MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
I. Khái quát về hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp thương mại
1. Một số khái niệm 3
2. Chức năng của doanh nghiệp thương mại 4
3. Nội dung của hoạt động kinh doanh thương mại 5
II. Những mặt cần đổi mới trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp thương mại trong bối cảnh hội nhập hiện nay
1. Hội nhập kinh tế quá trình - điều tất yếu 11
2. Những nguy cơ, cơ hội và thách thức chủ yếu đối với các
doanh nghiệp thương mại Việt Nam 13
3. Những mặt cần đổi mới trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp thương mại 16
III. Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập
1. Xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý 24
2. Hoàn thiện bộ máy tổ chức để nâng cao hiệu quả hoạt động của các
doanh nghiệp thương mại 26
3. Xây dựng đội ngũ kinh doanh tốt 26
4. Đẩy mạnh các hoạt động marketing trong các doanh nghiệp thương mại
nhằm thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường 27
5. Thực hiện các biện pháp giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh 28
Kết luận 30
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1447 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đổi mới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh của doanh nghiệp thương mại đều có tác động liên hoàn với nhau, chỉ có phát triển hoạt động kinh doanh mới đánh giá được sâu sắc và đầy đủ những hoạt động này trong trạng thái thực của nó. Từ đó, nêu lên một cách tổng hợp về trình độ hoàn thành các mục tiêu, biểu hiện bằng hệ thống các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật – tài chính của doanh nghiệp.
Phát triển hoạt động kinh doanh cũng cho phép đánh giá mặt mạnh, mặt yếu trong công tác quản lý của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tìm ra biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, hoàn thiện công tác quản lý doanh nghiệp, huy động khả năng tiềm tàng về vốn, lao động và đất đai của doanh nghiệp.
Qua phát triển hoạt động kinh doanh doanh nghiệp thương mại còn có thể dự đoán xu thế phát triển kinh doanh thương mại của doanh nghiệp.
Chúng ta có thể thây đây là hoạt động có ý nghĩa chiến lược trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại và ta có thể khái quát nội dung của phát triển hoạt động kinh doanh như sau:
+ Phân tích chỉ tiêu về kinh doanh như: số lượng, doanh thu bán hàng, giá cả hàng hoá…
+ Các chỉ tiêu đó được phát triển trong mối quan hệ với các chỉ tiêu về điều kiện của quá trình sản xuất kinh doanh như: lao động, vốn, đất đai.
+ Xác định đặc trưng về lượng trong các giai đoạn, các quá trình kinh doanh.
+ Xác định xu hướng, nhịp độ phát triển, phát hiện nguyên nhân ảnh hưởng đến sự thay đổi của quá trình kinh doanh, tính chất và mức độ chặt chẽ của mối quan hệ giữa kết quả kinh doanh với các điều kiện sản xuất kinh doanh.
iI. Những mặt cần đổi mới trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong bối cảnh hội nhập hiện nay
Hội nhập kinh tế quốc tế - điều tất yếu
Thế kỷ XX qua đi để lại nhiều dấu ấn khó phai mờ và một trong số những điều đó, điều mà chúng ta không thể phủ nhận – thế kỷ XX là thế kỷ của cách mạng khoa học – kỹ thuật – công nghệ. Vào những năm 30 của thế kỷ XVIII, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ nhất đã đưa lao động thủ công trở thành lao động cơ khí. Cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ hai vào đầu thế kỷ XX đã phát triển lao động cơ khí trở thành lao động một nửa tự động hoá. Không dừng lại ở đây, cuộc cách mạng lần thứ ba với sự phát triển vượt bậc của khoa học – công nghệ đã biến khoa học – công nghệ trở thành lực lượng sản xuất. Từ đây có thể nói rằng, thế kỷ XXI sẽ có nhiều biến đổi sâu sắc hơn, đây là thế kỷ mà khoa học và công nghệ sẽ có những bước nhảy vọt chưa từng thấy. Chính điều này là một trong những nguyên nhân tạo nên xu quốc tế hoá nền kinh tế.
