Đề án Du lịch sinh thái – lý luận và thực tiễn ở vườn quốc gia Tràm Chim

MỤC LỤC

Trang

A.Phần mở đầu .1

B.Nội dung .2

I. Định nghĩa, đặc điểm và các đặc trưng cơ bản của DLST .2

1. Định nghĩa về DLST: .2

2. Các đặc điểm của hoạt động DLST: .4

3. Các đặc trưng cơ bản của DLST: .4

II. Điều kiện và nguyên tắc cơ bản của hoạt động phát triển DLST .6

1. Các điều kiện để phát triển DLST .6

2. Những nguyên tắc chính trong phát triển DLST .7

III. Phát triển du lịch sinh thái tại VQG Tràm Chim . . .9

1. Đôi nét về VQG Tràm Chim . .9

2. Thực trạng phát triển DLST ở VQG Tràm Chim: . .16

3. Một số đề xuất, kiến nghị nhằm phát triển

DLST tại VQG Tràm Chim . . .26

3.1. Về cơ chế chính sách: . . .26

3.2. Về thị trường: . .28

3.3. Về quy hoạch: . .29

3.4. Về đào tạo: . .29

3.5. Về cơ sở hạ tầng: . .30

3.6. Về xã hội: . .31

C. Kết luận . . .33

Tài liệu tham khảo . .34

 

