Đề án Giải pháp đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật bản của công ty Mỹ nghệ xuất nhập khẩu và trang trí nội thất

MỤC LỤC

 

PHẦN I - MỞ ĐẦU 1

PHẦN II - NỘI DUNG 2

 

I-MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ 2

1.Đặc điểm hàng thủ công mỹ nghệ 2

2.Ý nghĩa của việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam 4

 

II-TỔNG QUAN VỀ NHU CẦU NHẬP KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ TRÊN THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN 5

1.Khái quát về thị trường Nhật Bản 5

2.Đặc tính và thái độ của người tiêu dùng Nhật Bản về hàng thủ công mỹ nghệ 7

3.Tập quán kinh doanh và những qui định về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường Nhật Bản 9

4.Điều cốt yếu dẫn đến thành công tại thị trường Nhật Bản về kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ 11

 

III-THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA CÔNG TY 13

1.Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty sang thị trường Nhật Bản 13

1.1.Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở nước ta 13

1.2.Tình hình hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty sang thị trường Nhật Bản 15

1.3.Hiệu quả hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty sang thị trường Nhật Bản 16

2.Đánh giá chung về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty 17

2.1.Những thành tựu mà công ty đạt được 17

2.2.Những mặt còn hạn chế của công ty 18

 

IV-MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA CÔNG TY SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN 20

1.Mục tiêu và phương hướng thực hiện của công ty trong thời gian tới 20

2.Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty sang thị trường Nhật Bản 22

2.1.Về phía Nhà nước. 22

a.Chính sách đối với các làng nghề. 22

b. Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường. 22

c.Chính sách đối với hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu tại chỗ. 23

d.Chính sách cung ứng nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. 23

e.Một số vấn đề về quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. 24

2.2.Về phía công ty. 24

a.Nâng cao chất lượng hoạt động tạo nguồn hàng thủ công mỹ nghệ 24

b.Đẩy mạnh công tác marketing. 27

c.Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty 30

d.Duy trì, củng cố mối quan hệ với các khách hàng truyền thống, đồng thời tích cực tìm kiếm bạn hàng mới 32

