MỤC LỤC
Lời nói đầu 2
Phần I: Chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền tệ 4
1. Chính sách tiền tệ 4
2. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ 4
3. Công cụ của chính sách tiền tệ 6
3.1. Chiết khấu và tái chiết khấu 7
3.2. Dự trữ bắt buộc 9
3.3. Nghiệp vụ thị trường mở 11
3.4. Hạn mức tín dụng 13
3.5. Khung lãi suất tiền gửi và cho vay. 15
Phần II: Thực trạng của việc sử dụng các công cụ tài chính tiền tệ ở Việt Nam trong những năm qua. 17
1. Chính sách tiền tệ với công cuộc cải cách và phát triển kinh tế ở Việt Nam 17
2. Thực trạng của việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam 18
2.1.Dự trữ bắt buộc 18
2.2. Lãi xuất tái chiết khấu 20
2.3. Nghiệp vụ thị trường mở 21
2.4. Hạn mức tín dụng 23
2.5. Lãi xuất tín dụng 23
2.6. Tỷ giá . 24
Phần III: Giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam 26
1. Thiết kế công cụ 26
2. Các giải pháp khác 28
Kết luận 29
Tài liệu tham khảo 30
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1575 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t chiếu khấu tăng làm cho NHTG không thể vay như NHTƯ nhiều và dễ dàng như trước. NHTG phải hạn chế bớt những cơ hội cho vay để bảo đảm dự trữ. Như vậy, tác động trước hết làm tăng dự trữ của các NHTG, giảm cho vay, hậu quả là tổng cầu và sản lượng giảm theo. Tác động tiếp theo làm cho NHTG có ý thức rằng trong trường hợp khẩn cần vay nóng của NHTƯ thì NHTG phải trả lãi suất cao. Buộc NHTG phải từ từ nâng lãi suất lên theo để tránh thiệt hại khi phải vay của NHTƯ. Lãi suất tiếp tục thắt chặt cung ứng tiền và tác động đến nền kinh tế.
Chính sách chiết khấu, tái chiết khấu còn là công cụ định hướng tín dụng.
Nếu NHTƯ muốn kích thích xuất khẩu, sẽ cho tái chiết khấu trước hết các thương phiếu xuất khẩu hoặc nâng cao hạn mức tái chiếu khấu đối với những phiếu đó.
Trong nhiều trường hợp, NHTƯ có thể đặt ra những điều kiện thuận lợi hay chặt chẽ cho từng loại tín dụng của NHTG để được chiết khấu hay tái chiết khấu ở NHTƯ như: chiết khấu để giúp NHTG điều chỉnh dự trữ bắt buộc, thực hiện tín dụng từng mùa, thanh khoản...
Như vậy ta có thể rút ra ưu khuyết điểm của biện pháp chiết khấu tái chiết khấu như sau:
Ưu điểm:
Do việc vay mượn thực hiện trên nền các giấy tờ có giá nên thời hạn vay
mượn tương đối rõ ràng, việc hoàn trả tương đối chắc chắn.
Thông qua biện pháp chiết khấu và tái chiết khấu cụ thể là thông qua lãi suất chiết khấu, NHTƯ có thể thực hiện tốt hơn vai trò người cho vay cuối cùng.
Hạn chế:
NHTƯ có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt các NHTM phải đi vay tức là NHTM có quyền tự do vay hoặc không. Do vậy NHTƯ khó có thể kiểm soát được việc cung ứng tiền một cách có hiệu quả. Hơn nữa lại rất khó trong việc đảo ngược những thay đổi trong chính sách chiết khấu.
NHTG về sau này, một là không muốn đến vay ở NHTƯ vì những điều kiện và thủ tục của nó. Hai là họ có thể cảm thấy không cần thiết phải đi vay NHTƯ.
Khi NHTƯ ấn định một lãi suất đặc biệt nào đó tạo ra sự biến động khoảng cách giữa lãi suất tái chiết khấu và lãi suất thị trường. Dẫn tới thay đổi ngoài dự kiến khối lượng tiền vay, khó kiểm soát cung tiền tệ.