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7020 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Du lịch sinh thái – lý luận và thực tiễn ở vườn quốc gia Tràm Chim, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
địa phương vào hoạt động của mình. Cộng đồng người dân địa phương có thể tham gia các hoạt động dịch vụ du lịch sinh thái như làm hướng dẫn viên, đảm nhiệm chỗ nghỉ cho khách, cung ứng các nhu cầu về thực phẩm, hàng lưu niệm ... Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với việc giảm sức ép của cộng động sống trong và ở lân cận các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên lên môi trường và sinh học.Vì lúc đó cuộc sống của người dân sẽ ít bị phụ thuộc hơn vào việc khai thác tự nhiên, đồng thời họ sẽ nhận thấy lợi ích của việc bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển du lịch sinh thái . Sức ép của cộng đồng đối với môi trường vốn đã tồn tại từ bao đời nay sẽ giảm đi và chính cộng đồng địa phương sẽ là những người chủ thực sự , người bảo vệ trung thành các giá trị tự nhiên và văn hoá bản địa nơi diễn ra hoạt động du lịch sinh thái. III. Phát triển du lịch sinh thái tại vườn quốc gia Tràm Chim: 1. Đôi nét về vườn quốc gia Tràm Chim: Bản đồ thảm thực vật VQG Tràm Chim – 2006 Tràm Chim là địa danh đã có từ lâu chỉ về một vùng đất trũng thấp trên địa bàn các xã Phú Thọ, Phú Đức, Phú Hiệp, Tân Công Sính, Phú Thành và thị trấn Tràm Chim thuộc huyện Tam Nông tỉnh Đồng Tháp.Nơi đây có nhiều rừng tràm tự nhiên và cũng là nơi tập trung sinh sống của một số lượng lớn chim nước, trong đó có loài Sếu đầu đỏ (một loài chim biết bay lớn nhất). Sếu đầu đỏ ở nơi đây chiếm tới 60% số lượng Sếu đầu đỏ toàn cầu. Đến Tràm Chim, bất chợt một thoáng như mơ như thực, du khách sẽ bắt gặp ẩn hiện trước cảnh bao la của đất trời Đồng Tháp mênh mông đầy nước những cánh Hạc chấp chới nhẹ nhàng như những áng mây bềnh bồng, rồi thả cánh xuống thị trấn Tràm Chim - giữa đồng nước có lõm rừng tràm nguyên thủy chiếm hơn 7.612 ha, nơi trú ngụ của loài Hạc và các loài chim muông quý hiếm... Về vị trí địa lý: Vườn Quốc Gia Tràm Chim có Tọa độ địa lý 10o40’N – 10o47’N, 105o26’E - 105o36’E với tổng diện tích 7.612 ha và số dân trong vùng là 30.000 người. Về lược sử của vườn quốc gia: Năm 1985, Tràm Chim được Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Đồng Tháp thành lập với tên gọi là Công Ty Nông Lâm Ngư Trường Tràm Chim, mục đích là trồng tràm và khai thác thủy sản, và giữ lại được một phần hỉnh ảnh của Đồng Tháp Mười xa xưa. Năm 1986, loài sếu đầu đỏ, chim Hạc, hay còn gọi là sếu cổ trụi, được tái phát hiện ở Tràm Chim. Năm 1991, Tràm Chim trở thành Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên Tràm Chim cấp tỉnh, nhằm bảo tồn loài Sếu đầu đỏ. Năm 1994, nơi đây trở thành Khu bảo tồn thiên nhiên Tràm Chim, cấp quốc gia, theo Quyết định số 47/TTg ngày 2 tháng 2 năm 1994 của Thủ tướng Chính phủ kèm theo thông tư số 4991/KGVX, với diện tích 7.500 ha. Vào tháng 9 năm 1998, diện tích của Vườn quốc gia Tràm Chim được điều chỉnh lại là 7.588 ha. Năm 1998, nơi đây trở thành Vườn Quốc Gia Tràm Chim theo Quyết định số 253/1998/QĐ, ngày 29/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ. Về địa hình: Nói chung là thấp trũng, nơi cao nhất là 2,3 m, nơi thấp nhất là 0,4 m (so với mực nước biển Tây Nam Bộ). Những vùng đất trũng chiếm 152 ha . Những vùng gò cao chiếm 194 ha . Vùng phẳng chiếm 5858 ha. Về khí hậu - thủy văn: Nhiệt độ:Nhiệt độ ở đây luôn cao và tương đối ít biến động, nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 27độ C, nhiệt độ thấp hơn khoảng 1-2 độ C vào cuối mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 2) và tăng lên khoảng 1-2 độ C vào các tháng cuối mùa khô, đầu mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng 6). Nhiệt độ cao nhất là 37 độ C vào tháng tư và thấp nhất là khoảng 16 độ C. Độ ẩm: Độ ẩm trung bình hàng năm duy trì trong khoảng 82 - 83%. Độ ẩm cao nhất có thể lên đến 100% và thấp nhất là 35 - 40%. Chế độ gió: Từ tháng 5 đến tháng 11, hướng gió thịnh hành ở vùng này là hướng Tây – Nam, tốc độ gió trung bình là 3 m/s mang theo nhiều hơi nước và gây mưa. Từ tháng 12 đến tháng 4 có gió Đông – Bắc, tốc độ gió trung bình khoảng 2 m/s. Bão hầu như không ảnh hưởng đến Tràm Chim và vì thế, gió với tốc độ lớn trong cơn mưa chưa từng xảy ra. Lượng mưa: Lượng mưa phân bố theo mùa rõ rệt, trung bình khoảng 1.650 mm/năm. Mùa mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng 11, hơn 90% lượng mưa tập trung vào khoảng thời gian này. Trong khi đó, tháng 1, tháng 2, tháng 3 lại là những tháng khô hạn nhất, thời tiết hầu như không có mưa. Số ngày mưa trung bình đo được tại vườn quốc gia Tràm Chim từ 110-160 ngày/năm. Chế độ nước: Vừơn quốc gia Tràm Chim chịu ảnh hưởng thủy văn của vùng châu thổ sông Mêkông, nhận nguồn nước trực tiếp từ sông Mêkông thông qua hệ thống kinh thủy lợi (kênh Hồng Ngự – Long An, Đồng Tiến, An Hòa và Phú Hiệp) tràn vào nội đồng và bị ngập lũ hàng năm từ tháng 8 đến tháng 12. Vườn quốc gia Tràm Chim được chia thành 5 vùng quản lý khác nhau (A1-A5), mỗi khu vực được bao bọc xung quanh bởi hệ thống kênh và đê với tổng chiều dài lên đến 59 km. Mực nước bên trong vườn quốc gia được điều tiết thông qua hệ thống cống và cửa xả nằm ở các bờ bao xung quanh. Hiên nay, để giảm rủi ro do lửa vào mùa khô, mực nước bên trong vườn uốc gia luôn được giữ ở mức cao hơn những điều kiện trong quá khứ. Thành phần thực vật, phân bố và tốc độ sinh trưởng đã bị ảnh hưởng bởi những tác động này. Về đa dạng sinh học: Hệ động vật: gồm khoảng 110 loài động vật nổi, 23 loài động vật đáy trong đó có 55 loài cá. Đặc biệt đây là nơi sinh sống của 198 loài chim chiếm ¼ số loài chim ở Việt Nam, trong dó có 16 loài đang bị đe dọa ở quy mô toàn cầu và 5 loại quý hiếm gồm: Sếu đầu đỏ, Ô tác, Te vàng, Điềng điễng, Ngan cánh trắng. Sếu đang hạ cánh ở VQG Tràm Chim Hệ thực vật: rất đa dạng, gồm 130 loài với 6 loài quần xã chủ yếu là: Sen, lúa ma, cỏ ống, Năng, Mồm mốc và Tràm.Cụ thể: Rừng tràm là thảm thực vật thân gỗ có diện tích lớn nhất, khoảng 1.826 ha. Do tác động con người, hầu hết những cánh rừng tràm nguyên sinh đã biến mất và hiện nay chỉ còn lại là những cánh rừng tràm trồng, thuộc loài Melaleuca cajuputi (họ Myrtaceae),do được bảo tồn nhiều năm nên tràm phân bố theo kiểu tự nhiên. Hai kiểu phân bố chính là: tràm tập trung và tràm phân tán. Tràm phân tán có sự hiện diện các thảm cỏ xen kẽ nhau ,gồm các loài: năng ống, cỏ mồm, hoàng đầu ấn, Nhỉ cán vàng, cỏ ống, súng, Cú Muỗi, Chèo Bẻo, Húp Mật, Vành Khuyên, Chim Sẻ, Én , Rẻ Quạt, Chích chòe . Tràm trên đất phèn ở VQG Tràm Chim Đồng cỏ năng: chiếm diện tích khoảng 2.968 ha, tạo thành một trong những thảm cỏ rộng lớn; bao gồm đồng cỏ năng kim - đây là bãi ăn của loài chim Sếu, khoảng 235 ha; năng ống với 1.277 ha, và hợp với các loài khác tạo thành các quần xã thực vật: năng kim – năng ống. Ở vài nơi có sự xuất hiện của hoàng đầu ấn; năng kim - cỏ ống; năng ống - cỏ ống, khoảng 937 ha; năng ống - cỏ ống – lúa ma, 443 ha; năng ống - cỏ ống - cỏ chỉ, khoảng 72 ha. Những nơi có địa hình thấp và ngập nước quanh năm thì xen lẫn trong quần xã năng là những loài thực vật thủy sinh như nhỉ cán vàng, súng ma, rong đuôi chồn . Hoàng Đầu Ấn (Xyris indica) và năng kim (Eleocharis atropurpurea) ở VQG Tràm Chim Đồng cỏ mồm: chiếm diện tích nhỏ so với các cộng đồng thực vật khác, chỉ khoảng 