MỤC LỤC
Lời mở đầu. 1
Nội dung . 3
I). Cổ phần hóa và cổ phần hóaDNNN. 3
1.Cổ phần hóa . 3
2.Cổ phần hóa DNNN. 3
II) Cơ sở lí luận và thực tiễn cổ phần hóa DNNN . 4
1.Cơ sở lí luận . 4
2.Thực tiễn cổ phần hóa DNNN . 6
III). Tiến trình cổ phần hóa DNNN . 8
1.Giai đoạn 1. 9
2.Giai đoạn 2. 10
3.Giai đoạn 3. 10
4.Giai đoạn 4. 11
IV). Đánh giá chung về quá trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam . 12
1.Những thành tựu . 13
1.1.Những thành tựu mang tính định lượng. 13
1.2.Thành tựu của cổ phần hóa DNNN đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa và tác động của nó tới việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động . 14
1.2.1.Về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hóa
. 14
1.2.2.Về huy động vốn. 15
1.2.3.Về giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động 15
2.Những hạn chế . 16
2.1.Tốc độ cổ phần hóa chậm. . 16
2.2.Cổ phần hóa chưa được thực hiện đều khắp trong tất cả các lĩnh vực17
2.3.Cơ chế chính sách cho các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa chưa đầy đủ . 18
2.4.Sự chỉ đạo của các cấp còn thiếu sự kiên quyết và còn chưa sâu sát kịp thời . 18
2.5.Công tác tuyên truyền, vận động cung cấp những kiến thức cần thiết về cổ phần hóa còn bị xem nhẹ. 18
2.6.Những hạn chế, trì trệ từ phía doanh nghiệp . 19
VI). Mục tiêu của cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam. 19
VII). Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam . 23
1.Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chế độ chính sách để thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa
DNNN. 23
2.Mở rộng đề cao các biện pháp kinh tế, hạn chế thu hẹp các biện pháp tài chính . 24
3.Giải quyết dứt điểm các khoản nợ tồn đọng của các DNNN sau khi cổ
phần hóa . 25
4.Quán triệt một cách sâu rộng trong toàn thể cán bộ, Đảng viên và người lao động về
tính tất yếu phải cổ phần hóa . 25
5.Những giải pháp khác . 25
Kết luận . 27
Tài liệu tham khảo . 28
33 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1089 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệm.
2. Giai đoạn 2( giữa năm 1996-giữa năm1998): Đây là giai đoạn vừa làm vừa rút kinh nghiệm để tạo hành lang pháp lí cho các doanh nghiệp khi cổ phần hóa, hay nói cách khác đây là giai đoạn mở rộng cổ phần hóa. Với kinh nghiệm sau 4 năm tiến hành thí điểm cổ phần hóa và trước nhu cầu về vốn của các DNNN, ngày 7/5/1996 Chính phủ đã chủ trương mở rộng cổ phần hóa bằng Nghị định 28/CP với những qui định rõ ràng, đầy đủ và cụ thể hơn về việc chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Sau hơn 2 năm thực hiện tính đến tháng 6/1998 cả nước đã tiến hành cổ phần hóa được 25 DNNN. Việc triển khai thực hiện Nghị định 25/CP vẫn còn khá nhiều vướng mắc bất cập như phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu đãi cho doanh nghiệp và người lao động sau cổ phần hóa..., đây chính là những rào cản bước đàu làm chậm tiến trình cổ phần hóa, tuy nhiên nếu nhìn nhận một cách khách quan thì cổ phần hóa trong giai đoạn này cũng đã đạt được những kết quả khả quan.