e.Hoàn thiện tốt công tác tổ chức trong công ty 33

Phần III- Kết luận 34

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1726 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật bản của công ty Mỹ nghệ xuất nhập khẩu và trang trí nội thất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thủ công mỹ nghệ của Việt nam phải kể đến EU. Kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang EU tăng khá nhanh, đây cũng là khu vực Việt nam thường xuất được nhiều loại hàng hoá thủ công mỹ nghệ và có nhiều triển vọng mở rộng, đẩy mạnh tiêu thụ một số loại hàng hoá có khả năng phát triển. Được đánh giá là một trong các thị trường trọng điểm cho đồ gỗ chế biến của Việt nam. Các mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ cũng là nhóm hàng đang được tiêu thụ mạnh sang thị trường này. Thông qua hội chợ Frankful hàng năm tại Đức, một số công ty của Việt nam đã thành công trong việc nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, ký được nhiều hợp đồng xuất khẩu hàng gốm sứ mỹ nghệ. Có thương nhân Đan Mạch đã chuyển toàn bộ đơn hàng gốm sứ từ các nước khác để tập trung đặt hàng tại Việt nam và hứa sẽ giúp đỡ đầu tư, mở rộng sản xuất, tăng lượng hàng cung ứng cho thị trường này lên 2-3 lần so với hiện nay. Cùng với gốm sứ của Đồng Nai, Bình Dương, Bát Tràng, từ năm 1998 đã có thêm sản phẩm của Vĩnh Long xuất khẩu mạnh sang khu vực Tây Bắc Âu. Bên cạnh đó các mặt hàng: mây, tre, hàng thêu ren... cũng xuất khẩu được sang khu vực này với khối lượng đáng kể. Thị trường Nga và các nước Đông Âu trong hơn 30 năm (từ 1955-1990) đã từng là thị trường chủ yếu tiêu thụ các sản phẩm thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt nam. Năm 1985, Việt nam đã đạt kim ngạch xuất khẩu cao nhất gần 250 triệu rúp/USD, hàng thủ công mỹ nghệ chiếm tỷ trọng tới 33,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trải qua một thời gian bị gián đoạn do biến động chính trị và kinh tế, trong mấy năm gần đây do cố gắng của các cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp, hàng xuất khẩu của Việt nam trong đó có hàng thủ công mỹ nghệ đã từng bước khôi phục được một phần xuất khẩu vào khu vực này. Đối với thị trường Bắc Mỹ, tuy trước mắt lượng hàng thủ công mỹ nghệ của Việt nam xuất khẩu chưa lớn nhưng triển vọng thì rất nhiều. Thị trường Mỹ có nhu cầu rất lớn về hàng gốm sứ và hầu như không sản xuất hai loại hàng này. Hiện nay, thuế nhập khẩu loại hàng này vào Mỹ theo chế độ MNF là khá cao nhưng Việt nam vẫn xuất khẩu được một số chủng loại gốm sứ vào Mỹ (năm 1998 kim ngạch xuất khẩu là 2,5 triệu USD). Dung lượng thị trường này là rất lớn đối với hàng mỹ nghệ, nếu có sự nắm bắt thị hiếu và có sự chuẩn bị cần thiết thì khi được hưởng mức thuế nhập khẩu MNF như hàng nhập khẩu của Trung Quốc thì Việt nam có thể xuất khẩu loại hàng này vào đây với kim ngạch hàng trăm triệu mỗi năm. Ngoài ra thị trường Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc và Trung Đông cũng là những thị trường nhập khẩu nhiều hàng thủ công mỹ nghệ của Việt nam. Đối với thị trường Nhật Bản: Nhật Bản là thị trường gần và có nhu cầu lớn về nhiều loại hàng xuất khẩu của Việt nam và nếu xét theo từng nước (không theo khu vực thị trường) thì Nhật Bản là nước xuất khẩu lớn nhất của Việt nam. Người Nhật Bản có nhu cầu khá lớn về đồ gỗ. Hàng năm Việt nam xuất khẩu sang Nhật Bản khoảng 60 triệu USD đồ dùng gia đình, trong đó chủ yếu là đồ gỗ và xuất khẩu những mặt hàng này vào Nhật Bản chưa phải gặp những quy định ngày càng khắt khe như EU và Mỹ về bảo vệ rừng. Bên cạnh đó thị trường Nhật Bản còn có nhu cầu lớn về hàng gốm sứ, những năm gần đây Nhật Bản nhập khẩu đồ gốm sứ tăng 12% nhưng thị phần gốm sứ của Việt nam còn khá nhỏ bé. Ngoài ra còn có một số loại hàng như: thảm len, đồ nội thất bằng mây tre, khăn bông và một số hàng tạp phẩm khác,... Để đẩy mạnh xuất khẩu các loại hàng hoá này vào thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp cần được các cơ quan xúc tiến thương mại cung cấp thông tin về thị trường và phải có phương thức, kênh bán hàng phù hợp. Tham gia giới thiệu các sản phẩm phù hợp với thị hiếu của người Nhật Bản tại trung tâm “Việt nam Square“ tại OSAKA, tham gia các chương trình hỗ trợ của văn phòng đại diện tổ chức xúc tiến thương mại, hội chợ triển lãm giới thiệu sản phẩm tổ chức tại Nhật Bản định kỳ hàng năm. 1.2.Tình hình hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty sang thị trường Nhật Bản. Điều đầu tiên có thể nói về mối quan hệ giữa công ty và Nhật Bản đó là Nhật Bản vừa là bạn hàng, vừa là đối tác làm ăn của công ty trên nhiều lĩnh vực. Nhờ có mối quan hệ như thế nên công ty cũng có nhiều thuận lợi khi thâm nhập vào thị trường Nhật Bản so với các thị trường khác. Hiện nay công ty có hai khách hàng truyền thống tại thị trường Nhật Bản, nhờ có sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau nên hai bên thường thanh toán cho nhau bằng phương thức chuyển tiền bằng điện, có khi phía Nhật Bản dùng phương thức thanh toán trước, cấp tín dụng để công ty có vốn sản xuất. Kim ngạch xuất khẩu của công ty sang Nhật Bản luôn chiếm tỷ trọng cao nhất so với các nước khác mà công ty xâm nhập, hơn nữa kim ngạch xuất khẩu của công ty còn có tốc độ tăng nhanh từ năm này qua năm khác. Đặc biệt là năm 2000, kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản của công ty là hơn 1 tỷ đồng, chiếm 33,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty và vượt năm 1999 hơn 400 triệu. Có được con số này là nhờ hai nguyên nhân chính sau: + Nguyên nhân khách quan: Năm 2000 nền kinh tế Nhật Bản đã có những bước phục hồi so với các năm trước vì thế nhu cầu tiêu dùng của người Nhật Bản tăng lên, trong đó có nhu cầu hàng thủ công mỹ nghệ: gỗ, gốm sứ, quà lưu niệm,... Gần đây người Nhật Bản đang có trào lưu chuộng hàng Việt Nam, người ta gọi rằng đây là sự bùng nổ hàng Việt Nam ở Nhật Bản. + Nguyên nhân chủ quan: Nhờ có các bạn hàng từ phía Nhật Bản cung cấp nhanh nhạy và khá chính xác các thông tin về thị trường Nhật Bản. Công ty cũng đã nỗ lực sáng tạo, tìm kiếm thêm nhiều mẫu mã mới, có những mẫu hàng chỉ sản xuất riêng cho thị trường Nhật Bản: Bộ người mang phong cách đặc trưng của người Nhật Bản, thiếu nữ Nhật Bản mặc áo kimônô. Mặt khác, sau hơn 3 năm xâm nhập thị trường Nhật Bản thì một số bạn hàng ở Nhật Bản đã có lòng tin đối với các sản phẩm và khả năng của công ty nên tăng số đơn đặt hàng lên. Một yếu tố khác không kém phần quan trọng là vào tháng 4 năm 2000, công ty được Tổ chức xúc tiến thương mại chọn là một trong những công ty của Việt Nam tham dự hôị chợ triển lãm tại “ Square “ ở OSAKA, có sự hỗ trợ kinh phí về tổ chức. Có thể nói đây là một cơ hội rất lớn đối với một công ty nhỏ như Công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất vì đây là cơ hội để công ty được tiếp xúc trực tiếp với khách hàng Nhật Bản và các nhà phân phối, các thương nhân Nhật Bản. Sau hội chợ triển lãm, công ty đã có thêm nhiều hợp đồng lâu dài với các doanh nghiệp Nhật Bản. Các mặt hàng chủ yếu của công ty xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản: gốm sứ mỹ nghệ, hàng tạp phẩm, gỗ mỹ nghệ, mây tre đan. Công ty xuất khẩu sang Nhật Bản với hai hình thức chính là xuất khẩu trực tiếp và uỷ thác xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu trực tiếp chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. So với hình thức xuất khẩu gián tiếp, hình thức này thường có lợi nhuận cao hơn và giá cả ổn định hơn. Các mặt hàng xuất khẩu dưới hình thức này là gốm sứ mỹ nghệ, gỗ mỹ nghệ và phần lớn các