu

I- Lý do chọn đề tài 1

II- Đối tượng nghiên cứu 1

III- Mục tiêu nghiên cứu 1

IV- Phương pháp nghiên cứu 1

B- Nội dung:

I- Nền kinh tế nhiều thành phần 2

II- Sự tồn tại của doanh nghiệp Nhà nước 5

III- Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần 7

IV- Địa vị pháp lý của doanh nghiệp Nhà nước 7

V- Doanh nghiệp Nhà nước ở thời kỳ trước đây, hiện tại và tương lai 22

C- Kết luận

I- Cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước 46

II- Kiện toàn và tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước 50

III- Cổ phần đa dạng hoá sở hữu doanh nghiệp Nhà nước 58

IV- Tạo lập môi trường vĩ mô thuận lợi cho doanh nghiệp Nhà nước hoạt động 59

 

doc61 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1793 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước ta được hình thành ở Miền Bắc từ năm 1954 và ở Việt Nam trở sau 1975, dựa trên 3 bộ phận chủ yếu sau: - Một là, do quốc hữu hoá các doanh nghiệp của chính quyền cũ - Hai là, do Nhà nước ta xây dựng từ nguồn vốn của ngân sách hoặc vốn nợ và viện trợ của các nước, các tổ chức quốc tế - Đặc biệt các nước XHCN cũ. Ba là, do việc cải tạo các xí nghiệp của các nước tư bản trong nước khi tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các giai cấp tư sản. Do hình thái từ nhiều nguồn khác nhau như vậy, nên hệ thống doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta có đặ trưng lĩnh vực khác biệt do với các nước trong khu vực và trên thế giới, đó là: Các doanh nghiệp Nhà nước được xây dựng trên cơ sở những quan điểm rất khác nhau, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, cơ cấu kinh tế tự lực tự cường, phát triển kinh tế đã phương và xây dựng huyện... Mặc dù có nhiều thiếu sót mà HĐ 6 đã phê phán, doanh nghiệp Nhà nước đã có đóng góp lịch sử to lớn và đang chiếm vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. a- Quy mô các doanh nghiệp phần lớn là nhỏ bé, cơ cấu phân tán điều này được thể hiện trên các phương diện sau: * Về số lượng lao động Trên 2/3 tổng số doanh nghiệp Nhà nước có sổ lao động dưới 200 người chỉ có khoảng 4% doanh nghiệp có sổ lao động trên 1000 người. Những doanh nghiệp có hàng trục ngàn công nhân viên với xuất hiện trong ngành khai khoáng. Do quy mô lao động trong phần lớn các doanh nghiệp thuộc diện nhỏ bé, nếu dẫu có hàng chục ngàn đơn vị 13 lao động trong toàn khu vực doanh nghiệp Nhà nước để chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong tổng số lao động xã hội chưa đến 6%. Riêng lao động trong công nghiệp Nhà nước, mới chiếm khoảng 2% lao động xã hội * Về mức độ tích tụ vốn xét mức độ tích tụ vốn. Doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều hạn chế, phần lớn có mức vốn quá thấp có thể thấy được thông qua biểu sau: Mức độ tích tụ (30.3.93) Công ty Tổng doanh nghiệp Nhà nước Doanh nghiệp Nhà nước Trung ương Doanh nghiệp Nhà nước ĐP Số lượng Cơ cấu Số lượng Cơ cấu Số lượng Cơ cấu Tổng DNNN 8750 100 1655 100 7095 100 Vốn < 1 tỷ 4285 49 241 14,6 4044 57 1 < 5 tỷ 2865 32,7 570 34,4 22.95 32,3 5 < 25 1199 13.7 561 33,9 638 9.0 25: 100 187 3,3 195 11,8 9,2 1,3 > 100 114 1,3 88 5,3 26 0,4 Như vậy gần một nửa doanh nghiệp Nhà nước chỉ có vốn 5 tỷ đồng, cả nước chỉ có 401 doanh nghiệp có số vốn trên 20 tỷ. Số doanh nghiệp lớn với số vốn trên 100 tỷ chiếm chỉ hơn 1% số doanh nghiệp. Mức trang