3. Giai đoạn 3(1998-2001): Trên cơ sở những kết quả bước đầu của giai đoạn mở rộng cổ phần hóa, Đảng ta đã chủ trương chủ trương đẩy mạnh tốc độ cổ phần hóa DNNN. Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã yêu cầu: Đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn, cần lập kế hoạch cổ phần hóa tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, làm ăn có hiệu quả phát huy tốt nguồn lực hiện có. Tiến hành thí điểm bán cổ phần cho người nước ngoài, khuyến khích nông dân tham gia sản xuất nguyên liệu cung ứng cho các nhà máy, xí nghiệp , tham gia mua cổ phần ở các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp chế biến nông sản... Từ thực tiễn kinh nghiệm ngày 4/4/1997 Bộ Chính trị ra thông báo số 63TB/TW “ ý kiến của Bộ Chính trị về tiếp tục triển khai tích cực và vững chắc cổ phần hóa DNNN”. Nhằm thực hiện quan điểm của Đảng ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP thay thế cho các văn bản về cổ phần hóa trước đó, cùng với chỉ thị 20/CT-TTg ngày 21/4/1998 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN. Nghị định này là một bước tiến lớn trong việc đẩy nhanh tốc độ cổ phần hóa, hạn chế bớt được những bất cập trong các văn bản chỉ đạo thực hiện trước đó. Nghị định này đã bước đầu cho những kết quả khả quan, đến 6 tháng cuối năm 1998 đã có 90 DNNN được cổ phần hóa gấp hơn 3 lần kết quả của những năm trước đó, đặc biệt năm 1999 cả nước cổ phần hóa được hơn 240 doanh nghiệp. Đạt được những thành công này một phần là nhờ ở sự chỉ đạo, giám sát, đôn đốc của các cơ quan, ban , nghành từ Trung ương đến cơ sở. Trong vòng hai năm các cơ quan Nhà nước đã ban
hành 15 văn bản hướng dẫn tháo gỡ những vướng mắc khó khăn trong cổ phần hóa. Nhưng đến năm 2000 cả nước chỉ cổ phần hóa được 155 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp đạt 26% kế hoạch. Sự chững lại của cổ phần hóa có nhiều nguyên nhân nhưng một trong số các nguyên nhân chính vẫn là những bất cập về chính sách và cơ chế pháp lí. Trước tình hình đó Hội nghị Trung ương 3 khóa IX về sắp xếp đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước đã xác định: phải kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để doanh nghiệp có cơ cấu hợp lí và theo đó thì cổ phần hóa DNNN được xác định là khâu tạo ra những chuyển biến quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả DNNN.
4. Giai đoạn 4( giai đoạn mới): Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương khóa IX Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/2002/NĐ-CP nhằm thay thế Nghị đinh 44/1998/NĐ-CP, đồng thời ra quyết định số 50/2002/QĐ-CP về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại DNNN và một số văn bản chỉ đạo thực hiện khác nhằm từng bước tháo gỡ những vướng mắc của các văn bản trước đó, tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình cổ phần hóa. Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các bộ, các tỉnh, các tổng công ty rà soát, sắp xếp lại các doanh nghiệp, xây dựng đề án đổi mới nâng cao hiệu quả của DNNN trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân. Bằng các hình thức sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản, giao bán, khoán, cho thuê và cổ phần hóa. Từ 2001-
2003 cổ phần hóa được 979 doanh nghiệp, riêng 2003 là 611 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp được cổ phần hóa. Các doanh nghiệp cổ phần hóa chỉ chiếm 6% tổng số vốn của DNNN, với tốc độ, số lượng và mức độ cổ phần hóa như vậy thì cổ phần hóa chưa thực sự tạo được những chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN như Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX đã đề ra. Bước sang năm 2004 Hội nghị Trung ương 9 khóa IX đã đề ra những điểm rất mới và rất quan trọng trong chủ trương đổi mới sắp xếp lại DNNN: “ kiên quyết đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa và mở rộng diện các DNNN cần cổ phần hóa kể cả những doanh nghiệp lớn và một số tổng công ty làm ăn có hiệu quả, gắn với việc phát hành cổ phiếu và tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán giá trị DNNN được cổ phần hóa, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất, về nguyên tắc phải do thị trường quyết định. Việc mua bán cổ phiếu phải công khai trên thị trường, khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp”.
Cho đến nay tuy còn nhiều khó khăn nhưng kết quả cổ phần hóa đã phần nào phản ánh được những thành công nhất định.