Khi khoa học – công nghệ trở thành lực lượng sản xuất thì hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu cần thiết thoả mãn sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển làm cho thị trường nội địa trở nên nhỏ hẹp, buộc các quốc gia ngồi lại với nhau để tìm cách khơi dòng chảy của hàng hoá, dịch vụ, đồng vốn và sức lao động. Nó đã mở ra thị trường thế giới, làm cho sản xuất và tiêu thụ của tất cả các nước đều mang tính thế giới, tình trạng tự cung tự cấp, bế quan toả cảng của các địa phương, các dân tộc trước đây đã bị thay thế bởi trao đổi và hợp tác, liên kết giữa các dân tộc.
Quốc tế hoá kinh tế cũng là quá trình phát triển mới của phân công lao động và hợp tác sản xuất vượt ra khỏi biên giới quốc gia vươn tới quy mô toàn thế giới, đạt trình độ và chất lượng mới. Thực tế đã chứng minh không một nước nào, dù lớn và giàu có đến đâu, cũng không thể tự mình sản xuất được tất cả những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế đáp ứng nhu cầu của mình. Quốc tế hoá kinh tế, đến nay mặc dù còn tồn tại những quan điểm trái ngược nhau, những rõ ràng đây là một xu thế phát triển của thời đại không thể khác được.
Quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu trên 2 cấp độ toàn cầu hoá và khu vực hoá, đặc trưng nổi bật của toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế là nền kinh tế thế giới tồn tại và phát triển như một chỉnh thể, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận, có quan hệ tương tác lẫn nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú. Tham gia quốc tế hoá kinh tế, các quốc gia vẫn hoàn toàn độc lập về chính trị, xã hội, vẫn là các chủ thể tự quyết định ý thức hệ, vận mệnh và con đường phát triển của mình. Nó đem đến sự chuyển biến nhanh chóng của thể chế kinh tế thế giới, đưa nền kinh tế thế giới bước vào cạnh tranh toàn cầu bên cạnh việc đẩy mạnh tìm kiếm sự hợp tác trong cạnh tranh.
Toàn cầu hoá kinh tế, một mặt tạo ra những cơ hội phát triển kinh tế cho từng quốc gia cũng như cho toàn thế giới nhưng nó cũng đưa đến những thách thức lớn ở nhiều góc độ khác nhau như: Sự gia tăng của các rủi ro kinh tế (khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, sự sụt giảm của thương mại toàn cầu, việc hình thành các “bong bóng” tài chính tiền tệ…), gây nên mâu thuẫn giữa kinh tế với chính trị và xã hội (làm suy giảm tính độc lập và chủ quyền quốc gia, gây nên sự phụ thuộc quá mức và các trung tâm kinh tế lớn, phươn hại đến sự phát triển văn hoá dân tộc…). Trong quá trình toàn cầu hoá kẻ mạnh thường thu nhiều lợi ích hơn còn người yếu dễ bị thua thiệt. Những quốc gia có tiềm lực lớn có điều kiện thuận lợi trong cạnh tranh quốc tế sẽ tìm cách khai thác quá trình toàn cầu hoá và cài đặt các lợi ích của họ. Nhưng các quốc gia phát triển chậm cũng không để bị động theo sau.