41, 8 ha, bao gồm mồm đơn thuần và quần xã mồm - cỏ ống. Chúng phân bố chủ yếu trên những dải liếp, bờ đất địa hình cao trong một vùng địa hình thấp. Đồng cỏ ống : phân bố trên một diện rộng, chiếm diện tích khoảng 958,4 ha.Chúng ở dạng đơn thuần với mật độ lên đến 98% hoặc cùng xuất hiện với các loài thực vật thân thảo khác: cỏ ống - cỏ xã, khoảng 23 ha, chủ yếu trên đất giồng cổ; cỏ ống – lúa ma, khoảng 268 ha; cỏ ống - cỏ chỉ, khoảng 50 ha; cỏ ống – mai dương, khoảng 86 ha, đây là khu quần xã cỏ ống bị mai dương xâm hại. Đồng lúa ma: phân bố khá rộng, chiếm diện tích khoảng 824 ha. Tuy nhiên, cánh đồng lúa ma đơn thuần có diện tích khá nhỏ, khoảng 33 ha, diện tích còn lại có sự hiện diện của lúa ma là sự kết hợp với những loài thực vật khác tạo thành những quần xã thực vật đặc trưng cho vùng đất ngập nước: lúa ma - cỏ ống, khoảng 544 ha; lúa ma - cỏ bắc, khoảng 160 ha; lúa ma - cỏ ống - cỏ chỉ khoảng 83 ha. 2 .Thực trạng phát triển du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Tràm Chim: Vườn quốc gia Tràm Chim có một tiềm năng tài nguyên du lịch phong phú, thể hiện ở giá trị đa dạng sinh học hệ sinh thái ngập nước Đồng Tháp Mười, đặc biệt là sự tồn tại của một số loài chim quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng toàn cầu mà tiêu biểu là Sếu đầu đỏ và một số loài thực vật đặc hữu mà tiêu biểu là loài lúa ma. Đây được xem là tài nguyên du lịch sinh thái đặc thù rất có giá trị của vườn quốc gia; thể hiện ở giá trị về cảnh quan hệ sinh thái ngập nước ở vườn quốc gia, qua sự đa dạng và tính đặc thù của các kiểu sinh cảnh ở khu vực này, đặc biệt là kiểu sinh cảnh trảng cỏ ngập nước, thảm rừng Tràm; thể hiện qua sự hấp dẫn của ẩm thực truyền thống vùng Đồng Tháp Mười với việc sử dụng những thực phẩm đặc thù và nghệ thuật, phương pháp chế biến truyền thống địa phương; và cái tiềm năng đó còn thể hiện thông qua hoạt động sinh hoạt giải trí vùng ngập nước mà tiêu biểu là câu cá trong vườn quốc gia.Với tiềm năng này ,vườn quốc gia Tràm Chim đã có được lợi thế để phát triển loại hình du lịch sinh thái. Vườn quốc gia Tràm Chim được thành lập trên cở sở nâng cấp khu bảo tồn tại quyết định số 253/1998/TTg ngày 29/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ. Chỉ sau một năm từ khi thành lập , vườn quốc gia Tràm Chim đã tổ chức đón khách du lịch đến tham quan và nghiên cứu khoa học. Tổng lượng khách đến vườn quốc gia Tràm Chim (VQG Tràm Chim)tăng khá nhanh trong thời gian qua và đạt tốc độ tăng bình quân 42,4%/năm, trong đó khách du lịch quốc tế tăng 19,9%/năm; khách du lịch nội địa tăng 66,8%/năm (Bảng 1) Bảng 1: Lượng khách du lịch đến VQG Tràm Chim giai đoạn 2000 - 2006 Đơn vị : lượt khách 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 (ước) Tốc độ tăng TB (%/năm) Khách quốc tế 98 127 163 206 84 207 100 19,9 Khách nội địa 522 1.023 1.447 2.377 3.122 3.362 4.597 66,8 Tổng số 620 1.180 1.610 2.583 3.206 3.569 4.697 42,4 Nguồn: Trung tâm DVDL và GDMT – VQG Tràm Chim Trong tổng lượng du khách đến VQG Tràm Chim từ năm 2000 đến năm 2006, khách du lịch nội địa luôn chiếm tỷ lệ cao (trung bình là 91,7%). Nhưng so với lượng du khách đến tỉnh Đồng Tháp thì lượng khách đến VQG Tràm Chim còn tương đối thấp, cao nhất chỉ chiếm 0,6 – 0,7% đối với khách quốc tế và 3,0 – 5,0% đối với khách nội địa. Kết quả thống kê của Trung tâm dịch vụ du lịch sinh thái và giáo dục môi trường (DVDLST & GDMT )cho thấy hiện nay khách du lịch quốc tế đến VQG Tràm Chim chủ yếu đến từ các thị trường: Tây Âu (Hà Lan, Pháp, Đức) khoảng 32,5%; Đông Bắc Á (Nhật, Úc) chiếm 23,4%; Đông Nam Á (Thái Lan, Lào, Campuchia) chiếm khoảng 20,7%; Mỹ chiếm khoảng 18,1%; Đông Âu (Nga) chiếm khoảng 5,1%; và các thị trường