Giai đoạn
Số DN cổ phần
hoỏ
Thí điểm (1992 – giữa 1996)
5
Mở rộng thí điểm theo Nghị định 28/CP (giữa 1996 - giữa 1998)
25
Đẩy mạnh cổ phần hoá theo Nghị định 44/1998/NĐ-CP (1998-2001)
745
Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá theo Nghị định 64/2002/NĐ-CP
2002
164
2003
611
Tổng
1550
Nguồn: từ ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp
Số doanh nghiệp được cổ phần hóa trong 2 năm 2002 và 2003 tương đương với giai đoạn 1998-2001. tuy nhiên kêt quả còn nhiều hạn chế, số doanh nghiệp được cổ phần hóa không đạt mục tiêu đề ra, riêng 6 tháng đầu năm
2004 chỉ đạt được 16% kế hoạch ( chỉ tiêu đề ra trong năm nay là cổ phần hóa
được 1770 đơn vị).
IV). Đánh giá chung về quá trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam.
Cổ phần hóa DNNN là một chủ trương lớn của Đảng. Mấy năm trước diễn biến khá chậm chạp. Đến hội Nghị lần thứ 9 Hội nghị Trung ương khóa IX Đảng ta đã chủ trương đẩy nhanh tiến độ, và đẩy mạnh hơn nữa công việc đó. Thực tiễn cổ phần hóa đang bắt đầu diễn ra sôi động, quá trình diễn ra không đơn giản vừa có những thuận lợi vừa có những khó khăn phức tạp, tuy nhiên sau hơn 10 năm thực hiện chủ trương đổi mới doanh nghiệp thì cổ phần hóa DNNN đã có được những thành công và những hạn chế nhất định.
1.Những thành tựu.
1.1. Những thành tựu mang tính định lượng.
Chủ trương cổ phần hóa DNNN đã được thực hiện ở nước ta hơn 10 năm qua. Cho đến nay thì cả nước đã cổ phần hóa được 1790 DNNN. Trong
10 tháng của năm 2003 thì trong số 766 DNNN thực hiện việc chuyển đổi thì có 425 doanh nghiệp cổ phần hóa (nguồn tư ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp). Từ thực tiễn có thể thấy cổ phần hóa là hình thức chuyển đổi sở hữu chiếm ưu thế trong quá trình đổi mới sắp xếp lại DNNN.
Từ năm 1992 đến tháng 6 năm 1998 cả nước đã cổ phần hóa được 30 DNNN. Trong đó có 5 doanh nghiệp được cổ phần hóa theo cơ chế, chính sách thí điểm qui đinh tại quyết định 202/CT của Hội đồng bộ trưởng, 25 doanh nghiệp được cổ phần hóa theo tinh thần Nghị định 28/CP của Chính phủ. Các doanh nghiệp được cổ phần hóa trong thời gian này nhìn chung đều có những tiến bộ về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Cổ phần hóa đã thu hút được một
nguồn vốn khá lớn trong xã hội tạo được động lực tốt cho doanh nghiệp phát triển, phát huy tích cực tính chủ động sáng tạo của người lao động. Từ đó góp phần làm tăng ngân sách Chính phủ, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động đồng thời khắc phục bớt được những tiêu cực trong các doanh nghiệp.
Từ 2/6/1998 đến 31/12/1999 đã có thêm 340 DNNN và bộ phận DNNN được chuyển thành công ty cổ phần. Riêng trong năm 1999 đã có 250 doanh nghiệp được cổ phần. Nhìn chung sau khi Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ra đời cổ phần hóa DNNN đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Nghị định số
44/1998/NĐ-CP đã quy định các chính sách khuyến khích đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa một cách rõ ràng và cụ thể hơn; Có sự quan tâm hơn đến người lao động đặc biệt là người lao động nghèo. Chính đây là nguyên nhân khiến chủ trương cổ phần hóa trở nên hấp dẫn hơn đối với doanh nghiệp cũng như người lao động.