Đối với nhiều nước đặc biệt là các nước đang phát triển hoặc phát triển. Nền kinh tế của các nước này trở thành nền kinh tế mở. Do vậy nguồn vốn có thể tự do di chuyển. Khi NHTƯ tăng lãi suất chiết khấu thì luồng tư bản sẽ chảy vào trong nước. MD ngoại tệ tăng MD nội tệ giảm => i tăng mà M = Const.
3.2- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
Dự trữ bắt buộc là tiền gửi của ngân hàng thương mại ở các NHTƯ, mức tiền gửi do luật pháp quy định bằng một tỷ lệ nhất định so với các khoản nợ của ngân hàng (tiền gửi của khách hàng).
Trong thực tế ta thấy tỷ lệ dự trữ bắt buộc ít nhất ở mức 10% và nhiều nhất ở mức 35% trên toàn bộ tiền gửi ở tổ chức tín dụng. Trong trường hợp cần thiết NHTƯ có thể quyết định tăng tỷ lệ dự trữ trên mức 35% và NHTƯ trả lãi cho mức tăng đó.
Phần sự trữ của NHTM được gửi vào tài khoản chuyên dùng ở NHTƯ và để tại quỹ của mình. Với mục đích góp phần đảm bảo khả năng thanh toán của NHTM và dùng làm phương tiện kiểm soát tín dụng của ngân hàng này.
NHTƯ sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc qua đó tác động tới số nhân tiền
C/D + 1
Ta có MM =
C/D + ER/D + rr
Khi NHTƯ tăng RR thì MM giảm -> MS giảm -> i tăng -> I giảm -> GDP giảm -> AD giảm -> P giảm qua cách điều tiết như trên ta thấy NHTƯ sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc là công cụ mà cung ứng tiền là mục tiêu.
Mặt khác, NHTƯ có thể không sử dụng cách điều tiết trực tiếp bằng việc đặt ra tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà có thể tác động tới tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng cách cung ứng tiền. NHTƯ bán chứng khoán (giảm MS). NHTƯ làm giảm RR trong hệ thống NHTG, do vậy làm tăng lãi suất, hạn chế cho vay, tiêu dùng, đầu tư khi NHTƯ mua chứng khoán (tăng MS), làm tăng RR của hệ thống NHTG. Do đó khuyếch trương khả năng cho vay, tiêu dùng và đầu tư của hệ thống NHTG và làm giảm lãi suất. Trong trường hợp này, cung ứng tiền là công cụ mà dự trữ là mục tiêu.
Ưu điểm:
Có thể thấy, dự trữ bắt buộc là công cụ tiềm năng của chính sách tiền tệ, nó có thể tác động đến tất cả các ngân hàng và tác động mạnh tới cung tiền.
Khi sử dụng tỷ lệ dự trũ bắt buộc thì nguồn vốn tư bản nước ngoài không thể theo con đường gián tiếp mà phải đầu tư trực tiếp có lợi cho nền kinh tế.
Tạo điều kiện cho sự kiểm soát tín dụng của NHTƯ đối với NHTM đồng thời tránh sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng.
Hạn chế:
Sẽ rất vất vả để thực hiện những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ bằng cách thay đổi RR bởi vì phải tốn kém rất nhiều để quản lý những thay đỏi trong RR. Thực tế cho thấy đây là một công cụ quá mạnh, chỉ còn tăng một lượng nhỏ RR sẽ làm cho
1
D = x R giảm xuống một lượng rất lớn gây ra những cú sốc.
rr
Mặt khác, RR có thể gây rắc rối với vấn đề thanh khoản của NHTM. Đối với những NHTM có ER ở mức thấp. làm cho hệ số sử dụng vốn của các NHTM quá thấp ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chính sách lãi suất của các NHTM này. Gây ra sự bất lợi cho kinh doanh và huy động vốn của các NHTM làm đình đốn tín dụng.
Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc đặt ra ở một mức quá cao nào đó làm tê liệt khả năng tạo tiền của các NHTM (các NHTM mất khả năng tạo tiền).
Như vậy, NHTƯ không thể điều tiết lượng tiền như ý muốn
3.3. Nghiệp vụ thị trường mở:
Trước kia, các nghiêp vụ chiết khấu và tái chiết khấu của NHTƯ chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Nhưng về sau do hạn chế của nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đòi hỏi NHTƯ phải
có những công cụ mới phù hợp hơn.
Khi nghiệp vụ thị trường mở lần đầu tiên được FED sử dụng sau thời kỳ suy thoái 1920 - 1921 đã có tác dụng lớn. Với thị trường mở, NHTG có thể tìm cho mình nguồn tài trợ cần thiết, với những thủ tục nhanh gọn. Cho nên hoạt động thị trường mở ngày càng quan trọng hơn, làm giảm bớt hoạt động tái chiết khấu. Qua thị trường này, NHTƯ có thể tác động đến việc tăng giảm khối lượng tiền tệ một cách trực tiếp đối với NHTM.
Như vậy, có thể nói nghiệp vụ thị trường mở là việc NHTƯ mua bán giấy tờ có giá với mục đích tác động tới thị trường tiền tệ, điều hoà cung và cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các NHTM tại NHTƯ, từ đó tác động đến khả năng cung cấp tín dụng của các ngân hàng này.
Trên thị trường mở, NHTƯ chủ yếu mua và bán trái phiếu của Chính phủ. Khi NHTƯ bán trái phiếu để thu tiền về. Lượng trái phiếu tuôn ra thị trường đột ngột trở nên rất lớn. Trái phiếu dư thừa làm cho giá cả của trái phiếu tăng thì NHTM phải tăng lãi suất ngân hàng nên để tránh tình trạng nhân dân và các nhà đầu tư rút tiền ra khỏi ngân hàng đem đầu tư vào trái phiếu. Lãi suất tăng làm cho cung tiền giảm, làm giảm tỷ giá và giá cả hàng hoá. Mặt khác, lãi suất ngân hàng tăng làm cho khả năng cho vay của NHTM bị thu hẹp; nhất là khi tiền mua trái phiếu chính phủ do các chủ thể mua và trả bằng chi phiếu.
Khi NHTƯ đem tiền mặt hoặc séc ra thị trường mở để mua trái phiếu. Làm cho lượng tiền mặt trong lưu thông tăng, làm tăng dự trữ của NHTM. Vì NHTM cần dự trữ nên đem bán trái phiếu hoặc trái phiếu với lãi suất thấp để cho vay sinh lợi nhiều hơn. Điều đó đồng nghĩa với sự tăng lượng tính dụng được cấp phát bởi hệ thống NHTM. Lượng trái phiếu NHTƯ mua làm khan hiếm trái phiếu và đẩy giá trái phiếu nên. Giá trái phiếu tăng làm giảm lãi suất của nó, và đến lượt, giảm lãi suất cả hệ thống NHTM cung tiền tăng làm giảm tỷ giá và giá cả leo thang.
Khi xét nghiệp vụ thị trường mở, nếu như không có sự tham gia của NHTƯ trên thị trường mở mà chỉ có việc mua, bán trái phiếu giữa các NHTM với nhau thì khối lượng tiền tệ nói chung là không thay đổi. Do một NHTM này bán và NHTM kkhác mua, xét về tổng thể đó chỉ là sự di chuyển ngược lại từ một phần dự trữ thặng dư của ngân hàng thừa vào dự trữ của ngân hàng đang thiếu.
