Đề án Giải pháp cho Việt Nam nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam- Singapore

MỤC LỤC

 

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 3

DANH MỤC CÁC HÌNH 4

DANH MỤC CÁC BẢNG 4

MỞ ĐẦU 5

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ SINGAPORE VÀ QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM- SINGAPORE 7

1.1. Tổng quan về nền kinh tế Singapore 7

1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Singapore 7

1.1.2. Các điều kiện để phát triển kinh tế của Singapore 10

1.1.2.1. Điều kiện tự nhiên 10

1.1.2.2. Điều kiện xã hội 12

1.1.3. Tình hình phát triển kinh tế của Singapore thời gian 2000

đến nay 14

1.2. Tổng quan về quan hệ kinh tế Việt Nam- Singapore 24

1.2.1. Cơ sở lý luận và thực tiển của việc hình thành và phát triển các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế 24

1.2.2. Cơ sở pháp lý cho việc thiết lập quan hệ kinh tế Việt Nam – Singapore 26

1.2.3. Những sự kiện quan trọng trong quan hệ song phương Việt Nam- Singapore trong thời gian gần đây 26

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ GIỮA VIỆT NAM-SINGAPORE 28

2.1. Thực trạng quan hệ thương mại 28

2.1.1. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore 28

2.1.2. Tình hình nhập khẩu của Việt Nam từ Singapore 31

2.2. Thực trạng quan hệ hợp tác đầu tư 36

2.3. Đánh giá chung về sự phát triển quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam- Singapore 44

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM- SINGAPORE 49

3.1. Định hướng phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam- Singapore 49

3.2. Giải pháp thúc đẩy quan hệ quan hệ kinh tế Việt Nam -

Singapore 50

3.2.1 Về phía nhà nước 50

3.2.2 Về phía doanh nghiệp 55

KẾT LUẬN 59

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 61

 

 

doc62 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1847 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp cho Việt Nam nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam- Singapore, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huyên môn hóa để đạt tới quy mô sản xuất tối ưu. Hơn nữa, sự đa dạng hóa trong nhu cầu tiêu dùng ở mỗi quốc gia cũng là một cơ sở quan trọng cho việc phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế. Như vậy, cơ sở của sự phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế không chỉ là sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, về trình độ phát triển, về các nguồn lực sẵn có giữa các quốc gia mà còn ở sự đa dạng hóa nhu cầu, ở sự ưu việt của chuyên môn hóa và ưu thế của quy mô tối ưu trong sự phân công lao động quốc tế. 1.2.2. Cơ sở pháp lý cho việc thiết lập quan hệ kinh tế Việt Nam – Singapore Việt Nam và Singapore thiết lập quan hệ vào ngày 1/8/1973, nhưng quan hệ giữa hai nước chỉ được bình thường hoá và tiến triển nhanh chóng, tốt đẹp từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX- sau khi chiến tranh lạnh kết thúc và đặc biệt từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN (28/7/1995). Qua 35 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, các chuyến thăm giữa hai nước của các nhà lãnh đạo cấp cao liên tục được tổ chức, khẳng định những nỗ lực thúc đẩy ngoại giao và hợp tác nhiều mặt của cả hai bên. Việt Nam và Singapore đã tiến hành kí kết các hiệp định trên rất nhiều lĩnh vực như thương mại, đầu tư, y tế, giáo dục, văn hoá... Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế bao gồm: 1) Hiệp định hàng hải thương mại (16/4/1992); 2) Hiệp định thương mại (24/9/1992); 3) Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư (29/10/1992); 4) Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (02/3/1994); 5) Tuyên bố chung về Khuôn khổ hợp tác toàn diện Việt Nam – Singapore trong thế kỷ 21 (08/3/2004); 6) Hiệp định khung về kết nối Việt Nam – Singapore (6/12/2005). 1.2.3. Những sự kiện quan trọng trong quan hệ song phương Việt Nam- Singapore trong thời gian gần đây Các chuyến thăm Singapore gần đây của các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam: Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (tháng 12-2003). Thủ tướng Phan Văn Khải (tháng 3-2004): Hai bên đã ký "Tuyên bố chung về khuôn khổ hợp tác toàn diện trong thế kỷ 21", tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt giữa hai nước. Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang Singapore dự Hội thảo: "Việt Nam, nơi đến của các nhà đầu tư" do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam chủ trì ngày 15-3-2001; tham dự Chương trình giao lưu với Thủ tướng Lý Quang Diệu từ ngày 26 đến ngày 29-7-2004; thăm, làm việc và ký kết Hiệp định khung về kết nối Việt Nam – Singapore (từ ngày 5 đến ngày 7-12-2005). Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm thăm chính thức Singapore kết hợp dự khai mạc "Lễ hội Việt Nam" tại Singapore từ ngày 20/05/2006 đến 21/05/2006, theo lời mời của Bộ trưởng Ngoại giao Singapore George Yeo. 13/8/2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và phu nhân cùng đoàn đại biểu cấp cao Chính phủ Việt Nam rời Hà Nội đi thăm chính thức Singapore từ ngày 13-14/8 theo lời mời của Thủ tướng Lý Hiển Long. Đây là chuyến thăm chính thức đầu tiên của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tới Singapore kể từ khi nhậm chức, đồng thời, cũng là chuyến thăm xã giao theo thông lệ của lãnh đạo mới các nước thành viên ASEAN. Chuyến thăm Singapore diễn ra trong bối cảnh quan hệ hai nước đang phát triển tốt đẹp đặc biệt sau khi Việt Nam ký “Tuyên bố chung về khuôn khổ hợp tác toàn diện trong thế kỷ 21” với Singapore vào tháng 3/2004 - Các chuyến thăm Việt Nam gần đây của các nhà lãnh đạo cấp cao Singapore: Tổng thống S. R Nathan (tháng 2-2001). Thủ tướng Goh Chok Tong (tháng 3-1994; tháng 12-1998; tháng 3-2003). Thủ tướng Lý Hiển Long (tháng 4-2000 với tư cách Phó Thủ tướng; ngày 6 đến ngày 7-12-2004; ngày 25 đến ngày 26-9-2006). 