Từ tháng 1/2000 đến cuối tháng 11/2002 cả nước đã cổ phân hóa được 523 doanh nghiệp, đưa tổng số doanh nghiệp được cổ phần hóa lên 907 doanh nghiệp. Năm 2002 đã có 427 DNNN được sắp xếp lại trong đó 164 doanh nghiệp được cổ phần hóa. Năm 2003 có 766 doanh nghiệp được sắp xếp lại bằng 48% so với kế hoạch, trong đó có 425 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp được cổ phần hóa. Và cho đến nay thì đã có 1.790 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa. Như vậy càng về sau thì tốc độ cổ phần hóa càng được đẩy mạnh và càng về sau thì quy mô các doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa hoặc chuyển đổi dưới hình thức khác càng lớn. Trước kia cả nước có khoảng 12.000 DNNN phần lớn các DNNN có quy mô vốn rất nhỏ và chiếm lĩnh hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. hơn 10 năm qua chúng ta đã sắp xếp điều chỉnh còn lại khoảng 5.000 doanh nghiệp, tuy hiệu quả chưa cao, chưa tương xứng với vị trí tiềm năng của nó nhưng các doanh nghiệp Nhà nước đã có những đóng góp to lớn cho nền kinh tế quốc dân:
63,8%GDP, 63% ngân sách, 72% kim ngạch xuất khẩu, trong khi 120.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ đóng góp 20%GDP, 15% nguồn thu ngân sách, 12,5% kim ngạch xuất khẩu. Trong điều kiện đó thì cổ phần hóa DNNN là một giải pháp tốt để phát huy hiệu quả khu vực kinh tế quốc doanh, thể hiện là một khu vực kinh tế năng động, dường cột của nền kinh tế. Qua khảo sát 500 doanh nghiệp đã cổ phần hóa trên 1 năm cho thấy : vốn điều lệ tăng 50%, doanh thu tăng 60%, lợi nhuận trước thuế tăng 13,7%, nộp ngân sách tăng 45%, thu nhập của người lao
động tăng 63%, cổ tức trung bình là 15,5%, số lao đôngb tăng 23%. Trước năm 2003 số DNNN được cổ phần hóa có vốn trên 10 tỷ chỉ chiếm 7,9% thì năm 2003 là 15%. Đây chính là những con số báo hiệu những chuyển biến tích cực của tiến trình cổ phân hóa DNNN.
1.2. Thành tựu của cổ phần hóa DNNN đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa và tác động của nó tới việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
Bênh cạnh những kết quả về mặt số lượng đã được đề cập ở trên việc thực
hiện chủ trương cổ phần hóa DNNN còn đem lại những hiệu quả quan trọng về mặt kinh tế xã hội.
1.2.1. Về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hóa.
Xét một cách tổng thể thì phần lớn các DNNN sau khi chuyển thành
công ty cổ phần đều hoạt động có hiệu quả hơn trước. Qua báo cáo của các doanh nghiệp cổ phần hóa sau khi hoạt động được một năm thì doanh thu bình quân của các doanh nghiệp tăng gần gấp hai lần so với trước khi tiến hành cổ phần hóa kể cả những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Điển hình như công ty GEMADEPT khi bước vào cổ phần hóa vốn Nhà nước chỉ có 1,2 tỷ đồng được đánh giá lên thành 6 tỷ đồng, sau bảy năm hoạt động theo mô hình mới tổng số vốn đã lên tới 140 tỷ đồng; Hay như công ty bông Bạch Tuyết năm
1999 đạt 86 tỷ đồng, gấp 1,5 lần so với số doanh thu trước khi thực hiện cổ phần hóa là 55 tỷ đồng năm 1998. Lợi nhuận của doanh nghiệp tăng bình quân hơn hai lần, cổ tức bình quân đạt từ 1-2% một tháng. Vốn của doanh nghiệp tăng gần 2,5 lần so với trước khi tiến hành cổ phần hóa. Chính nhờ hoạt động có hiệu quả các DNNN thực hiện cổ phân hóa chính là những công ty cổ phần đầu tiên niêm yết trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam. điều này làm tăng uy tín cũng như vị thế của các DNNN được cổ phần hóa trên thương trường, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để cho các doanh nghiệp này có được một chổ đứng tốt trong nền kinh tế Việt Nam đang trong đà hội nhập và phát triển.