Toàn cầu hoá mặc dù có tồn tại những mâu thuẫn, những thách thức to lớn nhưng việc hội nhập kinh tế thế giới là một tất yếu khách quan, thách thức của việc không hội nhập còn lớn hơn rất nhiều. Chỉ quốc gia nào bắt kịp xu thế này, biết tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức mới đứng vững và phát triển. Cự tuyệt hay khước từ toàn cầu hoá kinh tế tức là tự gạt mình ra ngoài lề của sự phát triển. Để không bị tụt hậu, không bị đẩy lùi xa hơn về phía sau, Việt Nam đã chủ động vào cuộc. Hiện nay, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 170 nước, phát triển quan hệ thương mại với 130 nước và lãnh thổ; khai thông được quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ lớn trên thế giới, gia nhập ASEAN, APEC, ký hiệp định thương mại Việt – Mỹ… với WTO, nước ta trở thành quan sát viên từ năm 1995 và đang trong quá trình đàm phán đề gia nhập tổ chức này. Đây chính là bước đi quan trọng của quá trình hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, đưa nền kinh tế Việt Nam từng bước phát triển, rút ngắn khoảng cách với nền kinh tế khu vực và thế giới.
2. Những nguy cơ, cơ hội và thách thức chủ yếu đối với các doanh nghiệp thương mại Việt Nam
Hội nhập kinh tế quá trình không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan, mà được hiểu là việc một quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia các định chế kinh tế, tài chính quá trình, thực hiện các cam kết, điều ước quá trình tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư, loại bỏ rào cản vô hình, hữu hình đối với thương mại.
Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN nhằm thành lập khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong vòng 15 năm và Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) ngày 27 – 28.01.1992 tại Singapore đã khởi động và tác động ngày càng rõ nét đến nền kinh tế Việt Nam; cùng với việc tham gia APEC, chuẩn bị tham gia WTO đặt Việt Nam trước những cơ hội, nguy cơ và thách thức mới.
Nguy cơ
Một trong những chương trình lớn của AFTA là chương trình CEPT. Thực chất của CEPT là cắt giảm thuế quan chung xuống 0% - 5% khi các nước thành viên buôn bán với nhau và cùng với CEPT, các biện pháp phi thuế quan (NTMS) như biện pháp hạn chế định lượng (hạn ngạch, giấy phép); các biện pháp quản lý giá; quy tắc xuất xứ; các biện pháp kỹ thuật (quy định tiêu chuẩn, kỹ thuật, kiểm dịch…); các biện pháp về hải quan, thanh toán… đang dần dần được cắt giảm, do đó giảm đi đáng kể sự bảo hộ của nhà nước cho hoạt động thương mại, tạo thị trường khu vực tự do cạnh tranh.
Mặt khác, sự cạnh tranh đang ngày càng gay gắt hơn khi mà cơ cấu hàng hoá giữa các nước trong khu vực có sự tương đồng như nhau: các hàng nông sản phẩm nhiệt đới, các hàng công nghiệp chế biến, hàng công nghiệp tiêu dùng, hàng thuỷ hải sản…và như vậy sự cạnh tranh hàng hoá giữa các nước sẽ là sự cạnh tranh về giá cả, mẫu mã, chất lượng của hàng hoá. Điều này càng khó cho doanh nghiệp Việt Nam, vì trình độ phát triển kinh tế của các nước trong khu vực đã đi trước Việt Nam từ 20 đến 30 năm. Một số nước trong khu vực đã làm chủ được một số công nghệ nguồn; đã tiếp cận và thâm nhập được nhiều thị trường lớn, có chỗ đứng trên thị trường thế giới; thị trường trong nước ở các nước này đã thành hệ thống, đủ lớn cho sự phát triển độc lập của các doanh nghiệp trong nước. Điều này đặt các doanh nghiệp thương mại Việt Nam đứng trước nguy cơ phải cạnh tranh với các đối thủ quốc tế mạnh hơn, nhiều kinh nghiệm hơn, hàng hoá chất lượng cao hơn và giá cả thấp hơn. Đồng thời là nguy cơ thị trường trong nước có thể tràn ngập hàng hoá công nghệ cao của các nước trong khu vực. Dẫn đến doanh nghiệp thương mại sẽ đánh mất thị trường trong nước, thậm chí phá sản trước khi vươn ra thị trường thương mại toàn cầu.