mặt hàng tạp phẩm. Hình thức xuất khẩu gián tiếp chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty, các sản phẩm được xuất khẩu dưới hình thức này là mây tre đan và một phần nhỏ hàng tạp phẩm. Từ những phân tích trên ta thấy, Nhật Bản là một thị trường lớn của công ty không những trong hiện tại mà hy vọng trong cả tương lai. 1.3. Hiệu quả hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty sang thị trường Nhật Bản Có thể nói Nhật Bản là một thị trường khó tính nhất và cũng khó xâm nhập nhất của phần lớn công ty nào muốn xâm nhập vào đó. Đối với công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất, trước khi đi vào sản xuất công ty đã xác định Nhật Bản là thị trường mục tiêu quan trọng vì dù sao Nhật Bản cũng là một nước Châu á, có vị trí địa lý khá thuận lợi cho việc vận chuyển, lưu thông hàng hoá. Văn hoá Nhật Bản mang đậm phong cách á Đông và có nhiều nét tương đồng với Việt Nam. Quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản gần đây có nhiều dấu hiệu tích cực và quan trọng hơn là thị trường Nhật Bản đang có nhu cầu lớn về hàng thủ công mỹ nghệ - mặt hàng mà công ty sản xuất và kinh doanh. Vì Nhật Bản là một thị trường khó tính nên công ty rất thận trọng trong tất cả các khâu xuất khẩu hàng hoá sang Nhật Bản. Bằng những nỗ lực của các cán bộ, công nhân công ty, từ khi thành lập đến nay, đặc biệt là 2 năm gần đây hoạt động xuất khẩu của công ty sang thị trường Nhật Bản đã đạt được những hiệu quả đáng khích lệ. Kim ngạch xuất khẩu của công ty không ngừng tăng lên, tạo công ăn việc làm thường xuyên và ổn định cho cán bộ công nhân viên trong công ty. Ta có thể thấy rõ hơn kết quả kinh doanh của công ty qua các năm qua bảng sau: Bảng: Hiệu quả xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật Bản Đơn vị: 1000đ STT Chỉ tiêu 1998 1999 2000 1 Tổng doanh thu 560.100 689.260 1.010.000 2 Tổng chi phí 546.260 657.660 946.947 3 Tổng lợi nhuận 13.840 29.600 63.026 4 Vốn kinh doanh 720.230 900.760 1.120.950 5 Lợi nhuận/chi phí 2,53 4,50 6,33 6 Lợi nhuận/vốn 1,87 3,29 5,62 2. Đánh giá chung về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty 2.1. Những thành tựu mà công ty đã đạt được 2.1.1. Những thành tựu đạt được: Trong thời gian qua công ty đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ, cụ thể là: -Từ một xí nghiệp hoạt động cầm chừng, các công nhân có khi phải nghỉ việc không lương kéo dài, hoạt động của công ty có khi phải được Tổng công ty bù lỗ thì đến nay đã trở thành công ty làm ăn có lãi và lãi suất của công ty đã không ngừng tăng lên trong các năm: năm 1998 là hơn 120 triệu, năm 1999 là hơn 200 triệu, năm 2000 là hơn 350 triệu, đây là một con số tương đối lớn. -Hiện nay công ty đã xâm nhập được 7 thị trường khác nhau trên thế giới, đó là: Nhật Bản, Đài Loan, Đức, Pháp, ý, Nga, Tiệp Khắc. Mặc dù còn có nhiều khó khăn, trở ngại vì vốn ít, mới thành lập nên chưa có tiếng tăm, uy tín nhưng công ty đã có cố gắng lớn để trụ vững, ổn định và tạo hướng đi lên nhằm nâng kim ngạch xuất khẩu và đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. -Sản phẩm của công ty ngày càng đa dạng, phong phú và có tính thẩm mỹ cao. -Trước đây công ty còn dựa vào mẫu mã của nước khác và các nhà sản xuất khác trong nước thì đến nay công ty đã có những mẫu mã hoàn toàn mới cho riêng mình, do phòng mẫu của công ty sáng tạo ra. Những sản phẩm của công ty không những đẹp, có thể dùng làm vật trang trí mà còn có thể sử dụng như móc treo, dĩa hoa quả, giá nến, giá để rượu,... Mỗi thị trường đều có những sản phẩm đặc trưng: bộ đồ thiếu nữ mặc kimônô cho thị trường Nhật Bản, các bộ hoa quả nhỏ cho thị trường Đài Loan, bộ đồ magnet cho thị trường Đức. -Năng suất hoạt động của công ty không ngừng tăng lên, đặc biệt là ở khâu sản xuất, đây là khâu quan