bị vốn cho 1 lao động của doanh nghiệp Nhà nước là 31.160.000 trong đó của doanh nghiệp Nhà nước 6B thương mại là 110.330.000 còn Nhà nước 12.620.000 b- Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu: từ một số ít doanh nghiệp Nhà nước được đầu tư vốn, phần lớn doanh nghiệp Nhà nước đã được thành lập khá lâu, có trình độ kinh tế thấp, công nghiệp lạc hậu. Theo báo cáo điều tra của bộ khoa học kỹ thuật- môi truờng cho thấy trình độ công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam kém các nước khác từ 3 đến 4 thế hệ (30 đến 40 năm) có doanh nghiệp còn sử dụng công nghệ từ những năm 30 - 40. Nhiều thiết bị sau 14 - 15 năm mới được thay đổi trong khi ở các nước khác là 5 năm. Theo số liệu thống kê, trong công nghệ có gần 26% thiết bị do Liên Xô cung cấp, 24% của các nước Đông Âu gần 20% của các nước ASEAN trên 18% là của các nước khác còn lại là tự chế. Với cơ cấu đầu tư kỹ thuật, như trên ta thấy tránh đồng vộ của các doanh nghiệp thấp, chỉ mới các 28% doanh nghiệp Nhà nước có trang thiết bị tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ. Mức sử dụng thay thiết bị chỉ đạt 50% công suất, do điều kiện kỹ thuật như vật và khả năng cung cấp tài chính của Nhà nước cho doanh nghiệp Nhà nước giảm nên tình trạng máy móc thết bị cũng yếu kém. Trên 50% TSLĐ của doanh nghiệp Nhà nước đã hao mòn quá 1/2 chỉ có 26% TSLĐ hao mòn dưới 30%. Với những gì đã nêu trên, nhiều doanh nghiệp khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và ngay cả với hãng nước ngoài trên thị trường nội địa vì hao phí vật chất quá lớn. Có báo cáo còn cho thấy chỉ có khoảng 15% sản phẩm của ta đạt chất lượng xuất khẩu 70% có thể tiêu thụ trong nội địa. số sản phẩm không tiêu thụ được đã chiếm 10% tổng số lưu động của các doanh nghiệp, làm cho sự khan hiếm về vốn cũng trở lên trầm trọng và gay gắt hơn. c- Việc phân bổ về ngành và vùng còn bất hợp lý Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước của chúng ta chủ yếu được bố trí ở các thành phố lớn, nhiều vùng của đất nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao động dồi dào song dường như các doanh nghiệp không có; Miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng Sông Cửu Long... Phân bổ doanh nghiệp Nhà nước theo ngành như sau: Ngành Số doanh nghiệp Tỷ trọng % Công nghiệp 2271 39,7 Nông nghiệp 661 10,1 Lâm nghiệp 423 6,5 XD 1034 15,8 GTVT 236 3,6 Bưu điện 3 0,1 Thương nghiệp DV 1774 27,1 Ngành khác 142 2,2 Các ngành có nhiều vốn nhất là Năng lượng 15039 tỷ GTVT 4654 Công nghiệp nhẹ 3757 nông nghiệp và CNThực phẩm 3491 Thương mại 3433 Xây dựng 2157 Mức trang bị vốn cho 1 lao động không hợp lý Thương nghiệp dịch vụ 35,3T/người GTVT 34,5 Công nghiệp 30,6 Trong khi đó Xây dựng 8,2 Lâm nghiệp 8,1 Nông nghiệp 13,9 2- Doanh nghiệp Nhà nước ở thời kỳ trước đây (KHHTT) Vì nhận thức rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chỉ có 2 thành phần TKQD và tập thể, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo nên Nhà nước ta đã giành sự ưu tiên đặc biệt cho việc phát triển hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Nhờ đó hệ thống doanh nghiệp Nhà nước phát triển hết sức nhanh chóng các doanh nghiệp Nhà nước có mặt ở khắc mọi ngành mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, có doanh nghiệp Nhà nước ở Trung ương, địa phương theo thống kê đến 1989 cả nước có 12094 doanh nghiệp Nhà nước các loại với trên 90% tổng số lao động kinh tế, cán bộ khoa học, quản lý được đào tạo có hệ thống của cả nước. Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước đã đóng vai trò chủ yếu trong việc sản xuất và cung cấp cho xã hội các lực lượng sản xuất, hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng cá nhân và xã hội Điện phát ra chiếm 100% Thép 100% Máy cắt gọt kim loại 100% Máy bơm nước 100% Xi măng 100% BCVT thông 100% Vận tải đưởng sắt Thuốc tân dược 100% Giấy 100% Bia chai 100% Thuốc lá 100% Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ yếu trong việc đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Năm 1989 tổng số thuế Nhà nước thu được là 3128 tỷ trong đó thuế thực thi công nghiệp thương nghiệp 308 tỷ, thuế XNK 383 tỷ, riêng thuế thu từ KTQD đạt 2019 tỷ chiếm 64% có thuế nước trong thời kỳ này doanh nghiệp Nhà nước đã đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân 3- Doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Khi chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp Nhà nước không còn được bao cấp như trước nữa, mặt khác lại bị các thành phần kinh tế cạnh tranh lĩnh vực mạnh mẽ, do vậy hàng loạt doanh nghiệp Nhà nước không trụ nổi buộc phải phá sản hoặc giải thể. Số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm nhiều kể từ năm 1990 - 1993 Thời gian Số doanh nghiệp Nhà nước TT Tỷ trọnh so với 1989 (%) 21 - 12 - 1989 12084 100 01 - 01 - 1992 9190 77 31.12.1992 8750 72 01.06.1993 7060 58.4 Trong tổng số 7060 doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động (01.08.93) cũng có tới 375 doanh nghiệp không có khả năng tồn tại cần phải tiếp tục xử lý. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng trên thực tế việc sắp xếp lại chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp Nhà nước của địa phương còn doanh nghiệp Nhà nước Trung ương vẫn tăng lên 16% và việc sắp xếp lại diễn ra không đáng kể Mặc dù các doanh nghiệp Nhà nước từ năm 89 - 93 đã giảm gần 1 nửa song có sự đổi mới về tổ chức quản lý, về kỹ thuật và công nghệ của các doanh nghiệp Nhà nước còn lạc hậu nên sản xuất của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước vẫn tăng các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ yếu trong nhiều ngành kinh tế đặc biệt là trong những ngành quan trọng đòi hỏi đầu tư lớn, công nghệ, kỹ thuật cao và ngành sản xuất và cung ứng loại hàng hoá và dịch vụ công cộng. Đồng thời hệ thống doanh nghiệp Nhà nước vẫn là thành phần kinh tế đóng góp nhiều nhất cho ngân sách Nhà nước 1990 1991 1992 1- Tốc độ phát triển kinh tế (GDP) của nền kinh tế 5,32 6,0 8,3 2- Tỷ trọng kinh tế quốc doanh 34,0 36 40 3- Tỷ lệ đóng góp của quản trị kinh doanh trong ngân sách Nhà nước 65 69 73 Tuy có những đổi mới quan trọng, có những bước tiến đáng kể trên nhiều lĩnh vực, Nhưng hiện tại hệ thống doanh nghiệp Nhà nước có những tồn tại hết sức lớn, đó là: Số lượng nhiều và phân tác: đến thời điểm 1/6/19939 còn 7060 doanh nghiệp Nhà nước nếu là 576 doanh nghiệp. Không còn hoạt động thì doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn 6544 đơn vị trong đó 4573 doanh nghiệp do địa phương quản lý và 1971 doanh nghiệp do Trung ương quản lý, trong đó doanh nghiệp do địa phương quản lý trải khắp 53/53 tỉnh thành phối, Nơi ít nhất là Trà