Mục lục
Lời mở đầu.1
I. Vai trò của các doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế Việt Nam. 2
1.Doanh nghiệp tư nhân là một trong các thành phần kinh tế cơ bản của nước ta. 2
1.1.Khái niệm về doanh nghiệp tư nhân.2
1.2.Vị trí của các doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế quốc dân.3
2.Vai trò của các doanh nghiệp tư nhân.4
2.1. Góp phần huy động mọi nguồn lực phát triển kinh tế .4
2.2. Doang nghiệp tư nhân phát triển góp phần vào việc tăng trưởng nền kinh tế
nền kinh tế cân đối nhộn nhàng và năng động hơn.5
2.3. Giải quyết việc làm cho một lượng lớn lao động. 5
2.4. Kinh doanh hiệu quả trên nhiều lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác
làm không có hiệu quả.6
2.5. Góp phần đào tạo bồi dưỡng đội ngũ doanh nhân mới trong kinh tế thị trường.6
II. Thực trạng phát triển của các doanh nghiệp tư nhân.6
1.Thực trạng về trình độ quản trị của các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực doanh nghiệp tư nhân.11
2.Tình trạng công nghệ - thiết bị.12
3.Khả năng huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp dân doanh.12
4.Thực trạng về thị trường của các doanh nghiệp tư nhân nước ta.14
III. Một số giải pháp phát triển của các doanh nghiệp tư nhân.15
1.Hoàn thiện hành lang pháp luật quy định của nhà nước.15
2.Khắc phục tình trạng quản lý chồng chéo, nặng lề thủ tục hành chính.16
3.Có chính sách phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường nhân tố sản xuất.16
4.Hoàn thiện các chính sách khuyến khích, hỗ trợ hữu hiệu đối với các doanh
nghiệp.18
Kết luận.28
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông nghiệp kích thích việc tận dụng đất đai quy hoạch và trồng các cây công nghiệp có giá trị cao phù hợp với từng vùng. Việc xây dựng các nhà máy chế biến thuỷ hải sản góp phần kích thích tiềm năng to lớn của biển, vùng nước ven bờ để nuôi trồng thuỷ sản. Sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân trong nhiều lĩnh vực góp phần khơi dậy và khai thác có hiệu quả nguồn taì nguyên phong phú của quốc gia.
2.2 Doanh nghiệp tư nhân phát triển đóng góp vào việc tăng trưởng kinh tế, nền kinh tế cân đối nhịp nhàng và năng động hơn
Doanh nghiệp tư nhân đa số là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và chiếm một tỷ lệ lớn trong số các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta. Mỗi năm đóng góp khoảng 23 - 24 % GDP của cả nước, khoảng 25% giá trị sản lượng công nghiệp. Xét về tương quan giữa giá trị tài sản cố định với doanh thu để xem xét hiệu quả sử dụng động vốn, có thể thấy sử dụng vốn ở các doanh nghiệp tư nhân đang rất khả quan. Để tạo ra được một đồng doanh thu các doanh nghiệp nhà nước phải mất từ 0,22 đến 0,562 đồng vốn cố định trong khi các doanh nghiệp tư nhân chỉ mất 0,188 đến 0,197 đồng vốn cố định. Hiệu quả đồng vốn của các doanh nghiệp tư nhân là rất rõ rệ góp phần vào hiệu quả chung của nền kinh tế.
Đảm bảo cho nền kinh tế cân đối nhịp nhàng và năng động hơn. Đa số doanh nghiệp tư nhân ở nước ta hiện nay có vốn ít, quy mô nhỏ và vừa do vậy có nhiều khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất thay đổi công nghệ làm cho nền kinh tế năng động hơn.