khác là khoảng 2,0%. Khách du lịch quốc tế đến VQG Tràm Chim chủ yếu với mục đích tham quan và nghiên cứu, trong khi khách du lịch nội địa đến VQG chủ yếu là với mục đích tham quan, giải trí (picnic, câu cá) và nghiên cứu. Số liệu thống kê cho thấy trong số khách du lịch nội địa đến VQG thì tỷ lệ khách du lịch với mục đích câu cá giải trí luôn chiếm tỷ lệ cao nhất, trung bình đạt tới 26,9 %, có năm lên đến 42,6% (năm 2006). Điều này cho thấy câu cá giải trí là một sản phẩm du lịch tương đối hấp dẫn, đã thu hút được sự quan tâm của du khách, đặc biệt là khách đến từ TP. Hồ Chí Minh. Nhu cầu sử dụng dịch vụ lưu trú của du khách tới vườn quốc gia có sự khác nhau giữa khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa: tỷ lệ khách quốc tế lưu trú lại VQG chiếm khoảng 45,5% tổng số khách quốc tế đến VQG, trong khi tỷ lệ này đối với khách du lịch nội địa chỉ là 9,4%. Về doanh thu, từ hoạt động dịch vụ du lịch trong những năm qua doanh thu cũng đã có sự tăng trưởng đáng ghi nhận, mặc dù tổng doanh thu còn khiêm tốn (Bảng 2) Bảng 2: Doanh thu du lịch giai đoạn 2004 - 2006 Đơn vị : ngàn VNĐ 2004 2005 đến tháng 8/2006 Tổng doanh thu 138.170 (100,0%) 143.480 (100,0%) 230.855 (100,0%) Dịch vụ lưu trú 12.060 (08,7%) 34.165 (23,8%) 31.680 (13,7%) Dịch vụ vận chuyển 39.850 (28,8%) 48.370 (33,7%) 85.200 (36,9%) Dịch vụ câu cá 67.535 (48,9%) 52.679 (36,7%) 108.240 (46,9%) Dịch vụ khác 18.725 (13,6%) 8.266 (05,8%) 5.735 (02,5%) Nguồn: Trung tâm DVDL và GDMT – VQG Tràm Chim Như vậy trong cơ cấu doanh thu du lịch của VQG Tràm Chim có 4 loại dịch vụ cơ bản. Đó là dịch vụ lưu trú, dịch vụ vận chuyển khách (chủ yếu là bằng xuồng), dịch vụ câu cá và các dịch vụ khác (ăn uống, mua bán hàng lưu niệm, v.v.). Trong đó thì doanh thu từ dịch vụ câu cá vẫn luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp sau đó là dịch vụ vân chuyển; dịch vụ lưu trú và cuôí cùng là các dịch vụ khác. Về cơ sở vật chất-kĩ thuật, để đón tiếp khách đến VQG, hiện tại ở trung tâm hành chính của VQG có 07 phòng, có thể đón tiếp tối đa 21 khách lưu trú; 01 nhà trưng bày kết hợp hoạt động giới thiệu về vườn quốc gia ; 01 phòng hát karaoke; 01 sân tennis; 03 đài quan sát phục vụ khách tham quan, quan sát chim kết hợp nghiên cứu khoa học và cảnh báo cháy rừng; 01 “nhà lá” ở khu A1 thuộc Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt để phục vụ khách dừng chân nghỉ và ăn trong thời gian đi tham quan trong VQG. Về đội ngũ lao động: đội ngũ lao động của VQG hiện có trên 50 người, trong đó đội ngũ lao động trực tiếp tham gia cung cấp các dịch vụ du lịch của VQG chỉ có 13 người. Ngoài Ban Giám đốc Trung tâm (02 người), hiện có 03 hướng dẫn viên, 03 lái xuồng, 03 phục vụ ăn nghỉ của khách và 02 nhân viên hành chính. Nói chung, trình độ học vấn của đội ngũ lao động ở vườn quốc gia còn hạn chế: khoảng 36,8% có trình độ phổ thông trung học; 26,3% trình độ trung cấp; trình độ cao đẳng và đại học chỉ đạt 31,6%. Một điều đáng quan tâm là đại đa số lao động trực tiếp tham gia hoạt động du lịch của VQG chưa qua lớp đào tạo về nghiệp vụ, vì vậy tính chuyên nghiệp về du lịch của đội ngũ còn rất hạn chế. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm du lịch hiện có của VQG. Thực trạng trên về đội ngũ lao động của VQG cũng là một trong những trở ngại trước mắt để các công ty lữ hành lựa chọn VQG là đối tác trong hoạt động kinh doanh du lịch. Kết quả điều tra cho thấy có tới 75% số các công ty được hỏi đều có chung nhận xét này. Tuy nhiên một điểm đáng ghi nhận là nhận thức của đội ngũ lao động về vai trò, vị trí của du lịch nói chung, du lịch sinh thái nói riêng, hay việc bảo tồn các giá trị môi trường và đa dạng sinh học VQG là khá tốt. Kết quả điều