Vinh 19 doanh nghiệp nhiều thành phố Hồ Chí Minh 458 doanh nghiệp. Số doanh nghiệp trung ương thuộc 37 bộ và các cơ quan trung ương, nhiều nhất là bộ Nông nghiệp mà doanh nghiệp thuộc phân 352 doanh nghiệp. Có nhiều cơ quan trung ương không cần thiết phải thành lập doanh nghiệp nhưng cũng có từ 1 đến vài chục doanh nghiệp như Ban Việt Kiều trung ương, UB dân tộc miền núi Trung tâm khoa học và công nghệ quốc gia. Các doanh nghiệp còn phân tán ở khắp các ngành nghề sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Trong đó nhiều ngành không nhất thiết phải có quốc doanh hoặc không cần tập trung nhiều doanh nghiệp như vậy ví dụ: CN: - Sản xuất vật liệu xây dựng 358 doanh nghiệp - Gỗ lâm sản 139 doanh nghiệp - LTTP 403 doanh nghiệp Nông lâm nghiệp Trồng trọt 291 doanh nghiệp Chăn nuôi 192 doanh nghiệp Trồng rừng 257 doanh nghiệp * Kỹ thuật và công nghệ lạc hậu: Mặc dù trong những năm qua, kỹ thuật và công nghiệp sản xuất của các nhà doanh nghiệp đã được đổi mới khá nhiều. Tuy nhiên so với Nhà nước trong khu vực và trên thế giới kỹ thuật và công nghệ của nước ta vẫn phụ thuộc vào lạc hậu, trình độ trang bị cho người lao động còn thấp theo báo cáo của tổng cục thống kê vốn trang bị cho một bình quân của doanh nghiệp Nhà nước mới đạt 245 thuộc đồng. Trong đó ngành trang bị cho là khu nghiệp dịch vụ đạt 35,5 (Tđ) giao thông vận tải 34,5 (Tđ) thấp nhất là lâm nghiệp 8,1 và xây dựng 8,2. Điều đáng quan tâm là nhiều doanh nghiệp tiến hành đổi mới kỹ thuật và công nghiệp phát triển nhưng do những lý do lại đi nhập các loại kỹ thuật và công nghệ lạc hậu đã bị thế giới thải. Theo báo cáo của bộ công nghiệp thì thời gian qua có 70% các doanh nghiệp của bộ đã nhập về cac loại thiết bị và công nghệ lôi thôi. * Hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp: Chuển sang cơ chế mới, các doanh nghiệp Nhà nước đều có người cố gắng duy trì và phát triển sản xuất, gìn giữ đội ngũ lao động bằng cách cải tiến kỹ thuật mở rộng mặt hàng kinh doanh, không ít doanh nghiệp đã có tiến bộ đáng kể. đó là những lỗ lực rất đầy triển vọng xong hiệu quả kinh tế đối với Nhà nước chưa có bước tiến tương xứng. Tuy sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước mấy năm nay bắt đầu được phục hồi và phát triển nhưng hiệu quả lại có xu hướng giảm. Tỷ xuất lợi nhuận bình quân năm 1992 tính trên vốn sử dụng là 4,8%/năm và tính trên doanh thu trên tháng là 3%. Đó là tỷ suất lợi nhuận quá thấp so với tỷ lệ lạm phát và lãi suất ngân hàng. Hầu hết các ngành sản xuất vật chất sử dụng vốn với hiệu quả thấp. Ngành công nghiệp chiếp 36% tổng số vốn sử dụng và trên 50% tổng số vốn ngân sách cấp của khu vực doanh nghiệp Nhà nước nhưng tỷ suất lợi nhuận trên 1 đồnh vốn chỉ đạt 4,6% năm trong tổng kim ngạch xuất khẩu các thành phần phẩm chỉ chiếm 6,8% là thiết thực và nông sản 18,5 nguyen liệu và dầu thô Ngành giao thông vận tải, đạt 4,2% ngành nông nghiệp đạt 2,3% các ngành dịch vụ có điều kiện quay vòng vốn nhanh song tỷ suất lợi nhuận không cao. Ngành thương nghiệp dịchh vụ 7,4 trong đó nội thương 6,0%, ngoại thương 6,4%, thương nghiệp tổng hợp 9,4%, du lịch 17,2% dịch vụ 15,8%. Trong tổng số 6544 doanh nghiệp còn hoạt động chủ có 12,8% trong các doanh nghiệp sản xuất vật chất có tỷ suất lợi nhuận từ 15% năm trở lên và 4,3% trong các ngành dịch vụ có tỷ suất lợi nhuận từ 20% năm