1.2.2. Về huy động vốn .
Việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa DNNN đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu hút được một nguồn vốn lớn trong xã hội để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Chỉ tính riêng 370 DNNN được cổ phần hóa tính đến ngày 31/12/1999 thì tại thời điểm cổ phần hóa giá trị phần vốn Nhà nước của các doanh nghiệp này là 1.349 tỷ đồng qua cổ phần hóa đã thu hút thêm được 1.432 tỷ đồng , đồng thời Nhà nước cũng thu được 714 tỷ đồng. Phần
vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hóa đều tăng tử 10-15% so với giá trị ghi trên sổ sách. Chỉ tính riêng thành phố Hà Nội cuối năm 1998 ở 30 doanh nghiệp đã cổ phần hóa thì giá trị phần vốn của Nhà nước là 80,8 tỷ đồng, tăng thêm 1,5 tỷ đồng so với giá trị ghi trên sổ sách kế toán, thành phố Hồ Chí Minh sau khi đánh giá lại 10 doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa thì giá trị lên tới 80 tỷ đồng tăng thêm 34 tỷ đồng...Như vậy khi thực hiện cổ phần hóa phần vốn của Nhà nước trong các công ty cổ phần không những không mất đi mà còn tăng thêm một lượng rất đáng kể, phần vốn nhàn rỗi mà các doanh nghiệp huy động được từ ngoài xã hội cúng rất lớn. Chúng ta lại nói tới công ty bông Bạch Tuyết như một doanh nghiệp điển hình của cổ phần hóa, sau khi tiến hành cổ phần hóa số lượng lao động tại thời điểm hiện tại là 205 người so với 198 trước khi tiến hành cổ phần hóa, thu nhập bình quân là 3,2 triệu đồng/người/tháng và lãi cổ tức năm 1998 là 7%. Tóm lại cổ phần hóa đã đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp được cổ phần, người lao động trong doanh nghiệp và các cổ đông góp vốn vào doanh nghiệp.
1.2.3. Về giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao
động.
Cổ phần hóa là một giải pháp có hiệu quả tích cực đối với các vấn đề kinh tế xã hội. Việc các công ty cổ phần làm ăn hiệu quả phát đạt đã tạo cơ hội lớn về việc làm cho người lao động. Khi đang làm ăn có hiệu quả, nguồn vốn huy động được lớn thì các doanh nghiệp này có xu hướng mở rộng qui mô sản xuất, đầu tư thêm nhiều máy móc trang thiết bị... Do mở rộng sản xuất nên số lao động ở các doanh nghiệp đã thực hiện cổ phần hóa tăng bình quân 12%, riêng công ty cổ phần cơ điện lạnh thành phố Hồ Chí Minh(REE) số lao động tăng từ 334 người lên 731 người, công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An số lao động tăng từ 900 người lên 1.280 người. Và có nhu cầu tuyển thêm lao động để phục vụ cho hoạt động sản xuất của mình. Hầu hết các doanh nghiệp được cổ phần hóa thì việc làm và thu nhập của người lao động đều được đảm bảo ổn định và có xu hướng tăng lên. Số lao động trở thành cổ đông của doanh nghiệp cổ phần chiếm tỷ lệ khá lớn, riêng trong năm 2003
58% số cổ phần trong các doanh nghiệp cổ phần đều do những lao động chính trong các doanh nghiệp này nắm giữ. Tính đến 30/10/2003 quỹ hỗ trợ lao động dôi dư đã cấp 409,63 tỷ đồng hỗ trợ cho 387 doanh nghiệp, giải quyết
14.579 lao động dôi dư. Thu nhập bình quân của lao động làm việc trong các công ty cổ phần tăng bình quân hàng năm là 20%, điển hình là công ty cổ phần đại lí liên hiệp vận chuyển thu nhập bình quân của lao động xí nghiệp
này đã tăng gần 3 lần so với trước khi tiến hành cổ phần hóa từ 1,4 triệu đồng lên 4 triệu đồng/người /tháng (năm 1999). Với chủ trương cổ phần hóa, với cơ chế chính sách mới người lao động thực sự trở thành chủ nhân của các công ty cổ phần. Chính nhờ vậy họ đã nâng cao được tính chủ động sáng tạo, ý thực kỉ luật cũng như tình thần trách nhiệm nhằm đem lại hiệu quả cao nhất đối với công việc cung như đối với thành công của các doanh nghiệp từ đó làm cho sản lượng, chất lượng, doanh thu , lợi nhuận, tích lũy vốn tăng đáng kể sau mỗi năm hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tiến trình cổ phần hóa đã tạo một số lượng không nhỏ các công ty cổ phần, tính đén nay cả nước đã có khoảng 1790 công ty cổ phần được hình thành trên cơ sở các DNNN được cổ phần hóa.Việc cổ phần hóa đã có hiệu ứng khá tích cực đối với việc thành lập mới DNNN. Tình trạng thành lập các DNNN tràn lan đã diễn ra trong nhiều năm trước đó đã được khắc phục, trong ba năm
2001-2003 cả nước chỉ thành lập 59 DNNN hầu hết là các doanh nghiệp ở các lĩnh vực như dầu khí, năng lượng nguyên tử, sản xuất cơ khí. Năm 2003 thì số DNNN có lãi chiếm 77,2%, tổng số nộp ngân sách Nhà nước là 87.000 tỷ đồng , nợ xấu 8,5%.