Một nguy cơ khác đối với doanh nghiệp thương mại là sự thiếu thông tin về thị trường, đối tác và đối thủ. Diễn biến thị trường thay đổi từng giờ từng phút, do vậy các quy định kinh doanh phải nhanh chóng và chính xác, có được như vậy phụ thuộc vào nguồn thông tin có được, người chiến thắng là người làm chủ thông tin, nhưng có thể nói đây là điểm yếu rất lớn của doanh nghiệp thương mại Việt Nam.
Thêm vào đó, doanh nghiệp thương mại còn phải đối mặt với một nguy cơ khác trong quá trình hội nhập của Việt Nam là thị trường tiêu thụ là những người khó tính có thu nhập cao, dân trí cao, nhu cầu đa dạng. Vì vậy sẽ xảy ra cuộc chiến khốc liệt về chất lượng và giá cả.
Ngoài ra, doanh nghiệp thương mại cũng đứng trước nguy cơ về trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý chưa ngang tầm với yêu cầu của giai đoạn mới hoà nhập Quốc tế, thiếu giám đốc, tổng giám đốc tài năng.
Trên đây là những nguy cơ đặt ra với doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập, tuy nhiên nó cũng đem lại cho doanh nghiệp thương mại không ít cơ hội. Sau đây chúng ta sẽ xem xét những cơ hội đối với doanh nghiệp thương mại khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.
b) Cơ hội
Thứ nhất, doanh nghiệp thương mại có thể thâm nhập vào thị trường tiêu thụ rộng lớn hơn, phát triển quan hệ mua bán với các nước trong và ngoài nước. Nhưng chúng ta cũng phải hiểu rằng đây cũng là cơ hội của các nước bạn.
Thứ hai, có thể tìm và khai thác được những nguồn hàng có chất lượng cao hơn và giá rẻ hơn từ thị trường bên ngoài.
Thứ ba, việc mở rộng kinh doanh quốc tế có thể bổ sung cho những cơ hội hạn chế của thị trường nội địa. Ví dụ, môi trường kinh doanh ngày càng bình đẳng hơn, cơ hội giữa các doanh nghiệp là ngang bằng.
Thứ tư, cạnh tranh trên thị trường tăng nhanh là mối đe doạ hiện tại nhưng là hạt giống gieo mầm mới để có năng lực cạnh tranh cao hơn và là nhân tố kích thích doanh nghiệp tiên tiến phát triển trong tương lai trung và dài hạn.
Thứ năm là cơ hội có thể tiến hành cạnh tranh với các đối thủ ngay trên thị trường của họ.
Có thể nói hội nhập kinh tế đã mở ra rất nhiều cơ hội cho doanh nghiệp thương mại Việt Nam và trên đây là những cơ hội chủ yếu, ngoài ra còn một số cơ hội khác, nhưng cùng với nó hội nhập kinh tế cũng đem đến cho doanh nghiệp thương mại những thách thức khó khăn.
c) Thách thức
Thách thức đầu tiên đối với doanh nghiệp thương mại là phải làm sao bảo vệ thị trường trong nước chống lại hàng được nhập khẩu và phải làm sao để duy trì xuất khẩu sang các quốc gia khác. Nhìn chung, bao giờ người tiêu dùng luôn mong muốn loại hàng tốt với giá rẻ. Trong khi hàng hoá của các nhà sản xuất nội địa không thể thoả mãn nhu cầu này vì chất lượng chưa đạt hoặc giá vẫn còn cao do thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, kinh nghiệm… thì các nhà sản xuất nước ngoài sẵn sàng cung cấp khối lượng lớn với chất lượng cao giá rẻ, cùng phương thức thanh toán phù hợp với khách hàng. Điều này dẫn đến nguy cơ hàng hoá trong nước bị bóp ngẹt bởi hàng hoá nhập khẩu và sự phụ thuộc tất yếu của nền kinh tế vào các tập đoàn xuyên quốc gia. Vì vậy đây là thách thức hàng đầu và hết sức khó khăn không riêng gì với doanh nghiệp thương mại mà với tất cả doanh nghiệp Việt Nam nói chung.