trở lên 7,6DN có tỷ suất lợi nhuận từ 8 - 15 % năm 47,6% có tỷ xuất lợi nhuận dưới 8% năm không có kỹ năng hoàn trả nợ vay vốn. Đáng lưu ý là gần 11,6% sản xuất kinh doanh thua lỗ và 12% không có loại nhuận tức là 1/4 doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh không có lãi và năm1992 còn bị thua lỗ 451 tỷ đồng trong số này có 1142 doanh nghiệp đã thành lập lại theo nghị định 388 cổ phần. Theo ban thanh toán công nợ, hiện còn 3000 tỷ đồng vốn tín dụng của các doanh nghiệp Nhà nước đã giải thế, không đòi được về ngân sách phải gánh chịu. Nếu tính cả giá trị tài nguyên, đất đai nhà xưởng được sử dụng mà hiện nay chưa tính hoặc chưa đủ mức hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp nữa. Nhiều nguyên nhân làm cho hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước thấp song trong đó có một nguyên nhân hết sức quan trọng là tiêu hao vật chất quá cao. Năm 1990 Năm 1991 Năm 1992 - Tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội toàn nền kinh tế 48,68 49,55 51,69 - Doanh nghiệp Nhà nước 60,06 60,86 61,34 Ngoài doanh nghiệp Nhà nước 43,07 42,97 44,81 * Sự đóng góp của doanh nghiệp Nhà nước cho ngân sách chưa tương xứng với phần đầu tư của Nhà nước cho nó, cũng như với tiền lực của doanh nghiệp Nhà nước Doanh nghiệp Nhà nước sử dụng phần lớn trang thiết bị hiện đại của nền kinh tế quốc dân, hầu hết cán bộ được đào tạo được vay 80% tổng số vốn tín dụng và đã vay nước ngoài không kể trong đó nguồn thu trong nước như sau: Năm 1990 Năm 1991 Năm 1992 - Nộp thuế 18,23 37,86 26,28 - Bán dầu thô 17,58 19,26 26,92 - Khấu hao cơ bản 4,01 2,36 10,33 Như + KHCB 22,24 40,22 36,61 Thuế + dầu thô + KHCB 39,82 39,48 57,53 Đóng góp cho ngân sách Nhà nước của doanh nghiệp gồm thuế bán dầu thô và KHCB. Thoạt nhìn ta thấy tỷ lệ khá cao nhưng nếu từ phần thuế tài nguyên và dầu thô ra chỉ thuế và KHCB băm 1999 các doanh nghiệp chỉ nội có 36,61% và nếu tính phần KHCB nửa thu phần nộp thuế của doanh nghiệp Nhà nước còn 26,28%. Con số này nếu so với tỷ lệ tổng sản phẩm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế là 41,61% thì không phải là cao. Nếu trong thuế ta trừ đi phần thuế tiêu thụ đặc biệt thu thông qua doanh nghiệp Nhà nước chứ không phải doanh nghiệp Nhà nước gánh chịu mà do người tiêu dùng trả trừ phần của doanh nghiệp Nhà nước thực tế nộp ngân sách còn nhỏ nữa. Nếu chúng ta lấy phần đóng góp của doanh nghiệp Nhà nước cho ngân sách Nhà nước trở đi phần ngân sách đã đầu tư trở lại cho doanh nghiệp Nhà nước thì tỷ lệ còn thấp hơn nhiều nữa. * Tình trạng mất và thất thoát lớn đang diễn ra hết sức nghiêm trọng. Tổng vốn kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp Nhà nước năm 1992 so với năm 1991 tăng 15,66% nếu tính tỷ lệ phạm phát năm 1992 là 17,6% thì vốn của doanh nghiệp đã giảm đi một cách tương đối so với năm1991 Trong tổng số vốn mà doanh nghiệp Nhà nước có được tính đến 31.12.92 còn bao gồm 1 phần vốn vay tín dụng trong năm 92. Nếu trừ đi số vốn tín dụng này thì số vốn của các doanh nghiệp chỉ còn bằng 91,43% so với 91. Theo điều tra ngày 1.6.1993 của tổng cục thống kê khả năng bảo toàn vốn và phát triển vốn không thực hiện được số tăng thấp hơn tỷ lệ trượt giá. Nếu tránh sự giảm giá của đồng vốn do lạm phát thì tổng số vốn của doanh nghiệp Nhà nước thật sự mất đi là 22,26% * Việc quản lý đối với hệ thống