tra cho thấy có tới 84,2% số cán bộ, nhân viên được điều tra nắm rất vững khái niệm về du lịch sinh thái, về những tác động của du lịch sinh thái đến môi trường và đa dạng sinh học VQG. Đây là một tín hiệu tích cực đối với phát triển du lịch của VQG trong thời gian tới đây. Về hạ tầng du lịch khu vực VQG: du khách có thể tiếp cận VQG Tràm Chim bằng đường bộ theo tỉnh lộ 884 (từ thị xã Cao Lãnh) và đường thuỷ (theo các kênh rạch) khá thuận lợi. Từ trung tâm dịch vụ hành chính của VQG(khuC), cách thị trấn Tràm Chim khoảng 2 km, khách du lịch có thể tiếp cận các điểm tham quan, đài quan sát chim tại khu A1, A2 bằng xuồng hoặc bằng ôtô theo tuyến đường dải nhựa trên đê để đến các trạm C1 và C4. Về hiện trạng sản phẩm du lịch: các sản phẩm du lịch chủ yếu hiện nay ở VQG Tràm Chim bao gồm : Tham quan cảnh quan (các kiểu sinh cảnh hệ sinh thái đất ngập nước Đồng Tháp Mười) bằng xuồng hoặc ô tô. Quan sát chim, đặc biệt là quan sát Sếu đầu đỏ. Giải trí trong khung cảnh thiên nhiên (câu cá, picnic). Nghiên cứu hệ sinh thái đất ngập nước Đồng Tháp Mười (do khách tự nghiên cứu, VQG chỉ cung cấp các dịch vụ hỗ trợ). Qua khảo sát, phân tích đánh giá sản phẩm du lịch hiện có ở VQG có thể thấy cho đến nay, các sản phẩm du lịch sinh thái đích thực, bao gồm nội dung về giáo dục môi trường, về sự tham gia của cộng đồng, về văn hoá bản địa, vẫn chưa được đầu tư xây dựng. Những sản phẩm du lịch ở vườn quốc gia Tràm Chim về bản chất mới chỉ là các sản phẩm du lịch tự nhiên với mức độ phát triển chưa cao. Về sự tham gia của cộng đồng: cuộc sống của cộng đồng nhìn chung còn nhiều khó khăn. Tỷ lệ các hộ có mức thu nhập bình quân dưới chuẩn nghèo quốc gia(350.000đ/tháng)chiếm tới 72,9%.Dân cư hiện vẫn sống chủ yếu bằng nghề nông truyền thống(70,3%) và một số nghề khác như buôn bán nhỏ, thủ công, làm thuê,…Thực trạng trên là sức ép khá lớn từ phía cộng đồng đối với công tác bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học hệ sinh thái ngập nước ở VQG.Xuất phát từ tình trạng trên, 94,6% người dân được hỏi đều có mong muốn được tham gia vào các hoạt động dịch vụ du lịch như trèo thuyền đưa khách đi tham quan trong VQG(94,6%), cung cấp thực phẩm , đồ ăn (57,5%), hướng dẫn khách đi tham quan(12,1%), sản xuất và cung cấp bán hàng lưu niệm cho khách du lịch(6,0%), cung cấp dịch vụ lưu trú cho khách du lịch(21,2%)… để qua đó có thêm việc làm ổn định, tăng thu nhập cho gia đình để cải thiện mức sống hiện nay. Một điểm đáng lưu ý là 86,5% số người dân được hỏi đều khẳng định sẽ không “xâm phạm”, khai thác tài nguyên VQG nếu như được tạo điều kiện có thêm việc làm và tăng thêm thu nhập từ hoạt động du lịch. Chỉ có 5,4% cho rằng vẫn cần duy trì việc giăng câu, săn bắt động vật hoang dã trong VQG ngay cả khi được tạo thêm công ăn việc làm thông qua hoạt động du lịch là do muốn có thu nhập cao hơn để đáp ứng yêu cầu sinh hoạt của gia đình. Như vậy có thể thấy nếu sự phát triển du lịch ở VQG tạo được cơ hội cho cộng đồng sống ở vùng đệm có thêm công ăn việc làm và tăng thu nhập thì “sức ép” của cộng đồng lên môi trường nói chung, giá trị đa dạng sinh học hệ sinh thái đất ngập nước nói riêng ở VQG sẽ được hạn chế nhiều. Thành công của hoạt động du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Tràm Chim là ở chỗ đã tạo ra cho du khách một ấn tượng tốt đẹp về khu sinh thái này.Thật vậy, khách du lịch biết đến VQG Tràm Chim và quyết định lựa chọn VQG là điểm đến vì đó là nơi có cảnh quan đẹp, môi trường hoang sơ (100,0% số khách được hỏi); tiếp đến là vì VQG có hệ sinh thái đất ngập nước điển hình Đồng Tháp Mười (83,3%); là nơi có điều kiện thư giãn tốt (câu cá) (50,0%) và ở đây có loài Sếu đầu đỏ cũng như điều kiện để tìm hiểu