Tiếp theo, một thách thức nữa với doanh nghiệp thương mại là doanh nghiệp Việt Nam trong hoà nhập và cạnh tranh quốc tế ở vị thế yếu hơn so với các nước trong khu vực. Vị trí của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trên trường quốc tế hiện nay không cao bắt nguồn từ rất nhiều nguyên nhân, ví dụ như hàng hoá chất lượng thấp, giá cao, thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về thị trường, dịch vụ khách hàng kém, chưa có chiến lược marketing cho mặt hàng kinh doanh… Những điểm hạn chế đó cần có thời gian để thể khắc phục nhưng nền kinh tế khu vực và thế giới đang ngày càng phát triển, do đó nó đòi hỏi sự lỗ lực và sự đổi mới không ngừng của mỗi doanh nghiệp.
Cuối cùng là hình thành một chiến lược, chính sách kinh doanh dượt đuổi như thế nào? Làm sao xác định chính xác các lợi thế cạnh tranh dài hạn tập trung được các nguồn lực để có sức mạnh tổng hợp. Muốn tồn tại và phát triển trong bối cảnh hiện nay phải có chiến lược tốt, phát huy lợi thế cạnh tranh, do đó đây là thách thức không tránh khỏi của doanh nghiệp thương mại.
Vài năm chuẩn bị cho quá trình hội nhập chỉ là khoảng thời gian ngắn ngủi với nhiều thách thức và khó khăn ở phía trước nhưng các doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay đang không ngừng đổi mới hoạt động kinh doanh của mình nhằm đạt được những mục tiêu của doanh nghiệp và mục tiêu của xã hội.
3. Những mặt cần đổi mới trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại
Ngày nay, trong điều kiện của một nước đang hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp thương mại Việt Nam có rất nhiều cơ hội để phát triển và cũng có không ít thách thức để vượt qua, nhất là khi Việt Nam tham gia đầy đủ vào Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong vài năm tới. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các doanh nghiệp đến nay chưa thực sự có sự chuẩn bị chu đáo, thậm chí chưa ý thức đầy đủ cho sự tham gia vào một thị trường chung trong khuôn khổ ASEAN, nơi mức độ cạnh tranh sẽ tăng cao. Nói chung, có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự “thờ ơ” của các doanh nghiệp thương mại Việt Nam trước yêu cầu hội nhập. Về tâm lý, nhiều lãnh đạo doanh nghiệp rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan do trình độ hạn chế, thiếu thông tin cũng như sự hiểu biết nên lúng túng trong việc lựa chọn hướng đi cho doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Nước ta đang trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường. Thể chế kinh tế thị trường của ta còn thiếu đồng bộ, trình độ vận hành và điều hành còn thấp. Trong khi đó, hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải “chơi” theo “luật chơi” của thị trường. Thực trạng khó khăn này đòi hỏi doanh nghiệp thương mại cần có sự lỗ lực lớn, thực hiện những đổi mới nghiêm túc và toàn diện hoạt động kinh doanh giữ vững vị thế của doanh nghiệp trên thị trường trong nước, từng bước len chân sang thị trường khu vực và thâm nhập thị trường thế giới. Sau đây chúng ta sẽ đề cập đến một số mặt cần đổi mới trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại.
a) Công tác nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp thương mại hiện nay không chỉ dừng lại tại thị trường trong nước mà cần tiến hành trên cả thị trường nước ngoài.