doanh nghiệp Nhà nước còn quá yếu ở tầm vĩ mô, thiếu quy hoạh, hướng dẫn và trợ giúp đắc lực, nhiều chính sách còn gò bó không thích hợp và thay đổi đột ngột, thủ tục phiền hà, cách giải quyết tuỳ tiện chưa tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp Nhà nước. Việc đào tạo, bồi dưỡng cho giám đốc bỏ đội ngũ quản lý về kinh tế thị trường, về các chính sách mới hầu như bị lãng quên và không có cơ quan nào đúng ra tổ chức, điều hoà phối hợp, việc phân công phân nhiệm giữa bộ quản lý ngành và bộ tài chính không đủ rõ ràng và cụ thể. Đặc biệt nghiêm trọng là tình hình buông lỏng quản lý tài chính của Nhà nước mất vai trò thực sự là người chủ sở hữu. - Đất đai, TP, nhà xưởng và một phần trang thiết bị không được hạch toán, hạch toán không đủ. - Việc chuyển giao vốn, liên doanh, liên kết vay nợ trong nước và ngoài nước diễn ra khá tuỳ tiện - Không có chế độ giám sát giá hợp đồng, quản lý phi lợi nhuận bình quân, chưa có chế độ kiểm toán, báo cáo tài chính công khai. - Động lực để doanh nghiệp Nhà nước đóng góp cho Nhà nước thấp hoặc không có, động lực vật chất theo chất độ cho giám đốc thấp. Hiện nay ở các doanh nghiệp Nhà nước còn tồn tại ít nhất 2 sổ sách chế độ chứng từ, biên lai hach toán, thống kê có tính hình thức và đối phó, thu nhập của người lao động và giám đốc kiểm soát được và không báo cáo trung thực quản lý phí, chi phí đi nước ngoài, trong nước, tiếp dân quà cáp quá cao so với thu thu nhập người lao động và hiệu quả. Nhiều giám đốc tham gia vào những hoạt động kinh doanh ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp, ngày càng phát hiện được nhiều sự lạm dụng, chiếm đoạt tài sản làm giầu cá nhân, buôn lậu, kinh doanh bất hợp pháp của doanh nghiệp. 4- Những nguyên nhân a- Tình trạng kém hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước hậu quả tất yếu của những khuyết điểm trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, công nghiệp hoá của những sai lầm trầm trọng trong bố trí cơ cấu kinh tế và áp dụng cơ chế quản lý kinh tế nhằm phát triển nền kinh tế tập trung, hiện vật, bao cấp, khép kín và hướng nội thay thế nhập khẩu. Trong hơn 40 năm qua, ở nước ta phát triển kinh tế quốc doanh đã được xem là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và các doanh nghiệp Nhà nước đã được coi là cơ sở kỹ thuật của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vì đồng nhất xã hội chủ nghĩa với công hữu và kinh tế quốc doanh, lẫn lộn gữa mục tiêu và phương tiện nên chúng ta đã phát triển tràn lan các doanh nghiệp Nhà nước và sự đóng góp của chúng đã không tương xứng với sự đầu tư của Nhà nước. Trong một thời gian dài, chúng ta đã mắc sai lầm định giải 1 bài toán quốc doanh trên nền tảng của hệ lý luận cũ, không hiện thực, chủ quan và duy ý chí về mô hình chủ nghĩa xã hội, mô hình phát triển và quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo quan điểm truyền thống, không thể tạo ra sự chuyển biến căn bản về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước nếu hệ quan điểm nước này vẫn làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho những chính sách và chế độ quản lý doanh nghiệp Nhà nước. b- Chúng ta chậm và không cương quyết trong việc cải cách chế độ sở hữu trong doanh nghiệp Nhà nước Về mặt pháp, lý tài sản, tiền vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước thuộc sở hữu toàn dân nhưng trên thực tế tính chất toàn dân của sở hữu trong doanh nghiệp Nhà nước bị hao mòn 1 cách nghiêm trọng. Do các hình thức cụ thể của sở hữu toàn dân về mặt kinh tế không được xác định nên hầu hết những người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước thờ ơ và xa cách vốn sở hữu toàn dân. Quan điểm sở hữu toàn dân là không phải của ai cả đã bén rễ ngày càng sâu sắc trong suy nghĩ và hành động của họ. Tình trạng không có ai là chủ sở hữu đích thực là nguyên nhân của sự tham nhũng của những nguyên nhân của sự tham nhũng của những người có chức có quyền và sự lãnh đạo thiếu trách nhiệm, thiếu kỷ cương, kỷ luật của người lao động là sự sút kém về năng suất chất lượng và hiệu quả, không trung thực trong công tác kế toán, thống kê, thiếu minh bạch trong phân phối thu nhập... trong doanh nghiệp Nhà nước c- Thiếu mô hình tổ chức và quản lý doanh nghiệp Nhà nước hữu hiệu theo những yêu cầu của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Mô hình tổ chức của các xí nghiệp, liên hiệp các xí nghiệp, tổng Công ty mà chúng ta đã áp dụng từ hơn bốn thập niên qua là con đẻ của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hiện vật, bao cấp và được nền kinh tế này nuôi dưỡng. Nó đã không đáp ứng với những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và đã bộc nộ rõ những khuyết tật của nó. - Nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải xác định về xác nhận rõ quyền sở hữu tài sản, tiền vốn trong doanh nghiệp nhưng ở tất cả các mô hình tổ chức và quản lý doanh nghiệp Nhà nước kể trên sở hữu đã trở thành vô chủ. - Trong nền kinh tế thị trường người có quyền quyết định mọi vấn đề chiến lược phát triển của doanh nghiệp Nhà nước là chủ sở hữu Nhà nước chứ không phải người lao động và đại diện công nhân viên chức của doanh nghiệp. - Người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước chỉ là người "làm công ăn lương" cho Nhà nước. Không thể trao cho người lao động và đại hội công nhân viên chức trong doanh nghiệp Nhà nước những quyết định của chủ sở hữu. Muốn trở thành một chủ sở hữu đích thực người lao động phải bỏ tiền mua cổ phần. Đã có một thời gian chúng ta có sai lầm là trao cho người lao động và đại hội công nhân viên chức nhưng thẩm quyền của người chủ sở hữu là Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường giám đốc doanh nghiệp Nhà nước là người làm thuê cho chủ sở hữu là Nhà nước. Nhưng trong các doanh nghiệp của ta, Giám đốc vừa có chức năng là giám đốc chủ vừa có chức năng là giám đốc điều hành. Hơn thế nữa, họ là một quan chức hành chính hơn là nhà kinh doanh thực thụ. Rất nhiều giám đốc doanh nghiệp Nhà nước không có kiến thức và không am hiểu nghề giám đốc bởi lẽ họ chưa bao giờ được đào tạo một cách có hệ thống. Việc trao cho giám đốc nhiều quyền lực trong đó đặc biệt là quyền lực của chủ sở hữu trong lúc không có cơ chế kiểm tra, giám sát hữu hiệu những hoạt động đã có một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng lãng phí, tham nhũng nghiêm trọng tài sản tiền vốn của Nhà nước d- Không đồng thời tiến hành của cách hành chính, tạo ra bộ máy và thể chế của Nhà nước pháp quyền nhằm tạo môi trường hành chính và luật pháp thuận lợi của cách doanh nghiệp Nhà nước. 5- Doanh nghiệp Nhà nước trong tương lai: trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và