2. Những hạn chế.
Bên cạnh những thành công thì việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa đã bộc lộ nhiều hạn chế. Những hạn chế yếu kém của DNNN có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan.
2.1. Hạn chế lớn nhất của việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa là tốc độ cổ phần hóa còn chậm. Trong nhiều năm qua kể từ khi chúng ta bắt đàu tiến hành cổ phần hóa DNNN thì tốc độ cổ phần hóa diễn ra khá chậm mà như một số nhà phân tích kinh tế đã nói là cổ phần hóa đang diễn ra với tốc độ rùa bò. Theo dự kiến trong ba năm từ 200-2002 cả nước sẻ tiến hành cổ phần hóa
1.056 DNNN nhưng đến tháng 12/2002 thì chúng ta chỉ thực hiện được gần
50% so với dự kiến. Bộ thương mại đã đề ra kế hoạch cổ phần hóa 7 doanh nghiệp nhưng kết quả chỉ thực hiện được 1 doanh nghiệp; Chỉ tiêu đề ra trong năm 1999 là cổ phần hóa 12 doanh nghiệp nhưng thực tế chỉ thực hiện được 5 doanh nghiệp, năm 2000 chỉ thực hiện được cổ phần hóa ở 8 doanh nghiệp trong khi chỉ tiêu đề ra là 19 doanh nghiệp. Sang năm 2001 tình hình còn xấu hơn khi chỉ cổ phần hóa được 5 doanh nghiệp so với 19 doanh nghiệp đã đề ra, thậm chí trong năm 2002 chỉ tiến hành cổ phần hóa được 4 doanh nghiệp. Như vậy trong suốt 5 năm triển khai nghành thương mại chỉ cổ phần hóa được
23 doanh nghiệp chỉ đạt 20% so với kế hoạch năm. Đây chỉ là những con số
điển hình cong thực tế thì còn rất nhiều bộ, nghành còn rất chậm trong việc sắp xếp đổi mới DNNN.
2.2. Việc thực hiện cổ phần hóa chưa được thực hiện đều khắp trong tất cả các lĩnh vực , chủ yếu là các doanh nghiệp trong thuộc các nghành công nghiệp, thương mại và xây dựng, do đó số doanh nghiệp được cổ phần hóa không cao và các doanh nghiệp được cổ phần hóa chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặt khác Nhà nước vẫn giữ lại một tỷ lệ đáng kể cổ phần của mình trong các công ty cổ phần nên nhìn chung việc cổ phần hóa chưa tác động đáng kể đến đến cơ cấu vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, các công ty cổ phần chủ yếu được hình thành trên cơ sở các DNNN có quy mô nhỏ được
cổ phần hóa.