Toàn cầu hóa nền kinh tế làm cho nền kinh tế của mỗi nước hoà vào nền kinh tế thế giới, sản phẩm của một doanh nghiệp không chỉ tiêu thụ trong nước mà có thể tiêu thụ trên toàn cầu. Ngược lại sản phẩm của doanh nghiệp cũng phải chịu sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước khác. Vì vậy, các doanh nghiệp thương mại cần phải có thông tin đầy đủ chính xác về thị trường, phát hiện những nhu cầu lớn có hướng tiêu thụ trên thị trường quốc tế và báo động những nguy cơ cạnh tranh, nguy cơ bị lấn át. Quá trình cạnh tranh trên toàn cầu ngày càng trở nên gay gắt nên muốn có được vị trí trên thị trường thì cần nắm kịp thời thông tin. Doanh nghiệp thương mại Việt Nam hiện nay còn kém nhạy bén trong vấn đề nắm bắt thông tin trên thị trường quốc tế. Phần lớn các doanh nghiệp thương mại dựa vào nguồn thông tin từ các tổ chức làm công tác thông tin thương mại như Trung tâm thông tin Thương mại, Ban xúc tiến Thương mại trực thuộc Bộ Thương mại, và các báo chí khác như Sài Gòn Times, Vietnam Invesment… Tuy các tổ chức trên đã cung cấp nhiều thông tin kinh tế góp phần quan trọng vào kết quả kinh doanh và sự phát triển của các doanh nghiệp thương mại, nhưng chất lượng thông tin mà các tổ chức đó cung cấp chưa cao, thiếu chiều sâu, còn dàn trải, thiếu tính hệ thống. Các thông tin mới dừng lại ở dạng thô, chưa được xử lý, dó đó hạn chế việc sử dụng nguồn thông tin này của doanh nghiệp thương mại. Hơn nữa, doanh nghiệp thương mại Việt Nam không chỉ thiếu thông tin mà những thông tin có được nhiều khi là những thông tin nhiễu nên không đem lại hiệu quả kinh doanh, thậm chí là thua lỗ cho doanh nghiệp.
Như vậy, doanh nghiệp thương mại cần có cần nỗ lực phát huy khả năng của chính doanh nghiệp tiến hành công tác nghiên cứu thị trường vượt ra khỏi biên giới quốc gia, ngoài những thông tin cần thiết thông thường về hàng hoá doanh nghiệp kinh doanh còn cần có những thông tin khác về thị trường tại quốc gia mà doanh nghiệp dự định thâm nhập, cụ thể như:
+ Những thông tin đại cương về quốc gia đó, ví dụ như dân số, vị trí địa lý, văn hoá, thể chế chính trị, pháp luật…
+ Những thông tin cụ thể cho việc kinh doanh như đồng tiền và chế độ tỉ giá hối đoái của nước đó, hệ thống thanh toán, khả năng dự trữ về ngoại tệ… chính sách về ngoại thương, các công cụ về thuế…
+ Thông tin về dung lượng thị trường, về tình hình cung cấp, về giá cả và thị hiếu người dân đối với mặt hàng doanh nghiệp kinh doanh…
Nói tóm lại, môi trường cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế hội nhập khiến công tác nghiên cứu thị trường ngày càng có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp thương mại Việt Nam, nó giúp doanh nghiệp thương mại có được thị trường chính xác về thị trường trong nước và quốc tế, có được sự phân tích chính xác đem lại những kết luận hợp lý, từ đó doanh nghiệp thương mại có được những chiến lược kinh doanh phù hợp, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Do dó, doanh nghiệp thương mại cần đầu tư nhiều hơn nữa vào công tác này, phát huy hết vai trò của nó trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
b) Cần có những biến đổi trong công tác tạo nguồn và mua hàng của doanh nghiệp thương mại.