trọng nhất vì nó tạo ra chất lượng sản phẩm, cấu thành giá cả hàng hoá. Để nâng cao tay nghề của người công nhân, công ty tổ chức các cuộc thi tay nghề hàng năm. Những người có điểm tay nghề cao sẽ được xét thưởng, tăng lương và ký hợp đồng dài hạn, đây là một phương pháp rất có hiệu quả. 2.1.2. Nguyên nhân Những năm gần đây, đặc biệt là sau khủng hoảng kinh tế năm 1997 nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng cao, trong đó có nhu cầu tiêu dùng hàng thủ công mỹ nghệ và đồ trang trí nội thất. Bên cạnh đó ngành sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ xuất khẩu đang được chính phủ đưa vào ngành chú trọng quan tâm với các chính sách ưu đãi đặc biệt. Vì thế không chỉ riêng Công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất mà hầu hết các công ty kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ những năm gần đây đều gặp nhiều thuận lợi và đạt được hiệu quả cao. Công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất được Tổng công ty thương mại và xây dựng (VIETRACIMEX) hỗ trợ giúp đỡ nhiều về vốn, cơ sở hạ tầng, nhà xưởng, khách hàng, đặc biệt là trung tâm Việt-Nhật đã cung cấp cho công ty nhiều thông tin về khách hàng, thị trường Nhật Bản. Thêm vào đó, công ty có đội ngũ cán bộ, đặc biệt là ban lãnh đạo công ty có năng lực, mạnh dạn đầu tư trên nhiều lĩnh vực, mở thêm nhiều xưởng sản xuất các mặt hàng mà thị trường đang có nhu cầu. Các cán bộ, công nhân viên trong công ty ý thức được những khó khăn ban đầu của công ty nên ra sức tiết kiệm, nhiệt tình sáng tạo. Có thể nói đây là một ưu điểm quan trọng trong cơ chế hiện nay. 2.2. Những mặt còn hạn chế của công ty 2.2.1. Những mặt còn hạn chế của công ty: -ở khâu sản xuất: + Các sản phẩm của công ty còn hạn chế về kiểu dáng, mẫu mã, các mẫu mã của công ty còn phụ thuộc nhiều vào các mẫu mã của các nhà sản xuất khác trong và ngoài nước, hoăc theo mẫu của phía đặt hàng. Những mẫu hàng riêng của công ty còn ít do đó chưa phát huy được hết lợi thế của mình và khó cạnh tranh trên thị trường. + Quá trình sản xuất chưa phát huy hết công suất vì phải phụ thuộc vào phía đối tác, đơn đặt hàng. Thêm vào đó là cơ sở và điều kiện sản xuất còn quá sơ sài. -ở khâu đóng hàng: Khâu đóng hàng chưa được chú trọng đúng mức, việc đóng hàng đôi khi chưa thật khoa học gây gãy, vỡ, xước, sản phẩm trong quá trình vận chuyển. Mặt khác, nhiều sản phẩm chưa được gắn bao bì, nhãn mác riêng của công ty nên gây bất tiện cho người tiêu dùng trong việc chọn lựa. -ở khâu tiêu thụ sản phẩm: Chiến lược marketing của công ty còn yếu, chưa chú trọng đúng mức vào lĩnh vực này. Công ty chưa có cán bộ chuyên trách về lĩnh vực marketing nên việc nghiên cứu nhu cầu thị trường chưa đi vào thực tế đối với từng loại sản phẩm của công ty. -Về hình thức xuất khẩu: Công ty đã coi trọng hình thức xuất khẩu trực tiếp nhưng tỷ trọng loại hình này còn chưa cao. Với hình thức xuất khẩu gián tiếp, công ty không những bị thua thiệt về mặt lợi nhuận mà đôi khi còn bị ép giá do đó hiệu quả thường không cao. 2.2.2. Nguyên nhân: -Những năm gần đây số lượng các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng nhiều tạo nên sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty trong và ngoài nước. Đây là một trở ngại cho công ty trong việc ổn định và mở rộng thị trường xuất khẩu. -Mặc dù được nhà nước khuyến khích ưu đãi cho mặt hàng truyền thống nhưng vì chính sách chung về thuế của nhà nước vẫn còn nhiều bất cập, cơ cấu thuế phức tạp nên một số mặt hàng nhập khẩu của công ty bị đánh thuế cao gây ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh và lợi nhuận của công ty. Bên cạnh đó cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu còn khá cứng nhắc, thủ tục còn rườm rà gây phiền hà, mất thời gian và nhiều khi bỏ lỡ cơ hội kinh doanh của công ty. Công ty phải vay vốn với lãi suất cao, trong thời gian ngắn nên thường bị động trong kinh doanh. -Công tác nghiên cứu thị trường chưa được chú trọng, vì thế chưa đánh giá được dung lượng của thị trường nước ngoài, nhu cầu của khách hàng nên kim ngạch xuất khẩu sang thị trường nước ngoài đang còn thấp. Công ty chỉ chú trọng việc mở rộng thị trường mà không thâm nhập sâu, đánh giá kỹ từng khu vực thị trường, do đó nhiều đoạn thị trường đã bị mất. -Mặc dù nhu cầu sử dụng hàng thủ công mỹ nghệ không phải là nhỏ song nó không phải là mặt hàng thiết yếu. Đời sống của người dân càng cao họ càng khó tính trong việc lựa chọn mặt hàng này. Đòi hỏi các sản phẩm thủ công mỹ nghệ phải đa dạng về chủng loại, phong phú về màu sắc, đặc biệt phải có những nét độc đáo mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, nhiều sản phẩm xuất khẩu phải có sự kết hợp hài hoà giữa văn hoá phương tây với văn hoá phương đông, nhiều khi phải mang đậm văn hoá của thị trường xâm nhập. Công ty vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu đó, nguyên nhân chủ yếu là công ty chưa chủ động đưa ra các biện pháp marketing cần thiết để tìm hiểu thị trường như: Chưa sáng tạo trong sản xuất, nghiên cứu sản phẩm mới. IV.một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty sang thị trường Nhật Bản. 1.Mục tiêu và phương hướng thực hiện của công ty trong thời gian tới. 1.1. Mục tiêu: Nhu cầu về hàng thủ công mỹ nghệ ở thị trường Nhật Bản nói riêng và thị trường thế giới nói chung ngày càng tăng. Tuy nhiên việc phát hiện và nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của mỗi khu vực thị trường đối với từng loại sản phẩm là công việc khó khăn và thường tốn kém, đây là vấn đề đặt ra cho tất cả các công ty sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. Riêng đối với công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất, mục tiêu mà họ đặt ra trong năm tới là: -Tổng doang thu đạt: 10 tỷ đồng. Trong đó: + Sản xuất đạt: 4 tỷ đồng + Thương mại dịch vụ: 6 tỷ đồng -Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt: 8,5 tỷ đồng -Mở rộng thị trường sang các nước: Hàn Quốc, Anh, Canada, ôxtrâylia. -Tiếp tục mở rộng sản xuất kinh doanh thêm nhiều mặt hàng, đa dạng về mẫu mã và kiểu dáng. -Quan tâm nhiều hơn đến công tác đời sống, phúc lợi của cán bộ công nhân viên trong công ty. Thúc đẩy phong trào thi đua lao động giỏi, lao động xuất sắc. 1.2. Phương hướng thực hiện của công ty trong thời gian tới: Để đạt được những mục tiêu trên không phải là vấn đề đơn giản của công ty. Để làm được điều này, công ty đã vạch ra các phương hướng và kế hoạch thực hiện như sau: 1.2.1.Về công tác sản xuất: -Tiếp tục mở rộng sản xuất với qui mô vừa và nhỏ. Sản xuất nhiều mặt hàng hơn với mẫu mã đẹp, kiểu dáng phong phú. Đặc biệt là với xưởng sản xuất búp bê vải và xưởng gỗ mỹ nghệ, sản phẩm của hai phân xưởng này đều có khả năng xuất khẩu lớn, trong đó thị trường trọng yếu là Nhật Bản. Để làm được điều này đòi hỏi người thiết kế mẫu phải năng động, sáng tạo hơn trong công việc tìm kiếm Mẫu mã. -Phải phát huy tối đa năng suất lao động ở các xưởng sản xuất. Để làm được điều này đòi hỏi công ty phải thực hiện tốt hơn các khâu cung cấp vật tư, nguyên vật liệu, kiểm tra chặt chẽ các khâu sản xuất, có chính sách khuyến khích công nhân làm việc đạt hiệu quả cao nhất. Cụ thể: + Thực hiện thống kê ngay tại xưởng, thống kê về mặt nhân lực, thu nhập, ngày công. Từ đó làm cơ sở cho việc bình bầu, xét duyệt, khiển trách, khen thưởng. + Mở sổ theo dõi vật tư, công cụ, dụng cụ tại xưởng. + Tiếp tục tổ chức thi tay nghề ở các bộ phận còn lại để kiểm tra tay nghề của công nhân và xếp lương khoán cho từng bộ phận. + Tổ chức thi thợ giỏi. -Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, đặc biệt là các thị trường xuất khẩu bằng cách tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ với các khách hàng nước ngoài truyền thống. Để làm được điều này thì bên cạnh việc phải giao hàng đúng yêu cầu về chất lượng, giá cả, mẫu mã, màu sắc, kiểu dáng, đúng thời hạn, giá cả hợp lý ... công ty còn có thể có các chánh sách ưu tiên như: hạ giá, khuyến mại.