10/12/2007 Cựu Thủ tướng Singapore Goh Chok Tong sang thăm Việt Nam trên tư cách Bộ trưởng cao cấp, theo lời mời của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Cộng hòa Singapore S.R.Nathan theo lời mời của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết từ ngày 25/02/2008 à 29/02/2008. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ GIỮA VIỆT NAM-SINGAPORE 2.1. Thực trạng quan hệ thương mại 2.1.1. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore Từ năm 2000, Singapore giảm dần nhập khẩu những mặt hàng nguyên liệu thô, sơ chế, nguồn gốc từ sản phẩm nông, lâm nghiệp,thực phẩm, bởi những mặt hàng này vừa tốn nhân lực, lại kém hiệu quả khi tái xuất khẩu. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam, kim ngạch những mặt hàng trên chưa lớn lắm, nhưng hướng lâu dài sẽ trở thành nhóm mặt hàng tiềm năng có thể làm tăng kim ngạch, khối lượng xuất khẩu với mức trung bình khoảng 1 tỷ USD/năm. Dưới đây là những số liệu diễn tả cụ thể kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore trong giai đoạn 2000-2007 Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 KNXK 885,9 1.043,7 961,1 1.024,5 1.360,0 1.800,0 2.000,0 2.202,0 Bảng 2.1 Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore (Nguồn Trade Development Board Singapore, đơn vị: triệu USD) Theo bảng số liệu trên ta thấy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore nhìn chung đều có xu hướng tăng lên tuy trong giai đoạn 2001- 2002 có sự suy giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính từ vụ tấn công 11/09/2001 ở Mỹ. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore đạt 1,8 tỷ USD, chiếm 0,91% tổng kim ngạch nhập khẩu của Singapore. Trong đó, dầu mỏ chiếm khoảng 78% và các mặt hàng khác chiếm khoảng 22% giá trị kim ngạch xuất khẩu. Ngoài dầu thô, các mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch khá là: Giầy dép (57,1 triệu USD, tăng 13,7%); máy xử lý dữ liệu (29,4 triệu USD, tăng 33,9%); cá tươi & đông lạnh (18,3 triệu USD, giảm 8,8%); và các thiết bị mạch điện (12,9 triệu USD, giảm 35,3%). Ngoài ra, có một số mặt hàng tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu rất cao nhưng trị giá xuất khẩu vẫn còn nhỏ, như: Đồ gỗ tăng 20,3% nhưng kim ngạch chỉ gần 10 triệu USD; cà phê tăng 52,5% kim ngạch chỉ trên 7,6 triệu USD; dụng cụ cơ khí tăng 530,7%, kim ngạch chỉ trên 6,9 triệu USD....( Theo số liệu từ Vnembassy in Singapore) Đến năm 2006, kim ngạch xuất khẩu sang Singapore của Việt Nam đã tăng thêm 0,2 tỷ USD so với năm 2005. Các sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam sang Singapore trong năm 2006 được mô tả cụ thể trong bảng sau Bảng 2.2 Các sản phẩm chính Singapore nhập từ Việt Nam năm 2006 Đơn vị tính: triệu USD Các ngành chính Nhập khẩu từ Việt Nam (triệu USD) Tốc độ tăngtrưởng “02-06” Các sản phẩm chính (tỷ trọng trong ngành) Tổng NK 238.704,17 20% NK từ VN 1.651,52 (0,69%) 19% Nhiên liệu, dầu khoáng chất và sản phẩm chưng cất… 1.136,15 19% Dầu thô( 99.1%); dầu và sản phẩm chưng cất khác(0.1%) Lò phản ứng hạt nhân, nồi hơi và máy móc, v.v.. 78,00 44% Máy xử lý dữ liệu tự động, đầu đọc quang (69,6%); bộ phận máy móc (7,7%); bộ phận và thiết bị máy vi tính, máy văn phòng (5,7%); bơm không khí, chân không, nắp chụp quạt (4,4%); nồi hơi nước/hơi khác, nồi hơi quá nhiệt(1.6%) Giày dép, ghệt và sản phẩm tương tự, và bộ phận 63,93 31% Giày dép có mũ bằng da (52%); Giày dép khác (30%); giày dép có đế ngoài bằng nguyên liệu dệt (14,2%); giày dép có đế ngoài