Các doanh ngghiệp tư nhân có tính nhạy cảm rất cao nắm bắt nhu cầu của thị trường, điều chỉnh sản xuất từ các ngành bão hoà dư thừa sang các ngành khác có tiềm năng tạo ra sự cân đối nhịp nhàng trong nền kinh tế. Doanh nghiệp tư nhân đa số là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên nó có vai trò “là chiếc đệm giảm sóc của thị trường, là vệ tinh của các doanh nghiệp lớn, là doanh nghiệp đánh nhanh chuyển hướng nhanh”
Doanh nghiệp tư nhân có thể phát huy mọi tiềm lực của thị trường trong nước và ngoài nước (cả thị trường ngách) dễ dàng tạo ra sự phát triển cân bằng giữa các vùng trong cả nước.
2.3 Giải quyết việc làm cho một lực lượng lớn lao động
Đây là thế mạnh của các doanh nghiệp tư nhân là nguyên nhân chủ yếu khiến chúng ta ngày càng quan tâm phát triển doanh nghiệp tư nhân ở nước ta
Số người không có việc làm thường xuyên của cả nước là khoảng 8,5 triệu người (số liệu năm 1998). Theo dự báo, từ nay đến năm 2010 mặc dù dân số có thể tăng chậm lại nhưng nguồn lao động của nước ta vẫn tăng nhanh liên tục đòi hỏi giải quyết việc làm hết sức khẩn trương. Sức ép của dân số và lao động lên đất đai, việc làm ở nông thôn chính là nguyên nhân của dòng di dân từ nông thôn ra thành thị. Vì vậy việc phát triển các doanh nghiệp tư nhân thuộc các ngành nghề có thế mạnh ở địa phương góp phần giải quyết việc làm, hình thành lên các khu vực sản xuất tập trung góp phần hình thành các đô thị nhỏ, xây dựng nông thôn mới.
Khu vực doanh nghiệp tư nhân hiện thu hút khoảng gần 10% lực lượng phi nông nghiệp của cả nước, nhưng triển vọng thu hút thêm lao động là lớn vì xuất đầu tư cho một chỗ việc làm ở các doanh nghiệp tư nhân thấp hơn so với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Lượng vốn trung bình cho mỗi chỗ việc làm của doanh nghiệp tư nhân là 35 triệu đồng và trong công ty trách nhiệm hữu hạn 45 triệu đồng trong khi lượng vốn trung bình cho một chỗ việc làm ở doanh nghiệp nhà nước là 87,5 triệu đồng. Các doanh nghiệp tư nhân ở các vùng trong cả nước có lợi thế để tiếp nhận số lao động mới bước vào độ tuổi lao động, đồng thời còn tiếp nhận ở các doanh nghiệp nhà nước dôi ra qua việc cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê, phá sản doanh nghiệp này đang được triển khai.
2.4 Kinh doanh hiệu quả trên nhiều lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác làm không có hiệu quả
Điều này được thể hiện rõ nhất trong các ngành dịch vụ thương mại như du lịch, dịch vụ giải trí, thương mại bán lẻ và bán buôn. Nhờ tận dụng được lợi thế so sánh của mình so với doanh nghiệp nhà nước như: Linh hoạt trong việc tuyển dụng lao động và tiền lương, tận dụng được cơ sở vật chất, bộ máy quản lý gọn nhẹ làm giảm chi phí sản xuất, dịch vụ tạo ra lợi thế cạnh tranh về giá với các thành phần kinh tế khác, nó đã chiếm lĩnh thị trường trong các ngành này.
2.5 Góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện trong thực tế một đội ngũ doanh nhân mới trong nền kinh tế thị trường
Trong thực tế phần lớn doanh nghiệp tư nhân là những doanh nghiệp nhỏ và vừa phù hợp với khả năng kinh doanh, nhưng cũng có doanh nghiệp phát triển lên thành các doanh nghiệp có quy mô lớn có số vốn hàng trăm tỷ đồng và hàng nghìn lao động. Đã có những gương doanh nhân thành đạt xuất pháp từ những công việc rất đơn giản. Dù ở quy mô nào doanh nghiệp tư nhân cũng vẫn là những vườn ươm nhân tài. Đây chính là những hạt nhân quan trọng đưa nước ta hội nhập chủ động vào nền kinh tế thế giới, góp phần vào tăng trưởng trung của nền kinh tế nước nhà.