Như chúng ta đã biết nhiệm vụ cơ bản và chủ yếu nhất của doanh nghiệp thương mại là đảm bảo cung ứng hàng hoá cần thiết cho sản xuất và tiêu dùng và doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ này thông qua hoạt động tạo nguồn và mua hàng. Doanh nghiệp thương mại có tồn tại và phát triển là dựa vào hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp có chất lượng tốt, giá cả phải chăng, được khách hàng chấp nhận. Khác với trước, nền kinh tế hội nhập đem lại cho doanh nghiệp thương mại rất nhiều cơ hội trong công tác tạo nguồn và mua hàng với những nguồn hàng có chất lượng cao và giá cả rẻ hơn từ vô vàn nhà cung cấp ở trong và ngoài nước. Doanh nghiệp có khả năng cung ứng nhiều hàng hoá có tốt, hiện đại, văn minh với dịch vụ thuận lợi cho người tiêu dùng.
Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp thương mại hiện nay chưa có được mạng lưới thu mua rộng khắp phù hợp đặc điểm, điều kiện nguồn hàng nhằm có được nguồn hàng tốt, ổn định đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, không bị đứt đoạn. Nhiều doanh nghiệp sau khi ký hợp đồng mới tổ chức thu mua hàng hoá dẫn đến tình trạng không đủ hàng hoá cung cấp cho khách hàng khi đến hạn giao hàng của hợp đồng. Thêm vào đó, một số doanh nghiệp thương mại còn thiếu thông tin về khả năng cung cấp mặt hàng được lựa chọn kinh doanh trên thị trường, cũng như thông tin về đối tác, đặc biệt là đối tác nước ngoài, khiến lợi ích của doanh nghiệp bị xâm phạm. Cũng cần lưu ý thêm là các doanh nghiệp thương mại trước khi ký kết hợp đồng cần xác định rõ số lượng, chất lượng, quy cách, phương thức giao nhận, phương thức thanh toán, bao bì đóng gói, thời hạn giao nhận… xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên tránh được những tranh chấp kinh tế gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
Đứng trước thực trạng này đòi hỏi doanh nghiệp thương mại cần có những đổi mới tích cực trong công tác tạo nguồn, mua hàng nhanh chóng đưa doanh nghiệp thương mại theo kịp xu thế hội nhập của nền kinh tế.
c) Một số đổi mới cần thiết trong phân phối hàng hoá và hoạt động bán hàng của doanh nghiệp thương mại.
Các doanh nghiệp thương mại là những trung gian phân phối, chuyên bao tiêu các sản phẩm cho doanh nghiệp sản xuất. Hiện nay, ngày càng nhiều doanh nghiệp, nhiều sản phẩm và dịch vụ xuất hiện làm môi trường cạnh tranh trên thị trường trở nên khốc liệt hơn. Do vậy, mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp có thực hiện được hay không phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động bán hàng.
Trước hết chúng ta xem xét đến hoạt động xúc tiến bán hàng trong công tác bán hàng của doanh nghiệp thương mại. Cho đến nay, hoạt động xúc tiến bán hàng thường được các doanh nghiệp thương mại Việt Nam thực hiện bao gồm: quảng cáo bán hàng; khuyến mại; tham gia hội chợ triển lãm; bán hàng cá nhân; quan hệ công chúng. Phải nói rằng, các hoạt động của xúc tiến bán hàng có sự đóng góp rất lớn trong sự phát triển của doanh nghiệp thương mại, nó là một công cụ cạnh tranh quan trọng của kinh doanh, thông qua những hoạt động của xúc tiến bán hàng doanh nghiệp thương mại tìm kiếm thêm được bạn hàng kinh doanh và tăng doanh thu. Tuy vậy, xúc tiến bán hàng trong doanh nghiệp thương mại vẫn tồn tại những yếu kém như thiết bị, công nghệ cho quảng cáo còn ở trình độ thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật chuẩn bị cho hội chợ triển lãm còn nghèo nàn, lạc hậu… dẫn đến chất lượng của xúc tiến thương mại chưa cao. Để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại trên thương trường trong tiến trình hội nhập, một đòi hỏi thiết yếu là doanh nghiệp cần sử dụng xúc tiến bán hàng như một vũ khí sắc bén.