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
Tổng số doanh
nghiệp đã cổ phần hóa
370
250
288
242
213
Quy mô
Dưới 10 tỷ
327
89%
224
90%
244
86%
187
78%
172
81%
Trên 10 tỷ
43
11%
26
10%
44
14%
55
22%
41
11%
Một số DNNN sau khi cổ phần hóa chưa có chiến lược sản xuất kinh doanh có hiệu quả, chưa thực sự tích cực tuyên truyền kêu gọi sự đóng góp nguồn vốn ngoài xã hội vào hoạt động sản xuất kinh daonh của mình, chưa thực hiện đổi mới công nghệ trang thiết bị kĩ thuật mà chỉ chú trọng vào tiết kiệm giảm giá thành để tăng lợi nhuận, chia cổ tức. Mới chỉ chú trọng đến lợi ích trước mắt mà chưa có chiến lược phát triển lâu dài. Chính vì thế mà bên cạnh những doanh nghiệp sau khi cổ phần làn ăn có hiệu quả thì vẫn có những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả. Vì thế mà đã có một số doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hóa đã biến mất trên thương trường. Mặc dù số lượng doanh nghiệp này không nhiều nhưng đây chính là những tín hiệu không tốt làm cản trở đến tiến trình cổ phần hóa, ảnh hưởng đến uy tín doanh nghiệp cổ phần hóa.
2.3. Cơ chế chính sách cho doanh nghiệp sau cổ phần hóa chưa đầy đủ,việc thực hiện chính sách đối với người lao động còn những bất cập. Vì thế chưa thực sự tạo điều kiện khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước chuyển
thành công ty cổ phần. Khi chuyển từ cơ chế doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo luật doanh nghiệp không ít cán bộ quản lí vẫn điều hành công ty theo phương thức điều hành hoạt động của DNNN, chưa chuyển sang điều lệ và luật công ty, lúng túng trong xác định cơ cấu tổ chức bộ máy công ty và cơ chế hoạt động của công ty cổ phần. DNNN sau khi cổ phần hóa bị kì thị phân biệt đối xử như: khó vay vốn, bị chính các công ty mẹ cạnh tranh chèn ép. Quan hệ tài chính sau khi cổ phần hóa thiếu minh bạch, thủ tục định giá trị doanh nghiệp nói chung còn rườm rà, thường kéo dài, định giá trị doanh nghiệp thường thấp hơn thực tế gây tổn thất không nhỏ cho Nhà nước. Vẫn còn hiện tượng cổ đông chuyển nhượng cổ phiếu tự do không đúng luật và điều lệ mà công ty không kiểm soát được. Chưa có hướng dẫn quy chế tài chính, chính sách tiền lương nên nhiều doanh nghiệp vẫn vận dụng cơ chế chính sách của doanh nghiệp Nhà nước. Và thực tế nhiều doanh nghiệp không đủ kinh phí để giải quyết chính sách cho người lao động. Chính vì vậy số lượng lao động được giải quyết chế độ sau khi DNNN chuyển thành công ty cổ phần vẫn còn rất thấp. Đây cũng chính là một trong những rào cản chính trong tiến trình cổ phần hóa DNNN.
2.4. Sự chỉ đạo của các cấp còn thiếu sự kiên quyết và chưa sâu sát kịp thời, còn nặng về kêu gọi động viên chung chung, chưa đi sâu khảo sát tình hình, chưa xây dựng chương trình, đề án có căn cứ và khả thi cho từng doanh nghiệp cụ thể với tiến độ, lộ trình, bước đi. Chưa kiểm tra ,đánh giá và có biện pháp tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc phát sinh. Công tác tổng kết, đúc rút kinh nghiệm và nhân rộng những mẫu hình tiên tiến về cổ phần hóa ở các nghành địa phương chưa được quan tâm chỉ đạo tích cực, chưa có sức thuyết phục rộng rãi [PGS.TS Hồ Trọng Viên- những vấn đề đặt ra từ thực tiễn cổ phần hóa DNNN).