II.Thực trạng phát triển của các doanh nghiệp tư nhân ở nước ta hiện nay
1 Thực trạng về trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực doanh nghiệp tư nhân
Trình độ quản trị phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, khả năng hoạch định chiến lược và kế hoạch kinh doanh, kinh nghiệm quản lý.
Về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn, phần đông những nhà doanh nghiệp tư nhân thiếu trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, thiếu kiến thức về kinh tế thị trường, hạn chế về sự hiểu biết pháp luật và nghệ thuật kinh doanh. Kết quả điều tra năm 2000 cho thấy các doanh nghiệp có trình độ đại học chiếm 22,2%, trình độ cấp III là 33,3%, cấp II là 44,5%. Có trình độ chuyên môn trung cấp và đại học chiếm 30,6%, là thợ kỹ thuật hoặc có bằng sơ cấp chuyên môn là 14,9%, số có tay nghề gia truyền là 8,5% ; số qua kinh nghiệm thực tiễn là 41,5%, số chưa qua trường lớp đào tạo quản lý chiếm 69,5%; số có kiến thức quản lý được đào tạo từ 3 tháng trở lên chiếm 19,4%. Đây là một hạn chế không dễ khắc phục một sớm một chiều và điều này còn ảnh hưởng lớn đến sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp tư nhân.
Khả năng hoạch định chiến lược và kế hoạch kinh doanh, xuất phát từ những hạn chế trên về trình độ học vấn và chuyên môn nó cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hoạch định chiến lược và kế hoạch kinh doanh – một yếu tố quan trọng trong quản trị doanh nghiệp. Đa số các doanh nghiệp chưa có chiến lược lâu dài, thường chạy theo lợi ích trước mắt, các kế hoạch kinh doanh được lập chủ yếu theo cảm tính chủ quan thiếu khoa học. Điều này cũng làm cho doanh nghiệp phát triển không vững chắc.
Về kinh nghiệm quản trị, nước ta chải qua hai cuộc chiến tranh kéo dài, tiếp đó là giai đoạn kinh tế kế hoạch hoá tập trung kéo dài hàng chục năm trước đổi mới nền kinh tế do đó các doanh nhân không có điều kiện thi thố tài năng. Chỉ trong hơn một thập kỷ nay, các doanh nghiệp tư nhân và các doanh nhân mới có điều kiện phát triển hơn trước, nhưng do lịch sử để lại như vậy do đó các doanh nhân chưa tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quản trị doanh nghiệp cũng như kinh nghiệm giao dịch hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước. Những nhược điểm này muốn khắc phuc được cần phải có thời gian. Với phẩm chất không ngừng học hỏi vươn lên hy vọng rằng tương lai nước ta sẽ có những nhà doanh nghiệp tài ba có thể sánh được với các doanh nhân trong khu vực và thế giới. Chính các doanh nhân tài ba như Sony, Matsashita, Hyundai, BillGates... góp phần không nhỏ vào sự giầu có của đất nước họ.
2.Tình trạng công nghệ - thiết bị
số doanh nghiệp trang bị máy móc công nghệ hiện đại chưa nhiều. Nhiều doanh nghiệp hoạt động trong ngành cơ khí, dệt may thường sử dụng máy móc thiết bị cũ lạc hậu 2 - 3 thế hệ. Số doanh nghiệp trang bị máy móc thiết bị hiện đại chỉ có khoảng 24% Doanh nghiệp tư nhân và 25% đối với công ty TNHH; còn lại 37,2% số doanh nghiệp tư nhân và 20% công ty TNHH và hầu hết số các hợp tác xã sử dụng công nghệ truyền thống thủ công; 34% số DNTN và 57% số công ty TNHH kết hợp cả hai công nghệ hiện đại và truyền thống. Vì lẽ đó, năng suất lao động trong nhiều doanh nghiệp tư nhân không cao, chất lượng sản phẩm thấp, chủng loại đơn điệu kém khả năng cạnh tranh.