Tiếp theo, ta cũng cần lưu ý tới các hình thức bán hàng của doanh nghiệp thương mại, một trong những hình thức bán hàng còn mới mẻ nhưng rất hiệu quả và phổ biến trên thế giới là bán hàng qua mạng Internet. Thương mại điện tử tuy mới được phát triển nhưng đang phát triển rất nhanh chóng và có tiềm năng rất lớn. Hiện nay trên toàn cầu thương mại điện tử đã phát triển rất nhanh dựa trên những công nghệ mới, hiện đại, trở thành phương tiện hữu hiệu đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ trên thế giới. Doanh nghiệp thương mại Việt Nam muốn hoà nhập với thị trường thế giới cần chú trọng phát triển hình thức này, để thực hiện được hình thức này doanh nghiệp cần:
+ Chuẩn bị làm việc trong môi trường tiếng Anh là chủ yếu.
+ Nhanh chóng làm quen và sử dụng các dịch vụ Internet trong hoạt động của mình nhằm khai thác thông tin và đưa thông tin của mình lên mạng, ra thị trường.
Một vấn đề cần phân tích ở đây nữa là vấn đề về kênh phân phối hàng hoá của doanh nghiệp thương mại. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp thương mại Việt Nam còn ở giai đoạn đầu của xâm nhập và hoạt động trên thị trường thế giới nên hệ thống phân phối của doanh nghiệp thương mại chưa được thiết lập. Hầu hết các doanh nghiệp muốn thâm nhập thị trường khu vực và thế giới phải thông qua một nước hoặc một đối tác trung gian. Mặt khác, thị trường thế giới đã được phân chia và bị chi phối bởi các công ty, tập đoàn lớn trên thị trường thế giới mà doanh nghiệp thương mại chưa thâm nhập được vào hệ thống kênh phân phối của họ, do đó, hàng hoá của ta khó tiêu thụ và phải bán với giá thấp hơn so với các nước khác. Về lâu dài việc bán giá thấp để cạnh tranh là điều bất lợi cho doanh nghiệp thương mại vì nó sẽ giảm lợi nhuận, hạn chế khả năng tích luỹ để mở rộng, phát triển quy mô kinh doanh. Qua đây ta thấy rằng khả năng khai thác cơ hội của doanh nghiệp thương mại Việt Nam chưa cao và sức cạnh tranh của doanh nghiệp tên thị trường quốc tế còn rất kém.
Như vậy, sự biến đổi liên tục và nhanh chóng của thị trường trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu có những bước tiến lớn trong hoạt động bán hàng của doanh nghiệp sao cho doanh nghiệp có sức cạnh tranh trên thị trường, bán được hàng hoá, đảm cho sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp thương mại.
d) Yêu cầu mới đối với dịch vụ phục vụ khách hàng tại doanh nghiệp thương mại hiện nay.
Quá trình toàn cầu hoá trong nhiều lĩnh vực, nhiều ngành không chỉ dẫn đến những diễn biến cạnh tranh dày đặc hơn, khốc liệt hơn mà còn mang nhiều yếu tố bất ngờ, khó lường trước. Nhiều đối thủ cạnh tranh mới đột nhiên xuất hiện, nhiều liên minh, liên kết không mấy bình thường ra đời, không chỉ ở cấp độ tổ hợp công ty, doanh nghiệp mà có thể theo từng dự án, từng lĩnh vực kinh doanh. Chính sự xuất hiện ồ ạt đủ loại đối thủ cạnh tranh, đặc biệt trên các thị trường còn nhiều sức mua, đã buộc doanh nghiệp ngày càng phải lỗ lực tìm tòi các “khoảng trống” của thị trường, chú trọng tìm ra nét độc đáo của doanh nghiệp mình. Trước mắt khách hàng là rất nhiều loại hàng hoá và dịch vụ, do nhiều doanh nghiệp cung cấp và trong chừng mực nào đó, họ cảm mua hàng nào cũng thế, khó phân biệt tốt xấu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21127.doc