hoặc mũ bằng cao su, chất dẻo (3,2%); Giày ko thấm nước, có đế ngoài/mũ bằng cao su/chất dẻo,,(0.2%) Thiết bị điện, điện tử 58,78 13% Biến thế điện (17,7%); mạch điện tử tích hợp và vi mạch điện tử (16,5%); động cơ điện và máy phát điện (13,8%); bộ phận chuyên dùng cho bo mạch, cầu chì…(11,2%); máy thu truyền hình(9%). Thủy tinh, sản phẩm bằng thủy tinh 50,62 300% Kính thuộc nhóm 70.03, 70.04 hoặc 70.05, đã uốn cong, gia công cạnh…(97,5%); các sản phẩm khác bằng thủy tinh (1,3%) Nguồn: Trademap.net Năm 2007, kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt 10,303 tỷ USD, trong đó xuất khẩu từ Việt Nam đạt 2,202 tỷ USD, chiếm 10,5 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường châu Á. Đây cũng là năm đánh dấu tăng trưởng xuất khẩu của VN sang thị trường này, tăng 36.7% so với năm trước, tập trung vào các mặt hàng mà Singapore có nhu cầu cao: thuỷ sản, nông sản, rau quả, dệt may, giày da, đồ gỗ, dây cáp điện, linh kiện điện tử. Singapore trở thành 1 thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam tại Châu Á. Theo số liệu thống kê từ Tổng cục thống kê, được biết 5 tháng đầu năm 2008, giá trị xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Singapore đạt 948.501.383 USD. Riêng tháng 5/2008, Việt Nam đã xuất khẩu hàng hoá sang Singapore đạt trị giá 240.666.277 USD. Dầu thô; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; cà phê; dây điện và cáp điện; hàng hải sản; hàng dệt may...là những mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang thị trường Singapore trong 5 tháng đầu năm. 2.1.2. Tình hình nhập khẩu của Việt Nam từ Singapore Tuy Việt Nam xuất khẩu sang Singapore với giá trị tương đối lớn ( như mục 2.1.1 đã trình bày) nhưng Việt Nam lại nhập khẩu từ Singapore với giá trị lớn hơn nhiều. Nếu so sánh giữa giá trị xuất khẩu và giá trị nhập khẩu giữa Việt Nam và Singapore trong giai đoạn 2000-2007 ta có thể thấy rằng Việt Nam là nước nhập siêu từ Singapore. Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 KNNK 2.694,3 2.478,3 2.533,5 2.878,2 3.440,0 4.300,0 5.700,0 8.101,0 Bảng 2.3: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Singapore trong giai đoạn 2000-2007 (Nguồn Trade Developvement Board Singapore, đơn vị: triệu USD) Tính đến hết năm 2004, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Singapore đạt khoảng 4,8 tỷ USD, trong đó kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Singapore là 3,44 tỷ USD. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Singapore là phân bón, xăng dầu, máy móc thiết bị phụ tùng, đồ uống có cồn, vật tư ngành ảnh…… Năm 2005, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Singapore chiếm 1,45% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Singapore với thế giới, trong hàng Việt Nam nhập khẩu từ Singapore chiếm 1,93% tổng kim ngạch xuất khẩu của Singapore. Cùng năm này, Việt Nam nhập khẩu của Singapore tăng mạnh lên tới 37,2% so với năm 2004. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là: Các sản phẩm dầu mỏ (trên 2,1 tỷ USD, tăng 55,4% so với cùng kỳ 2004) chiếm trên 49,3% tổng kim ngạch nhập khẩu); phụ tùng máy xử lý dữ liệu văn phòng (trên 155 triệu USD, tăng 85,2%); nguyên liệu sản xuất thuốc lá (trên 134 triệu USD, tăng 40,7%); máy xử lý dữ liệu (123,5 triệu USD, tăng 1,9%); và các thiết bị cơ khí công trình (99,5 triệu USD, tăng 42,1%).... Điều đáng lưu ý là trong tổng kim ngạch 4,3 tỷ USD Việt Nam nhập khẩu của Singapore, chỉ có 2,6 tỷ USD là hàng sản xuất tại Singapore, còn lại khoảng 1,7 tỷ USD là hàng Singapore nhập của các nước khác rồi tái xuất sang Việt Nam. Năm 2006 đánh dấu việc Việt Nam trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 14 của Singapore, với kim ngạch xuất khẩu từ nước này sang Việt Nam đạt 5,7 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2005. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Singapore đạt 8,1 tỷ USD tăng 43,1% so với năm 2006. Thị trường Việt Nam trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 13 của Singapore. Kim ngạch nhập khẩu từ Singapore gấp gần 4 lần so với kim ngạch mà Việt Nam xuất khẩu sang quốc đảo này. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ thị trường Singapore trong năm nay vẫn chủ yếu là xăng dầu, thiết bị tin học…Thị trường Singapore (51,5 triệu USD, chiếm 36,8% kim ngạch nhập khẩu) là thị trường nhập khẩu thiết bị tin học dẫn đầu. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Singapore là bảng mạch (17,6 triệu USD); linh kiện vi tính (11,8 triệu USD) và máy in (5,7 triệu USD). Thị trường Nhật Bản (31,5 triệu USD chiếm 22,6% kim ngạch nhập khẩu) đứng thứ 2. Nhập khẩu từ Nhật Bản chủ yếu là linh kiện vi tính (17,8 triệu USD) và bảng mạch (12,6 triệu USD). Tháng 8/2008, Singapore tiếp tục là thị trường cung cấp xăng dầu lớn nhất nước ta đạt 450,5 nghìn tấn với trị giá 412,54 triệu USD. Đồng thời Singapore cũng dẫn đầu về thị trường nhập khẩu thiết bị tin học trong tháng với kim ngạch đạt 51,6 triệu USD, chiếm 32,7% kim ngạch nhập khẩu thiết bị tin học trong tháng sang tất cả các thị trường, trong khi đó xuất khẩu sang thị trường này là 10,6 triệu USD chiếm 6,7%. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu sang thị trường này là linh kiện vi tính (15 triệu USD) và bảng mạch các loại (11,6 triệu USD). * Nhận xét: Như vậy, nếu xét về cơ cấu hàng xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Singapore có thể thấy các mặt hàng dầu mỏ chiếm tỷ trong rất lớn, có tính  quyết định đến sự tăng, giảm xuất nhập khẩu giữa hai nước. Việt Nam xuất khẩu dầu thô sang Singapore có kim ngạch lớn nhưng cũng nhập lại nhiều các sản phẩm hóa dầu của các nhà máy lọc dầu Singapore để phục vụ nhu cầu trong nước. Năm 2005, giá dầu và các sản phẩm hóa dầu trên thị trường thế giới tăng cao, nhất là vào các tháng cuối năm là yếu tố quan trọng làm tăng tổng kim ngạch XNK hai chiều giữa hai nước lên 34,3%. Ngoài dầu thô, gạo, và một vài mặt hàng khác đến nay ta vẫn chưa có được mặt hàng xuất khẩu chủ lực, có trị giá kinh tế cao, đủ mạnh để cạnh tranh xâm nhập thị trường một cách bền vững, lâu dài, nhất là đối với Singapore một thị trường mang đậm đặc thù chuyển tải, tái xuất. Về nhập khẩu, ngoài sản phẩm hóa dầu chiếm tỷ trọng lớn, Việt Nam nhập khẩu của Singapore chủ yếu là các mặt hàng: máy móc thiết bị, nguyên phụ liệu cho sản xuất cho hàng xuất khẩu. Nhập khẩu hàng tiêu dùng chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Trong điều kiện nền kinh tế của nước ta hiện nay, cơ cấu xuất nhập khẩu này là có thể chấp nhận được.  Nghiên cứu quan hệ thương mại Việt Nam- Singapore, ta có thể thấy được một số thuận lợi cho Việt Nam trong việc phát triển quan hệ giữa hai quốc gia như: + Hai mặt hàng của Việt Nam có triển vọng trên thị trường Singapore là hàng thủ công và đồ gỗ. Bên cạnh đó, các mặt hàng nông sản, hải sản, hàng hoá sử dụng trong gia đình, do có truyền thống sản xuất đạt chất lượng yêu cầu nên trong tương lai, Việt Nam vẫn có thể tiếp tục xuất sang thị trường Singapore. +Việt Nam có thể tận dụng lợi thế của Singapore về vị trí địa lý và thế mạnh về kinh tế nhằm đẩy mạnh các hoạt động giao thương của mình với thế giới bên ngoài. Hơn nữa Singapore lại có quan hệ giao thương tốt đẹp với thị trường thế giới. Các nhà sản xuất Việt Nam nên tận dụng mạng lưới này của Singapore để mở rộng quan hệ thương mại với các thị trường khác, đặc biệt là các mặt hàng hải sản, may mặc và cao su. +Singapore là thị trường xuất nhập khẩu hoàn toàn tự do, 96% hàng hóa xuất nhập khẩu không có thuế (thuế suất = 0); Chính phủ không sử dụng những rào cản như biện pháp hạn chế