cuộc sống của người dân vùng đất ngập nước (33,3%). Như vậy đa số khách du lịch kỳ vọng một sản phẩm du lịch tự nhiên đơn thuần (cảnh quan), một sản phẩm du lịch sinh thái với những nội dung nghiên cứu tìm hiểu về hệ sinh thái đất ngập nước có nhiều loài chim nước quý hiếm, đặc biệt là loài Sếu đầu đỏ. Tuy nhiên 100,0% khách du lịch được hỏi đều sẵn sàng đóng góp để bảo tồn các giá trị đa dạng sinh học hệ sinh thái đất ngập nước ở VQG và hỗ trợ cuộc sống cộng đồng để góp phần làm giảm áp lực đến những giá trị đa dạng sinh học này. Du khách hài lòng nhất vì đã được thỏa mãn sự hiểu biết về hệ sinh thái đất ngập nước (83,3%); tiếp đến là đã được tận mắt quan sát và hiểu được phần nào cuộc sống của người dân địa phương (66,6%); sau cùng là cảnh quan môi trường (50,0%) và được thư giãn (chủ yếu là câu cá) tại VQG (50,0%). Những vấn đề khác liên quan đến chất lượng sản phẩm du lịch ở VQG Tràm Chim và tác động đến sự hài lòng của du khách như tính trung thực trong quảng cáo sản phẩm du lịch; điều kiện đi lại và ăn ở trong VQG; trình độ hướng dẫn viên; thái độ phục vụ và khả năng tiếp cận VQG vẫn chưa có được phản ứng hay ý kiến gì từ du khách. Một sự hài lòng khác của du khách đối với sản phẩm du lịch là giá tour và các dịch vụ hiện nay ở VQG. Qua điều tra ta thấy 66,6% khách du lịch được hỏi xin ý kiến đã cho rằng giá hiện tại là hợp lý và họ hài lòng về vấn đề này. Tuy nhiên đã có tới 23,4% số khách được hỏi đã không trả lời về vấn đề này vì có thể đó là một câu hỏi tế nhị và họ chưa muốn phát biểu suy nghĩ thật của mình. Do đó đây cũng là vấn đề cần được nghiên cứu để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm du lịch Tràm Chim trong tương lai đứng từ góc độ giá sản phẩm. Tuy nhiên, từ thực trạng phát triển của VQG Tràm Chim, có thể thấy rằng bên cạch những điểm mạnh, những thành công trong hoạt động du lịch ở nơi đây, du lịch sinh thái Tràm Chim còn có những hạn chế, thách thức trong quá trình phát triển.Những hạn chế chủ yếu là: Thứ 1: hạn chế về cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch, đăc biệt là hệ thống lưu trú và các dịch vụ bổ trợ.Với số lượng 07 phòng như hiện nay và xu thế khách du lịch đến VQG tăng với tốc độ trung bình 19,9%/năm đối với khách du lịch quốc tế và 66,8%/năm đối với khách du lịch nội địa thì cơ sở lưu trú của VQG sẽ không đáp ứng được yêu cầu phát triển.Hiện nay, du lịch Tràm Chim đang phải đối mặt với một thực tế là do sức ép trong việc chính quyền địa phương đề nghị thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng diện tích đất thuộc phân khu hành chính của VQG, vì vậy VQG sẽ gặp khó khăn về mặt bằng trong xây dựng phát triển hệ thống các cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch nói chung, hệ thống lưu trú nói riêng và các công trình dịch vụ khác. Điểm yếu này của du lịch Tràm Chim đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến sức hấp dẫn và hiệu quả kinh doanh của du lịch VQG Tràm Chim thời gian qua. Thứ 2: Hạn chế về sản phẩm du lịch .Các sản phẩm du lịch hiện nay mới chỉ phát triển ở mức độ là các sản phẩm du lịch tự nhiên, chưa phải là những sản phẩm của du lịch sinh thái theo đúng bản chất của nó, đặc biệt là yếu tố diễn giải về môi trường; sự đóng góp cho bảo tồn từ hoạt động du lịch; việc thu hút cộng đồng tham gia vào hoạt động du lịch còn nhiều hạn chế. Các tour du lịch nhìn chung đã hướng tới việc khai thác đầy đủ nhất về giá trị cảnh quan và đa dạng sinh học của VQG, tuy nhiên việc thiết kế các tuyến du lịch đó còn chưa được khảo sát kĩ lưỡng và quá dài, vì vậy dễ gây cảm giác nhàm chán và có sự lặp lại giữa các tuyến du lịch cũng như trong một tuyến du lịch. Hiện nay, sản phẩm du lịch chủ yếu của VQG là tham