Tuy nhiên, bên cạnh đó có những doanh nghiệp tư nhân mạnh dạn đầu tư công nghệ hiện đại đồng bộ, áp dụng hệ thống quản trị định hướng chất lượng ISO 9000, sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao, chủng loại phong phú. Điển hình là doanh nghiệp trong lĩnh vực điện tử tin học, chế biến thuỷ sản.
3.Khả năng huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp tư nhân
Về vốn,vốn của doanh nghiệp tư nhân được hình thành từ ba nguồn chú yếu: vốn tự có của chủ sở hữu, vốn huy động từ bạn bè người thân, vốn vay ngân hàng, ngoài ra đối với các công ty cổ phần huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu công ty ra công chúng, hợp tác xã huy động từ xã viên.
Trong giai đoạn mới thành lập, nguồn vốn của doanh nghiệp chủ yếu là vốn tự có, huy động từ bạn bè người thân, vốn vay ngân hàng còn bị hạn chế, điều này xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp, bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn đúng pháp luật, còn một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp hoạt động vi phạm pháp luật. Nhiều doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh, nhưng không có trụ sở, hay trụ sở di chuyển nhiều lần cơ quan quản lý không biết. Trong 6 tháng đầu năm 2000 ở thành phố Hồ chí Minh có 300 doanh nghiệp mất tích. Một số doanh nghiệp tư nhân khi thành lập, họ vay vốn rồi nộp vào tài khoản tại ngân hàng xin giấy xác nhận của ngân hàng đủ vốn thành lập doanh nghiệp theo quy định của luật, sau đó họ rút vốn ra do đó không đảm bảo trong qúa trình kinh doanh.
Nhiều doanh nghiệp thiếu vốn kinh doanh: theo quy định doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần khi lập dự án xin vay vốn ngân hàng thì phải có ít nhất 40% vốn tự có cho dự án đầu tư mới, nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được quy định này.
Đặc biệt hàng loạt các vụ án lớn về doanh nghiệp tư nhân vay vốn ngân hàng bị đưa ra xét sử như TAMECO, EPCO, Minh Phụng, ...đã làm cho uy tín của doanh nghiệp tư nhân xuống thấp, nhà nước bị thất thu thuế, cơ quan nhà nước kêu ca nhiều về doanh nghiệp tư nhân, tỷ lệ nợ quá hạn của khu vực kinh tế này cao.
Bên cạnh những nguyên nhân xuất phát từ phía doanh nghiệp, vẫn còn vướng mắc từ phía các cơ quan nhà nước và ngân hàng. trước tháng 8 - 2000 quy định các thủ tục, chế độ quá cứng nhắc, chặt chẽ các doanh nghiệp tư nhân không đáp ứng được, còn cán bộ tín dụng ngân hàng không thể thực hiện được đầy đủ hồ sơ cho vay. Trước khi có cơ chế lãi suất cơ bản thì lãi suất cho vay vốn của ngân hàng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn cao hơn doanh nghiệp nhà nước (một số thời điểm cao gấp 1,3 - 1,4 lần). Các ngân hàng còn tâm lý thích cho vay doanh nghiệp nhà nước vì được Nhà nước bảo trợ, được phép khoanh nợ, giãn nợ thậm trí xoá nợ. Ngân hàng ngại cho doanh nghiệp tư nhân vay ,chưa chủ động tìm đến doanh nghiệp tư nhân. Trình độ quan lý, trình độ thẩm định đánh giá dự án của cán bộ ngân hàng thấp cũng hạn chế đáng kể việc tiếp cận vốn ngân hàng của các doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiêu quả, tạo được uy tín trên thị trường và đối với khách hàng và khả năng vay vốn của các doanh nghiệp này được thuận lợi. Việc thiết lập thị trường chứng khoán từ năm 2000, đã mở ra một kênh thu hút vốn quan trọng của các công ty cổ phần. Các công ty cổ phần có đủ điều kiện cần thiết sẽ được niêm yết ở trung tâm giao dịch chứng khoán và thông qua đó phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty thu hút vốn cho các dự án của công ty. Đến thời điểm năm 2001, số công ty có đủ điều kiện niêm yết chưa nhiều, "hàng hoá" trên thị trường còn ít, hoạt động của thị trường có lúc thăng trầm do nhiều yếu tố. Nhưng đã đánh dấu một bước phát triển quan trọng của thị trường vốn Việt nam, cũng như sự phát triển của các công ty cổ phần ở nước ta - một hình thức sở hữu có nhiều ưu điểm.