thương mại; cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu (như thanh toán, trọng tài thương mại, cảng khẩu …). Điều này là một thuận lợi lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. + Vì các sản phẩm của Việt Nam và Singapore mang tính chất bổ sung cho nhau nên hầu như là không có sự cạnh tranh. Đây là điểm thuận lợi và cũng là điểm khó khăn đối với các doanh nghiệp XNK ở Việt Nam và Singapore. + Đặc biệt, có thể thấy rằng chính sách thương mại của 2 quốc gia đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quan hệ thương mại trong thời gian vừa qua. Ví dụ:- Năm 2006, Hải quan Singapore đã đưa ra 2 sáng kiến quan trọng nhằm tạo thuận lợi cho thương mại - Đó là Kế hoạch thuế hàng hoá và dịch vụ (GST) kho ngoại quan 0 % và Hệ thống TradeXchangeTM. - Nếu một công ty Việt Nam cam kết sử dụng Singapore là nơi trung chuyển để xuất khẩu một lượng lớn hàng hoá, thì cơ quan chức năng của Singapore sẽ xem xét hạ mức thuế DN cho các công ty đó. Ngoài ra, khi các DN Việt Nam có mặt tại thị trường Singapore, họ có thể được tiếp cận các quỹ vốn đầu tư và liên doanh để thành lập các liên doanh tại Singapore. Mặc dù vậy, trong quan hệ thương mại Việt Nam- Singapore, hai bên cũng gặp không ít những khó khăn: + Dù chúng ta xuất khẩu sang thị trường Singapore là lớn nhưng nước bạn cũng xuất khẩu trở lại thị trường nước ta với giá trị không nhỏ hơn gây nên sự mất cân bằng cán cân thanh toán. Việt Nam liên tục là nước nhập siêu từ thị trường Singapore( năm 2004 nhập siêu khoảng 2,08 tỷ USD thì đến năm 2005 nhập siêu lên đến 4,5898 triệu USD, trong khi xuất khẩu chỉ đạt 1,8 tỷ USD; quý I/2007 nhập siêu lên tới con số 826,23 triệu USD + Vì các sản phẩm của Việt Nam và Singapore mang tính chất bổ sung cho nhau nên hầu như là không có sự cạnh tranh. Điều này làm cho các doanh nghiệp XNK ở Việt Nam cũng như ở Singapore thụ động trong việc cải tiến công nghệ sản xuất, thay đổi cơ cấu mặt hàng XNK cũng như mở rộng quy mô sản xuất hàng xuất khẩu. + Hầu hết các doanh nghiệp Singapore đều than phiền rằng, hàng hoá của họ bị hải quan Việt Nam giữ lại quá lâu. Và họ gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm đối tác/đại lý thương mại Việt Nam. Bên cạnh đó việc cấp phép XNK hàng hóa còn khá chậm. + Singapore còn có nhiều hạn chế đối với việc nhập khẩu Singapore không áp đặt bất kỳ một hạn chế hạn ngạch nào đối với hàng hoá nhập khẩu và hầu hết hàng hoá đều có thể được nhập khẩu theo giấy phép chung không hạn chế ngoại trừ đối với những hàng hoá nhập khẩu từ Irắc. Nhưng có một số những mặt hàng sau bị cấm nhập khẩu như kẹo cao su, bật lửa (có dạng hình súng ngắn và súng lục ổ quay), pháo và các loài động vật quý hiếm và các sản phẩm phụ. Những mặt hàng cần phải có giấy phép cụ thể bao gồm động vật; vũ khí và chất nổ; Chlorofluocarbon (CFCs); hoa quả tươi và ướp lạnh; mũ bảo hiểm; thịt và các sản phẩm từ thịt; phân hữu cơ; các xuất bản phẩm; băng video và cassetle đã thu thanh; gạo (ngoại trừ cám gạo); thiết bị viễn thông và phát xạ chẳng hạn như điện thoại vô tuyến, máy phát, máy thu và phát vô tuyến xách tay; dược phẩm và chất độc. Thuế hàng hoá và dịch vụ 3% đánh vào tất cả hàng hoá và dịch vụ ở Singapore và hàng hoá nhập khẩu vào trong nước. Giá trị đánh thuế đối với hàng nhập khẩu dựa trên giá CIF. Yêu cầu ghi nhãn ở Singapore áp dụng đối với thực phẩm, ma tuý và rượu, sơn và chất dung môi. Các nhà sản xuất phải ghi rõ khối lượng, nước xuất xứ, tên và địa chỉ của nhà sản xuất. 2.2. Thực trạng quan hệ hợp tác đầu tư Quan hệ đầu tư Việt Nam- Singapore được tiến hành từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Ngay sau khi chính phủ Singapore tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam vào cuối 1989, tháng 10/1990 công ty Kiều My Trading Pte.Ltd của Singapore đã