quan cảnh quan, quan sát chim , đặc biệt là Sếu đầu đỏ và câu cá, những sản phẩm này có sự trùng nhau giữa các tuyến du lịch, chỉ khác nhau chủ yếu là độ dài. Hơn nữa, hiện nay Vườn Quốc Gia Tràm Chim đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi sự xâm lấn của cây mai dương, một loài thực vật được IUCN xếp trong 100 loài ngoại lai xâm hại nguy hiểm nhất thế giới. Nếu không kiểm soát được, trong vòng 10-15 năm nữa, toàn bộ vườn quốc gia sẽ bị loài này xâm lấn thành loài độc tôn. Theo Giám đốc Vườn quốc gia Tràm Chim - kỹ sư Huỳnh Thế Phiên, đến nay cây mai dương đã xâm chiếm gần 2.000 ha vùng lõi trong tổng số trên 7.300 ha diện tích vườn quốc gia, làm tổn hại đến tính đa dạng sinh học của vùng đất ngập nước, thay đổi cảnh quan, mất dần các bãi năn, thức ăn chính của Sếu đầu đỏ. Mai dương xâm lấn Tràm Chim Thứ 3: Nhìn chung tổ chức không gian du lịch trong VQG đã tuân thủ những nguyên tắc chung của tổ chức không gian du lịch sinh thái trong các VQG, khu bảo tồn tự nhiên. Tuy nhiên việc xây dựng một số công trình dịch vụ trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt (vùng lõi) A1, hoạt động câu cá trong vùng lõi, và sự tập trung khách cao tại một thời điểm chưa có sự tính toán cụ thể trên cơ sở “sức chứa”, có khả năng gây những tác động nhất dịnh đến hoạt động bảo tồn của VQG đứng từ góc độ tác động của hoạt động du lịch. Thứ 4: Lượng khách du lịch đến VQG, đặc biệt là khách du lịch nội địa, tăng với tốc độ khá cao từ năm 2000 đến nay,tuy nhiên so với vị trí và tiềm năng du lịch của VQG thì lượng khách đến VQG còn hạn chế, đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Thứ 5: Một trong những yếu tố có ảnh hưởng đến hoạt động phát triển du lịch nói chung, du lịch sinh thái nói riêng ở VQG là tính mùa vụ do đặc điểm của chế độ thuỷ văn ở khu vực này. Vào mùa nước nổi (tháng 10 dến tháng 1 năm sau), nhiều loài chim đặc biệt là Sếu đầu đỏ không đến cư trú tại VQG, vì vậy yếu tố hấp dẫn trong thời gian này là cảnh quan hệ sinh thái ngập nước và sinh hoạt truyền thống của người dân Đồng Tháp.Tính mùa vụ trong hoạt động du lịch được xem là một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến số ngày lưu trú trung bình và mức độ chi tiêu vốn còn rất thấp của khách du lịch khi đến VQG Tràm Chim. Thứ 6: Mối quan hệ giữa phát triển du lịch với bảo tồn đa dạng sinh học đất ngập nước còn thể hiện chưa rõ, vai trò của Trung tâm dịch vụ DLST và GDMT chưa được phát huy một cách đầy đủ, hay nói cách khác mức độ hỗ trợ của du lịch đối với công tác bảo tồn ở VQG còn hạn chế. Điều này thể hiện ở sự đóng góp trực tiếp và gián tiếp về vật chất, về nâng cao nhận thức cho du khách… còn nhiều hạn chế. Thứ 7: Hạn chế về đội ngũ lao động (quản lý, tác nghiệp du lịch). Trong bối cảnh phát triển du lịch từ “con số không”, đội ngũ cán bộ nhân viên được phân công quản lý và tác nghiệp cung cấp các dịch vụ cho khách du lịch đến VQG Tràm Chim, chủ yếu là cán bộ, nhân viên đang làm các công tác khác, chưa được đào tạo cũng như chưa có kinh nghiệm về hoạt động du lịch. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực tự học hỏi và đã tham gia vào một số lớp đào tạo dưới sự hỗ trợ của chương trình “Bảo tồn đa dạng sinh học và sử dụng bền vững đất ngập nước” nhưng lực lượng cán bộ và nhân viên hiện nay thuộc Trung tâm DVDLST & GDMT vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái, cả về số lượng và chất lượng. Đây là một điểm yếu, nếu không coi là thách thức của VQG Tràm Chim trước yêu cầu phát triển du lịch nói chung và du lịch sinh thái nói riêng. Thứ 8: Hoạt động xúc tiến thị trường, liên kết du lịch trong

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc67690.DOC
Tài liệu liên quan