4.Thực trạng về thị trường của các doanh nghiệp tư nhân nước ta
Thị trường đầu ra về sản phẩm dịch vụ của các doanh nghiệp thường rất nhỏ và hẹp. Đa số sản phẩm , dịch vụ làm ra được tiêu thụ tại địa phương nơi doanh nghiệp kinh doanh và thị trường trong nước, số lượng chủng loại sản phẩm dịch vụ vươn ra được thị trường nước ngoài chưa nhiều. Điều này xuât phát từ chất lượng sản phẩm kém,giá thành phẩm cao không cạnh tranh được với sản phẩm cùng loại của các nước. Các doanh nghiệp thuộc ngành may mặc,dày da xuất khẩu được khối lượng sản phẩm tương đối lớn nhưng chủ yếu gia công cho các công ty nưóc ngoài,nguyên vật liệu đầu vào do các công ty này cung cấp do đó bị lệ thuộc, không chủ động được thị trường đầu vào cũng như đầu ra.
Nhìn chung thị trường của các doanh nghiệp tư nhân nước ta còn nhiều hạn chế. Điều nàycó nhiều nguyên nhân như: thiết bị sản xuất lạc hậu dẫn đến sản phẩm làm ra có chất lượng kém, mẫu mã chủng loại không phong phú. Công tác Maketing thâm nhập thị trường còn yếu, thiếu thông tin về thị trường do đó chưa có chiến lược sản phẩm đúng đắn, nhanh nhạy. Thông tin phải bao gồm thông tin về sở thích tập quán tiêu dùng của thị trường nước ngoài, thông tin về chính sách thuế, tiêu chuẩn nhập khẩu của các nước. Các doanh nghiệp tư nhân còn thiếu thông tin về các thị trường mới như Mỹ, Trung đông, Châu Phi ... Những nguyên nhân này đã hạn chế khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân nước ta.
Để các doanh nghiệp tư nhân nước ta phát triển mạnh mẽ, góp phần to lớn hơn nữa vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nước nhà, chúng ta cần có các giải pháp đồng bộ và hữu hiệu.
III-Một số giải pháp phát triển các doanh nghiệp tư nhân nước ta hiện nay
1.Những giải pháp mang tính vĩ mô của nhà nước
1.1.Hoàn thiện hành lang pháp luật, quy định của nhà nước
Luật doanh nghiệp đã có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2000, cần triển khai nhanh luật này vào cuộc sống phát huy tác dụng của nó tạo điều kiện thông thoáng cho các doanh nghiệp làm ăn. Tiếp tục hoàn chỉnh các chính sách pháp luật, quy định của Nhà nước đã ban hành liên quan đến khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp tư nhân phát triển, đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế theo hướng tiến tới thống nhất hai luật Luật doanh nghiệp và luật doanh nghiệp Nhà nước vào một tạo nềm tin cho các nhà doanh nghiệp đầu tư vốn làm ăn lâu dài. Tổ chức hướng dẫn thực hiện các quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh (Nghị định30/CP) phải phù hợp với nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, các chiến lược thông lệ quốc tế. Ngoài ra cũng cần ban hành luật chống độc quyền nhằm đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như ban hành luật bảo vệ quyền phát minh sáng chế, bảo vệ các doanh nghiệp làm ăn chân chính, chống lại việc làm hàng giả hàng kém phẩm chất như tình trạng hiện nay.
Hệ thống pháp luật đồng bộ phải tạo ra được môi trường kinh doanh thông thoáng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận với nguồn vốn, đất đai, lao động, công nghệ và thông tin thị trường, xoá bỏ những phân biệt đối xử về tín dụng, thuế, giá thuê đất và các ưu đãi khác giữa các doanh nghiệp. Chủ động giảm dần sự bảo hộ đối với các ngành kinh tế trong nước, tạo môi trường cạnh tranh để thúc đẩy doanh nghiệp phát triển . Giảm dần đi tới xoá bỏ hàng rào phi thuế quan, thực hiện minh bạch hoá chính sách trong lĩnh vực thuế. Công bố lịch trình cắt giảm thuế quan để các doanh nghiệp chủ động trong kinh doanh.
1.2.Khắc phụ tình trạn quản lý chồng chéo, nặng nề thủ tục hành chính
Để chánh tình trạng công tác quản lý Nhà nước về kinh tế đối với khu vực doanh nghiệp tư nhân nặng nề về thủ tục hành chính, chồng chéo nhiều đầu mối, chính phủ nên sớm có quyết định thành lập một cơ quan đầu mối chuyên lo về mặt quản lý nhà nước để hỗ trợ chính sách cho khu vực doanh nghiệp tư nhân phát triển, cơ quan này là chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp và chính phủ, sẽ tạo điều kiện cho nhà nước vừa quan lý chặt chẽ, vừa nắm thông tin kịp thời và đưa ra các đối sách giải quyết các kiến nghị của doanh nghiệp hợp tình hợp lý.
Đẩy mạnh cải cách hành chính trong một số lĩnh vực như: Đăng ký kinh doanh, thủ tục vay vốn, phương thức thanh toán, kê khai thuế. Nhằm tạo chủ động linh hoạt cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Với phương châm nhà nước không can thiệp trực tiếp vào quá trình tổ chức hoạt động và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời tăng cường chống tham nhũng hối lộ trong bộ máy nhà nước để không gây khó khăn cho sự phát triển doanh nghiệp tư nhân.
1.3.Có chính sách phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường nhân tố sản xuất
Khả năng tiếp cận của các doanh nghiệp đối với các nhân tố sản xuất (vốn, đất đai, lao động, thông tin ...) với chi phí thấp là một trong những nhân tố hàng đầu tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay cần phải chú trọng đến vai trò của thị trường trong việc phân bổ các nguồn lực sản xuất biểu hiện ở một số lĩnh vực:
-Thị trường tài chính (bao gồm cả việc hình thành và phát triển các loại hình dịch vụ tài chính, tín dụng): Thị trường tài chính đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Tìm ra hướng giải quyết vấn đề nguồn vốn cần được đặt lên vị trí ưu tiên hàng đầu trong việc hoạch định chính sách. Nền kinh tế của một quốc gia sẽ không thể phát triển được nếu thiếu vắng các định chế trung gian tài chính hoạt động có hiệu quả, các loại hình dịch vụ tài chính, tín dụng cần thiết. Trước mắt phải làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của các tổ chức tín dụng tạo ra tiềm lực mạnh để tăng khả năng hoạt động và đáp ứng việc bù đắp những rủi ro. Cân đối các khoản vay và cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn (rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997). Xây dựng thêm loại hình tổ chức tín dụng mới để hỗ trợ lẫn nhau đảm bảo an toàn cho toàn hệ thống.