trở thành doanh nghiệp ASEAN đầu tiên có giấy phép đầu tư tại Việt Nam. Nếu năm 1995, Singapore mới chỉ có 116 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư là 1,5 tỷ USD thì đến năm 2000, số dự án của Singapore đầu tư vào Việt Nam đã tăng lên 255 dự án với tổng vốn đầu tư 6,839 tỷ USD. Singapore trở thành nước đứng thứ 1 trong khối ASEAN đầu tư vào Việt Nam và đứng thứ 4 trong top 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Tính đến hết năm 2003, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam với với 289 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký 7,8 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư thực hiện gần 3 tỷ USD. Năm 2005, Singapore đã có 396 dự án đầu tư vào Việt Nam với số vốn đăng kí 7,6 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 3,45 tỷ USD và trở thành nước đứng thứ 2 trong hơn 80 nước đầu tư vào Việt Nam. Tính đến hết năm 2006, Singapore là nước đứng đầu trong số 65 nước và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư vào Việt Nam với 402 dự án, tổng vốn đăng ký gần 7,7 tỷ USD. Các dự án đều tập trung vào các ngành như: kinh doanh bất động sản, khách sạn, văn phòng, căn hộ; thăm dò và khai thác dầu khí; sản xuất công nghiệp; chế biến nông, lâm, hải sản... Theo công bố của Cục Đầu tư nước ngoài (thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến hết năm 2007 Singapore đã có 474 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký là 9,07 tỷ USD. Singapore đứng thứ 2 trong tổng số 78 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam. Tính đến tháng 7/2008, Singapore có 48 dự án được cấp phép đầu tư mới tại Việt Nam, với tổng vốn đăng ký trên 4 tỷ USD, trong đó có quy mô đầu tư lớn nhất là Dự án liên doanh viễn thông tại TP.HCM (vốn đăng ký 1,2 tỷ USD). Như vậy, tính đến nay, Singapore có hơn 580 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký gần 15 tỷ USD, đứng thứ 4 trong tổng số hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ đang đầu tư tại Việt Nam. Tính đến tháng 10/2008, Singapore đứng thứ 5 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư lớn vào Việt Nam với mức đầu tư khoảng 15 tỷ USD. Về lĩnh vực đầu tư Các dự án đầu tư của Singapore tập trung chủ yếu vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, dịch vụ và kinh doanh bất động sản, được các chuyên gia kế hoạch và đầu tư đánh giá là đạt hiệu quả cao, đóng góp đáng kể vào việc giải quyết việc làm, phát triển xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Năm 2006, Singapore đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ với 207 dự án và có tới hơn 5,5 tỷ USD chiếm khoảng 60,7% tổng số vốn đăng ký; lĩnh vực xây dựng và công nghiệp với 230 dự án và số vốn đăng ký khoảng 3,3 tỷ USD, chiếm khoảng 36,4% tổng vốn đăng ký. Các dự án và doanh nghiệp đầu tư tiêu biểu của Singapore tại Việt Nam Sức sống và mức độ gắn kết của các doanh nghiệp Singapore tại Việt Nam có thể được minh hoạ thông qua hình ảnh của các dự án hoạt động hiệu quả tại Việt Nam. Một trong số đó là Công ty Liên doanh Khu công nghiệp Việt Nam-Singapore. Đây là liên doanh giữa Công ty Thương mại và Đầu tư với Công ty Vietnam Singapore Industrial Park Pte., Ltd (VSIP) với tổng vốn đầu tư tính đến hết năm 2007 là trên 139,1 triệu USD, phía Việt Nam chiếm 49%, Singapore chiếm 51%. VSIP đã triển khai xong việc góp vốn đầu tư cho cả 2 giai đoạn với tổng diện tích khoảng 600 ha đất, đã lấp đầy khoảng 88%. ( Nguồn Trong những ngày cuối năm 2007, VSIP đã triển khai kế hoạch mở rộng đầu tư tại một số tỉnh phía Bắc bằng lễ động thổ Dự án Khu đô thị, công nghiệp và dịch vụ Việt Nam – Singapore tại tỉnh Bắc Ninh. Với diện tích 700 ha, dự án thứ 3 này của VSIP sẽ dành 500 ha cho việc phát triển một khu công nghiệp sạch, có tiêu chuẩn môi trường và