Để có thêm nhiều khách hàng mới công ty phải đẩy mạnh hơn nữa khâu tiếp thị hàng hoá, tham dự thêm nhiều hội chợ triển lãm, đặc biệt là các hội chợ quốc tế. -Mở rộng hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực: Đầu tư kinh doanh kho bãi, đẩy mạnh công tác xuất nhập khẩu, thương mại và xây dựng (kinh doanh xuất nhập khẩu các thiết bị giao thông vận tải, dịch vụ vận tải). -Đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu, áp dụng linh hoạt các hình thức xuất khẩu trong kinh doanh đồng thời chú trọng đến việc nâng cao tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu trực tiếp. -Mở rộng liên doanh, liên kết với các cơ sở làm ăn có uy tín, kinh nghiệm trong sản xuất để cùng sản xuất hàng xuất khẩu, do đó có thể chủ động trong việc đảm bảo hàng xuất khẩu. 1.2.2. Về công tác tổ chức: Công tác tổ chức, sắp xếp cán bộ được đưa lên hàng đầu. Muốn phát triển cần phải có bộ máy lãnh đạo và hệ thống quản lý hoàn chỉnh: -Sắp xếp và kiện toàn lại các vị trí lãnh đạo và hệ thống cán bộ phòng ban có nghiệp vụ giỏi. -Lựa chọn các cán bộ có năng lực, trách nhiệm và có đạo đức phẩm chất tốt vào các vị trí then chốt. -Tiếp tục mở rộng tổ chức công ty, thành lập các xí nghiệp trung tâm với qui mô gọn nhẹ nhưng hiệu quả. -Xét duyệt ký hợp đồng lao động ngắn hạn, dài hạn cho cán bộ công nhân viên trong công ty. -Triệt để tiết kiệm chi phí quản lý doanh nghiệp. -Thường xuyên tổ chức vận động, bồi dưỡng, giáo dục cán bộ công nhân viên toàn công ty có ý thức trách nhiệm và tinh thần tập thể. 2.Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty sang thị trường Nhật Bản. 2.1.Về phía nhà nước. Hàng thủ công mỹ nghệ hiện nay được Nhà nước xếp vào danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Để thúc đẩy cũng như đảm bảo cho các mặt hàng chủ lực được phát triển một cách bền vững, Nhà nước đã đề ra các chính sách nhằm hỗ trợ, khuyến khích các mặt hàng xuất khẩu chủ lực nói chung và mặt hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng phát triển. Cụ thể : a.Chính sách đối với các làng nghề. Nghề thủ công truyền thống của Việt Nam được duy trì và phát triển chủ yếu là ở các làng nghề. Để các ngành, nghề thủ công truyền thống, các làng nghề duy trì và phát triển hoạt động sản xuất-kinh doanh, Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ, chủ yếu tập trung trên các mặt sau : Đối tượng được hưởng các chính sách khuyến khích, ưu đãi của Nhà nước là các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh được thành lập theo pháp luật. Vì vậy, các làng nghề phải thông qua các đơn vị sản xuất-kinh doanh của mình để tranh thủ khai thác các chính sách khuyến khích ưu đãi hiện hành của Nhà nước cũng như các chính sách sẽ được ban hành trong tương lai. Cần phân loại làng nghề với những tiêu chí phù hợp, trong đó làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống được khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ với mức cao hơn. b.Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu. Do đặc điểm và khó khăn trong sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ như : cơ sở sản xuất kinh doanh các loại hàng này chủ yếu là các đơn vị nhỏ, vốn ít, hàng hoá thường là loại kồng kềnh, giá trị thấp, không dễ bán và vận chuyển, giao hàng.. Vì Vậy Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ một phần chi phí xúc tiến thương mại, tiếp thị mở rộng thị trường xuất khẩu. Việc hỗ trợ này có thể thực hiện trực tiếp đối với các doanh nghiệp từ một trung tâm xúc tiến thương mại hoặc thông qua các công ty quốc doanh được giao nhiệm vụ tổ chức tham gia các hội chợ , triển lãm quốc tế. Cần thành lập thêm một số trung tâm xúc tiến thương mại tại một số nơi ở nước ngoài tương tự như “ Việt nam Square “ tại Osaka , Nhật Bản .. Các trung tâm này có các gian hàng cho các doanh nghiệp trong nước thuê để trưng bày chào bán hàng xuất khẩu với giá khuyến khích. Riêng hàng thủ công mỹ nghệ thì được miễn phí. Đồng thời Nhà nước đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư xây dựng hai trung tâm lớn trong nước chuyên để trưng bày , giao dịch mua bán và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Cần vận dụng linh hoạt các phương thức bán hàng để mở rộng thị trường xuất khẩu. Để đáp ứng yêu cầu của khách hàng, góp phần thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, Nhà nước cần cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu các loại hàng này theo phương thức bán hàng trả chậm, phương thức gửi bán hoặc đại lý bán hàng ở nước ngoài, có sự bảo lãnh tín dụng xuất khẩu của Ngân hàng hoặc Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. c. Chính sách đối với hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu tại chỗ. Hiện nay một phần đáng kể hàng thủ công mỹ nghệ được bán cho khách nước ngoài, chủ yếu là khách du lịch tại các cửa hàng miễn thuế thu ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc bán thu bằng đồng Việt nam. Nguồn thu về du lịch quốc tế của ta ngày càng lớn thì hàng thủ công mỹ nghệ cung ứng cho nhu cầu này ngày càng nhiều dưới dạng các vật phẩm tiêu dùng hoặc các vật lưu niệm. Vì Vậy, Nhà nước cần chính thức công nhận hàng hoá sản xuất trong nước tiêu thụ theo phương thức nêu trên là hàng xuất khẩu tại chỗ và có chính sách khuyến khích thích hợp. d. Chính sách cung ứng nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ khắc phục một số khó khăn hiện nay trong việc tiếp cận nguồn nguyên liệu khai thác trong nước, nhất là một số nguyên liệu như gỗ, mây, tre, lá,..thì cần áp dụng một số chính sách-biện pháp sau : _Đối với gỗ nguyên liệu khai thác từ rừng tự nhiên được các Bộ, ngành và uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giao hạn mức cho các doanh nghiệp, đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh sản phẩm gỗ mỹ nghệ thuộc ngành, địa phương mình quản lý, đề nghị ưu tiên giao hạn mức cho các đơn vị có hợp đồng xuất khẩu sản phẩm gỗ mỹ nghệ và cải tiến thủ tục giao hạn mức để tránh phiền hà đối với doanh nghiệp. _Đối với các nguyên liệu khác như song mây, tre, lá,.. thì Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ các dự án đầu tư xây dựng vùng trồng nguyên liệu phục vụ xuất khẩu. Nhà nước tổ chức , xây dựng ngành công nghiệp khai thác và xử lý nguyên liệu để cung ứng cho các cơ sở sản xuất hàng xuất khâủ như nguyên liệu gỗ , nguyên liệu cho các ngành sản xuất gốm sứ .. Vì các cơ sở sản xuất thường không đủ khả năng vốn và kỹ thuật để đầu tư xây dựng công nghiệp naỳ. e. Một số vấn đề về quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. Chính phủ cần thành lập một tổ chức chuyên trách việc quản lý và hỗ trợ nhằm phát triển các ngành nghề thủ công mỹ nghệ. Tổ chức đó có thể là : “Trung tâm hỗ trợ phát triển ngành nghề truyền thống” trực thuộc Bộ công nghiệp hoặc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, hoặc một trung tâm hoạt động độc lập theo sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ. Cùng với việc tổ chức các cơ quan chuyên trách của Nhà nước, đề nghị sớm cho thành lập các Hiệp hội ngành thủ công mỹ nghệ nhằm tăng cường sự phôi hợ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35222.doc
Tài liệu liên quan