Có các giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn (hệ thống các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, quỹ đầu tư, thị trường chứng khoán...) phát triển các công cụ cần thiết, tạo "hàng hoá" chứng khoán thông qua trung tâm giao dịch chứng khoán để đáp ứng nhu cầu cho các nhà đầu tư, thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn. Khuyến khích phát triển các định chế trung gian tài chính như, công ty đầu tư tài chính, công ty thuê mua tài chính ... để tăng cường việc huy động vốn trên thị trường.
-Thị trường bất động sản và chính sách đất đai. Xây dựng hệ thống đăng ký và hình thành một loại hình dịch vụ chuyển nhượng đất, khắc phục sự mất bình đẳng trong việc phân phối đất. Mở rộng quyền của doanh nghiệp trong việc chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp.
-Thị trường lao động: Mở rộng quyền của doanh nghiệp trong việc thuê và tuyển dụng lao động. có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động đào tạo, dạy nghề nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động. Nhà nước cần tăng cường đầu tư nâng cấp mở rộng các trường dạy nghề, trung học nghề, các trường cao đẳng nhằm tạo cho thị trường lao động một đội ngũ lao động lành nghề có trình độ đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.
1.4 Chính sách khuyến khích, hỗ trợ hữu hiệu đối với doanh nghiệp tư nhân
Trong xu hướng toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ, để tránh không bị gạt ra ngoài lề xu thế này thì việc hội nhập nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu. Việt Nam đã tham gia các tổ chức kinh tế APEC, ASEAN và đàm phán tiến tới gia nhập WTO. Theo lộ trình hội nhập, Việt Nam sẽ phải xoá bỏ các hàng rào thuế quan do đó công nghiệp thay thế nhập khẩu, chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước được bảo hộ sẽ chịu những tác động lớn. Khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO chúng ta bắt buộc phải tuân theo những hướng dẫn của WTO vào năm 2005 hoặc sau đó. Do vậy nhà nước phải tạo ra cơ hội kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế và những lợi ích của một số doanh nghiệp độc quyền sẽ bị xoá bỏ. Trong điều kiện các doanh nghiệp tư nhân nước ta mới chỉ phát triển hơn 10 năm nay, nếu các doanh nghiệp tư nhân này bị bỏ lại đằng sau hoặc chịu sự phân biệt đối sử, thì doanh nghiệp Việt Nam khó có thể gánh vác được nền kinh tế Việt Nam vào năm 2005 và sau đó, khi mà các thử thách khốc liệt bắt đầu. Do đó việc khuyến khích, hỗ trợ thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân phát triển là vấn đề bức thiết.
Các chính sách khuyến khích, hỗ trợ của nhà nước bao gồm:
Thứ nhất, hỗ trợ đào tạo đội ngũ doanh nhân: Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ công tác đào tạo đội ngũ doanh nhân và đào tạo nguồn nhân lực để phát triển doanh nghiệp. Đội ngũ doanh nhân thuộc khu vực doanh nghiệp tư nhân mới thực sự được hình thành và phát triênr hơn 10 năm nay, đặc điểm xuất thêm của các chủ doanh nghiệp có nhiều nguồn gốc khác nhau, 48% đã tốt nghiệp đại học, 4% có bằng cấp trên đại học (kết quả khảo sát của MPDE), tri thức kinh nghiệm vẫn là phổ biến. Do đó để doanh nhân có điều kiện quản lý tốt SXKD ,Nhà nước cần có chính sách đào tạo bổ túc kiến thức về quản lý kinh doanh thông qua việc mở các lớp đào tạo cho chủ doanh nghiệp ngắn hạn thường xuyên nhưng phải có chất lượng và có khả năng áp dụng vào thực tiễn.
Thứ hai, xúc tiến mở rộng thị trường khuyến khích xuât khẩu đối với doanh nghiệp thì thị trường là vấn đề sống còn. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong điều kiện kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu, năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao chi phí trung gian còn lớn, chất lượng sản phẩm chưa tốt nên hàng hoá kém sức cạnh tranh là điều dễ hiểu và việc nhà nước hỗ trợ bằng các chính sách thuế quan ưu đãi để doanh nghiệp tư nhân phát triẻn là cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Các giải pháp kích cầu của nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh giúp tháo gỡ những khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho doanh nghiệp tư nhân. Ngoài ra nhà nước cần thành lập các quỹ tín dụng xuất khẩu, mở rộng các nghiệp vụ bảo hiểm xuât khẩu.