công nghệ sản xuất tiên tiến. 200ha còn lại bao gồm các dự án thương mại, khách sạn, siêu thị, nhà ở, căn hộ chất lượng cao. Hiện VSIP Bắc Ninh đã thu hút được 15 dự án đầu tư với tổng số vốn ước tính 200 triệu USD, cam kết thuê trên 120 ha. Ngày 11/12/2007, dưới sự chứng kiến của Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải và Bộ trưởng cấp cao Chính phủ Singapore Goh Chok Tong, Công ty Cổ phần Phát triển đô thị và Khu công nghiệp Việt Nam - Singapore đã long trọng tổ chức lễ động thổ Dự án Khu đô thị, Công nghiệp và dịch vụ Việt Nam - Singapore (VSIP) tại tỉnh Bắc Ninh, trao giấy chứng nhận đầu tư cho 7 nhà đầu tư đầu tiên trong dự án. Sau 2 dự án thành công tại Bình Dương, Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đánh giá, Khu công nghiệp VSIP Bắc Ninh là một minh chứng cho tình hữu nghị, sự hợp tác kinh tế bền chặt giữa Việt Nam và Singapore. Một gương mặt khác trong ngành công nghiệp của Việt Nam là Công ty TNHH NATSTEELVINA. Đây là liên doanh giữa Tổng công ty Thép Việt Nam với hai công ty Natsteel Ltd. Singapore và Southern Steel Berhad – Malaysia, trong 30 năm tại thành phố Thái Nguyên, để sản xuất và kinh doanh sản phẩm thép. Tổng vốn đầu tư: 21,7 triệu USD. Hiện liên doanh đã góp vốn thực hiện là 12,1 triệu USD, có doanh thu từ 1995 với mức doanh thu bình quân mỗi năm khoảng 20-25 triệu USD và hoạt động có lãi liên tục từ năm 1997 đến nay. Công ty Cổ phần hữu hạn Vedan cũng là một điểm sáng trong hợp tác Việt Nam-Singapore. Đây là công ty 100% vốn của Công ty Burghley Enterprise Pte.Ltd.-Singapore (được chuyển nhượng từ Công ty Vedan trong tháng 9 năm 2002), để sản xuất bột ngọt với công suất thiết kế 5.500 tấn/tháng tại Đồng Nai. Năm 2008, hai dự án tiêu biểu của Singapore đầu tư tại Đà Nẵng là Chi nhánh Công ty TNHH Nước ngọt Coca Cola Non Nước với tổng vốn đầu tư 25 triệu USD, dự án liên doanh Tanda Motor giữa Công ty Cơ khí ô-tô và Thiết bị điện Đà Nẵng (DAMACO) với 2 doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Tan Chong tại Singapore và Malaysia (cấp phép ngày 19-7-2005). Tổng số vốn giai đoạn 1 của dự án là 4 triệu USD. Công ty bất động sản Mapletree thuộc tập đoàn Temasek Holding của Singapore vừa ký một hiệp định đầu tư phát triển dự án khu thương mại 400 triệu USD tại Khu liên hợp- Công nghiệp- Dịch vụ- Đô thị Bình Dương hôm 14/10/2008. Dự án khu thương mại có quy mô 75 ha thuộc tỉnh Bình Dương, Việt Nam với số vốn đầu tư 400 triệu USD. Đây là khu phức hợp công nghệ sản xuất, kinh doanh đầu tiên của Mapletree tại Việt Nam, nhằm phục vụ cho các công ty trong lĩnh vực phát triển phần mềm công nghệ cao, gia công phần mềm, nghiên cứu và phát triển sản phẩm và sản xuất hàng hoá có giá trị gia tăng. Dự án sẽ được đầu tư xây dựng thành nhiều giai đoạn, giai đoạn 1 bắt đầu từ năm 2009. Với dự án này, Mapletree đã nâng tổng số vốn đầu tư vào Việt Nam lên con số 700 triệu USD. Đây là dự án khu công nghiệp vận tải thứ 2 mà Mapletree đầu tư vào Việt Nam, khu thứ nhất nằm ở khu công nghiệp Việt Nam – Singapore I (VSIP I), mở cửa tháng 1/2007. Khu vận tải thứ 2 này được xây dựng tại VSIP II, trị giá 110 triệu USD, đáp ứng khoảng 420.000m2 mặt bằng kho chứa cho thuê. Bên cạnh đó, Mapletree đã khánh thành kho vận 68 ha nằm trong Khu công nghiệp Việt Nam-Singapore II, có vốn đầu tư 110 triệu USD. Mới đây, TP.HCM đã chào mời khoảng 27 dự án đầu tư bất động sản lớn dưới nhiều loại hình và quy mô khác nhau, như Dự án Khu Tây Bắc TP.HCM; Dự án Trường học quốc tế Fosco và Dự án Khu công nghệ cao Sài Gòn; Dự án Bãi đậu xe ngầm, khu vui chơi giải trí và khu động vật hoang dã Safari... Đặc biệt, Dự án Trung tâm đô thị mới Thủ Thiêm, với diện tích trên 6,2 triệu m2 và nhiều hạng mục đầ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22684.doc
Tài liệu liên quan