2.5. Công tác tuyên truyền, vận động cung cấp những kiến thức cần
thiết về quá trình cổ phần hóa vẫn còn bị xem nhẹ, nên chưa tạo ra được sự quan tâm hưởng ứng tích cực của xã hội. Một số cán bộ, công nhân chưa có được những hiểu biết cần thiết về công ty cổ phần do đó còn do dự, chưa thực sự ủng hộ và tham gia tích cực vào các công ty cổ phần nên đã gây ra những lãng phí đáng tiếc về nguồn lực, làm chậm tiến trình cổ phần hóa. Tỷ lệ bán cổ phần trong xã hội còn thấp và chưa thành quy định bắt buộc, cổ phần hóa còn mang tính nội bộ. Toàn bộ quá trình cổ phần hóa không được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, thiếu những quy định bắt buộc phải công bố công khai từng bước cổ phần hóa, nhất là đối với các doanh nghiệp có
nhiều lợi thế kinh doanh. Bên cạnh đó pháp luật còn khống chế tỷ lệ tối đa được mua cổ phần, đối với cá nhân là không quá5-10%, đối với pháp nhân không quá 10-20%. Đây chính là những hạn chế trong việc mua cổ phần của người lao động lẫn các cá nhân các tổ chức kinh tế, xã hội muốn đầu tư vào doanh nghiệp.
2.6. Những hạn chế, trì trệ từ phía các doanh nghiệp, nhiều giám đốc doanh nghiệp Nhà nước tìm cách né tránh, trì kéo cổ phần hóa vì sợ mất những đặc quyền , đặc lợi đang có. Nhiều công nhân không muốn cổ phần hóa vì nhiều rủi ro và dễ mất việc làm...Nhiều doanh nghiệp Nhà nước tuy đã được chỉ định cổ phần hóa nhưng đang rối bời bởi nợi phải trả, nợ khó đòi, kĩ thuật công nghệ lạc hậu, trình độ tổ chức quản lí còn nhiều yếu kém... nên chưa thể tiến hành cổ phần hóa được ngay. Các quy định về chế độ trách nhiệm cổ phần hóa còn nhiều bất cập...[PGS.TS Hồ TrọngViên-những vấn đề đặt ra từ thực tiễn cổ phần hóa DNNN].
Với tư cách là hình thức chuyến đổi sở hữu DNNN chủ yếu, việc cổ phần hóa
chậm đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình sắp xếp lai DNNN ở nước ta, ảnh hưởng không nhỏ tới những chỉ tiêu chung của nền kinh tế.
V). Mục tiêu của cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam.
Trong hơn 10 năm qua Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN. Trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, nền kinh tế còn nhiều khó khăn nhưng DNNN vẫn đứng vững, vượt qua nhiều thử thách góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, thể hiện là đầu tàu trong nền kinh tế quốc dân đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, chuyển sang thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau hơn 10 năm thực hiện thì cổ phần hóa DNNN được coi là hình thức chuyển đổi sở hữu chủ yếu, tính tất yếu của nó thể hiện ở lí luận, thực tiễn cũng như những kết quả khả quan mà giải pháp này đem lại, và trong nhiều năm tới thì giải pháp này vẫn là lựa chọn hàng đầu của nước ta. Nếu đặt giải pháp này trong bối cảnh hiện nay sẻ càng thấy rõ hơn tính cấp bách của nó. Sự cần thiết phải đẩy mạnh hơn nữa cổ phần hóa DNNN bắt nguồn từ những nguyên nhân chính sau:
Do nền kinh tế nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng kém phát triển nên áp lực cải cách DNNN trở nên nặng nề hơn, căn cứ vào tỷ lệ nghèo đói và các chỉ số phát triển khác thì nước ta vẫn nằm trong danh sách các quốc gia
chậm phát triển. Theo báo cáo phát triển thế giới thì Việt Nam đang nằm trong số các nước có thu nhập thấp với tổng thu nhấp quốc dân là 34,9 tỷ USD và bình quân đầu người là 430 USD.
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế bao trùm chi phối toàn bộ sự phát triển kinh tế –xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh hiện nay không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả các lĩnh vực liên quan đén chính sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hóa và dịch vụ, laọi bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại. đương nhiên đối với những nước đang phát triển, kinh tế còn yếu kém, doanh nghiệp còn nhỏ bé, sức cạnh tranh còn thấp, trình độ quản lí Nhà nước và kinh doanh còn hạn chế thì h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 099LV06.doc