Thứ ba, Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân thực hiện nhanh quá trình đổi mới như tiếp nhận thông tin kỹ thuật công nghệ mới hiện đại, hướng dẫn cải tiến công nghệ kỹ thuật truyền thống, hỗ trợ vốn vay dài hạn với lãi suất ưu đãi để đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực để có thể tiếp nhận việc chuyển giao công nghệ. Ngoài ra trong điều kiện nước ta hiện nay, bên cạnh việc đầu tư kỹ thuật công nghệ mới để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, các doanh nghiệp cần lưu ý khai thác các kỹ thuật công nghệ sử dụng nhiều lao động, kết hợp với việc cải tiến nâng cao năng suất và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, Nhà nước cần quan tâm hơn nữa cho hoạt động của các trung tâm thông tin, trung tâm xúc tiến thương mại trong việc cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp tư nhân về các lĩnh vực: sản phẩm, thị trường, chiến lược ngoại thương , hợp đồng, công nghệ và xu hướng tiêu dùng, kết quả nghiên cứu thị trường ... Thông thường trước đây các doanh nghiệp thu thập thông tin chủ yếu từ các nguồn: sách báo tạp chí, bạn bè, người thân, bạn hàng, trên phương tiện thông tin đại chúng hoặc do có mối quan hệ với cơ quan quản lý Nhà nước. Các thông tin cung cấp còn quá nghèo nàn, ít giá trị, lạc hậu so với biến động của thị trường. Vì vậy việc cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp tư nhân là hết sức cần thiết.
Thứ năm, Tăng cường các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển ổn định và có hiệu quả cao. Các dịch vụ bao gồm:
Hỗ trợ tài chính tín dụng, dịch vụ tư vấn kế toán, kiểm toán và các dịch vụ khác.
Hỗ trợ tài chính tín dụng cho các doanh nghiệp tư nhân là cần thiết nhất là doanh nghiệp mới cổ phần hoá hoặc các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ mới được thành lập. Thông qua việc thành lập công ty đầu tư tài chính để đầu tư vốn vào các doanh nghiệp có triển vọng, thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng nhằm bảo lãnh một phần nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận được các khoản vay ngắn , trung và dài hạn đồng thời chia sẻ rủi ro khi gặp rủi ro bất khả kháng không trả được nợ vay.
Phát triển dịch vụ tư vấn kế toán kiểm toán và các dịch vụ liên quan đến tài chính doanh nghiệp giúp cho doanh nghiệp tiếp cận được với những thông lệ và tiêu chuẩn kế toán kiểm toán quốc tế.
Hỗ trợ các dịch vụ khác như, tin học, tư vấn thiết kế bao bì sản phẩm, hệ thống phân phối và điều tra thị trường, phát triển một hệ thống tạp chí chuyên ngành, phản ánh nguyện vọng và đề xuất ý kiến bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp tư nhân.
Thứ sáu, Tăng cường sự tiếp xúc giữa chính phủ với doanh nghiệp để tháo gỡ những vứng mắc. Duy trì các cuộc họp định kỳ giữa Thủ tướng chính phủ với các doanh nhân. Nâng cao hiệu quả các cuộc họp. Những bức xúc cản trở sự phát triển của doanh nghiệp cần được các bộ ngành liên quan giải quyết nhanh chóng và thoả đáng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển.
2.Những giải pháp từ phía doanh nghiệp tư nhân nhằm phát triển sản xuất kinh doanh
2.1. Nâng cao khả năng hoạch định và quản trị chiến lược
Quá trình phát triển các doanh nghiệp tư nhân những năm vừa qua bộc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33733.doc