Ưu điểm:
Nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt và chính xác, có thể sử dụng ở bất cứ mức độ nào. Nó có thể thực hiện mong muốn thay đổi mức dự trữ bằng việc mua và bán trái phiếu cổ phiếu. Nếu muốn mức thay đổi nhỏ, NHTƯ có thể mua, bán ít trái phiếu. Còn nếu muốn thay đổi lớn thì NHTƯ mua hoặc bán nhiều trái phiếu hơn. Nghiệp vụ thị trường mở rất dễ dàng đảo ngược lại. Nếu NHTƯ thấy cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do nó mua trên thị trường tự do quá nhiều thì nó có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường tự do. Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTƯ có thể điều tiết lượng tiền như ý muốn vì các NHTM có quyền tự do trong việc mua hay không mua trái phiếu, nghiệp vụ thị trường mở có thể được hoàn thành nhanh chóng không gây nên những chậm trễ về mặt hành chính.
Hạn chế:
NHTƯ có thể không đạt được mục tiêu đã đề ra do nghiệp vụ thị trường mở chỉ thực sự hữu hiệu khi nền kinh tế đã phát triển rất cao, cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt đã phát triển.
Ngoài 3 công cụ được sử dụng một cách thường xuyên như trên, đối với các nước khác nhau thì có những đặc điểm về kinh tế và chính trị, xã hội... khác nhau. Do đó việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ được mở rộng thêm như hạn mức tín dụng , khung lãi suất tiền gửi và cho vay.
3.4. Hạn mức tín dụng:
Hạn mức tín dụng là khối lượng tín dụng tối đa mà NHTƯ có thể cung
ứng cho tất cả các NHTM trong thời kỳ nhất định (năm hay quý), phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế của thời kỳ đó.
Khi ổn định hạn mức tín dụng cho mỗi thời kỳ, NHTƯ thường căn cứ vào kế hoạch tăng trưởng kinh tế cộng với chỉ số lạm phát cho phép trong thời kỳ đó. Hạn mức tín dụng này không phải là chỉ tiêu ấn định cho toàn bộ nền kinh tế mà là chỉ tiêu ấn định đối với các doanh nghiệp. Các NHTM có thể thực hiện mức tín dụng của mình lớn hơn mức tín dụng mà NHTƯ ấn định cho ngân hàng mình nếu NHTM này huy động được khối lượng vốn lớn hơn. Vì vốn do các NHTM huy động và cho vay ra dù lớn hơn rất nhiều lần hạn mức tín dụng được NHTƯ cung ứng cũng không ảnh hưởng đến khối lượng tiền tệ vào hay rút ra khỏi lưu thông.
Ưu điểm:
Hạn mức tín dụng là một biện pháp mạnh có hiệu quả đáng kể. Thông qua đó, NHTƯ khống chế được lượng tiền cung ứng một cách có hiệu quả.
Hạn chế:
Trên cơ sở hạn mức tín dụng, NHTƯ tiến hành phân bổ hạn mức tín dụng. Cùng với thời gian, hạn mức có từng thời điểm này phù hợp, thời điểm khác lại không phù hợp. Điều này gây ra các khó khăn cho các đơn vị khi nhu cầu vay vốn của khách hàng tăng cao trong khi đó các nguồn kể cả hạn mức tín dụng cũng không đủ.
Kiểm soát bằng hạn mức là cách kiểm soát gò bó, cứng nhắc không phù hợp với cơ chế hiện nay, một cơ chế đòi hỏi sự quản lý phải hết sức mềm dẻo, uyển chuyển, khống chế hạn mức tín dụng có thể làm mất đi cơ hội đầu tư của một số ngân hàng, giảm khả năng điều tiết của NHTƯ. Vì việc điều chỉnh tăng hạn mức tín dụng không thể một sớm một chiều mà cần có thời gian vì vậy tính kịp thời khó đảm bảo.
Việc kiểm soát bằng hạn mức tín dụng có thể là một trong nhiều nguyên nhân đẩy lãi xuất nên. Trong khi nhu cầu chiết khấu để vay NHTƯ của một số ngân hàng phát sinh không được giải quyết do hết hạn mức tín dụng thì ở một số ngân hàng khác mức tín dụng lại tạm thời dư thừa. ở đây quan hệ trao đổi sẽ diễn ra và chi phí sẽ góp phần làm cho lãi xuất tăng nên.