trong nền kinh tế thị trường ở đầu thập niên 90 chúng ta thấy rằng doanh nghiệp Nhà nước còn rất nhiều những tổn tại của sự phát triển của nó, vì vậy chúng ta phải đổi mới doanh nghiệp Nhà nước Để có quan điểm và các giải pháp hợp lý đối với doanh nghiệp Nhà nước cần nhận thức rõ bối cảnh hướng tới quá trình đổi mới và doanh nghiệp Nhà nước đó là: Nước ta phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chưa được bao lâu do đó các thành phần kinh tế chưa chiếm lĩnh và giữ đúng vai trò của mình. Do đó việc đối với doanh nghiệp Nhà nước cũng có nghĩa là xác định tương quan hợp lý giữa doanh nghiệp Nhà nước và các thành phần kinh tế khác sao cho mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội lớn nhất cho đất nước. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói chung còn nhỏ lẻ, đang ở giai đoạn ban đầu của sự phát triển, chưa phát huy được tiềm năng để trở thành đối tượng và đối tác của doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà nước chi kém hiệu quả, song do yếu tố lịch sử để lại nó đang buộc phải đóng vai trò lớn trong nền kinh tế quốc dân. Thực tiễn lao động đòi hỏi phải đổi mới doanh nghiệp Nhà nước căn bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Đó là một mâu thuẫn lớn song bắt buộc phải có giải pháp. Nói chung các quan hệ kinh tế quốc tế còn hạn hẹp kinh nghiệm chưa nhiều, do đó quan niệm cũ còn khá nặng nề trên thực tế còn tồn tại 2 khuynh hướng. Một mặt không muốn mạo hiểm tiếp tục duy trì từ cơ chế cũ để được bao cấp mặt khác tìm cách thoát khỏi cơ chế quản lý của Nhà nước. Cả 2 khuynh hướng đang làm trầm trọng thêm hơn trong nền doanh nghiệp Nhà nước Các thể chế pháp lý làm cơ sở cho chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường nói chung và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước nói riêng còn thiếu và kém hiệu lực, làm cho các doanh nghiệp thoát khỏi cơ chế cũ rất khó khăn. Quá trình đổi cùng một lúc phải giải quyết các vấn đề sau: Vốn, công nghệ, thị trường, lao động trình độ kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, riêng doanh nghiệp Nhà nước không thể nào đảm đương nổi. Bối cảnh trên đặt ra những mâu thuẫn, những khó khăn rất lớn trong việc đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, một mặt phải cương quyết đổi mới, mặt khác phải có giải pháp và bước đi phù hợp với trình độ và thực tế lịch sử. Để thấy được rõ sự phát triển của doanh nghiệp Nhà nước trong tương lai thông qua sự đổi mới của nó chúng ta có những quan điểm cơ bản sau: a- Trước hết là quan điểm về vai trò chỉ đạo của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp Nhà nước là một hệ thống của kinh tế Nhà nước, do Nhà nước trực tiếp quản lý với tư cách vừa thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước vừa là đại diện chủ sở hữu. Sức mạnh và vai trò chủ đạo chi phối của doanh nghiệp Nhà nước được tạo bởi sự hoạt động có hiệu quả, vai trò đó có sự điều chỉnh tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước có vai trò chủ đạo theo nghĩa là công cụ vật chất của Nhà nước để chi phối và điều tiết sự phát triển cuả toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước gắn với vai trò quản lý của nó đối với nền kinh tế thị trường. Về bản chất doanh nghiệp Nhà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50148.doc
Tài liệu liên quan