3.5. Khung lãi xuất tiền gửi và cho vay:
Thông thường chính sách lãi suất tiền gửi và cho vay biến đổi cùng chiều, nghĩa là cả hai mức lãi xuất đó đều tăng nên hay giảm xuống: Khi lãi xuất tiền gửi được tăng lên thì lãi xuất cho vay cũng được nâng lên và ngược lại, tuỳ theo chính sách của NHTƯ. Trong thực tế, NHTƯ định hướng tín dụng cho các NHTM qua chính sách lãi xuất chiết khấu và tái chiết khấu như đã trình bày ở phần trên. NHTƯ rất ít khi quy định một lãi xuất cố định trần hay sàn. Vì nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút nhiều tiền gửi, giảm khả năng kinh doanh tín dụng. Song biện pháp này sẽ làm cho các NHTM mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. Mặt khác, nó dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn của các ngân hàng, nhưng lại thiếu vốn đầu tư, hoạc khuýến khích dân cư dùng tiền vào dự dữ vàng, ngoại tệ, bất động sản trong khi ngân hàng hụt hẫng về tiền mặt cũng như nguồn vốn cho vay. NHTƯ có thể quy định khung lãi suất cho vay buộc các ngân hàng kinh doanh phải chấp hành. Khi muốn tăng khối lượng cho vay, NHTƯ giảm mức lãi suất cho vay để kích thích các nhà đầu tư vay vốn. Khi cần hạn chế đầu tư NHTƯ ấn định mức lãi suất cao.
Tuy nhiên, theo sự nghiên cứu của ngân hàng thế giới thì chính phủ của nhiều nước ngày càng thừa nhận lãi suất chịu sự quản lý của Nhà nước có thể có hại như: cản trở sự tăng trưởng cuả tiết kiệm tài chính và giảm thiểu hiệu năng của đầu tư.
Ưu điểm:
Biện pháp này có ưu điểm là giúp các ngân hàng lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho vay, loại bỏ các dự án kém hiệu quả
Nhược điểm:
Tuy nhiên quy định khung lãi suất tiền gửi hay quy định lãi suất trần và sàn làm cho tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm, các NHTM bị động trong kinh doanh, hạn chế đầu tư.
Trong bối cảnh đó đòi hỏi phải có sự linh động hơn trong việc sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ và đòi hỏi có sự sáng tạo về công cụ tiền tệ để hoàn thành các mục tiêu kinh tế.
Phần II
Thực trạng của việc sử dụng các công cụ tài chính tiền tệ ở Việt Nam trong những năm qua.
1- Chính sách tiền tệ với công cuộc cải cách và phát triển kinh tế ở Việt Nam:
Vào những năm đầu thời kỳ đổi mới (1986 - 1990), nền kinh tế Việt Nam chưa thực sự hội nhập với nền kinh tế thế thế giới. Nền kinh tế chậm phát triển, đang phải vật lộn với lạm phát phi mã với tỷ lệ lạm phát nên tới 774,7%. Mục tiêu kúc đó được đề ra là đẩy lùi, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái bởi khủng hoảng kinh tế kéo dài. Đứng trước tình hình như vậy, Việt Nam đã mạnh dạn nâng lãi suất tiền gửi ngân hàng nên mức siêu cao để thu hút lượng tiền cung ứng về ngân hàng, đồng thời từng bước thả nổi tỷ giá hối đoái (VNO/USD) nhằm tạo lập quan hệ như vậy chỉ là tức thời. Đòi hỏi Việt Nam phải có những biện pháp khác tích cực hơn để sử dụng chính sách tiền tệ nữa là vấn đề sử dụng và thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước. Từ đó để hỗ trợ đầu tư, phát triển kinh tế ... NHTƯ phải thực thi chính sách tiền tệ sao cho đảm bảo các nguồn tích luỹ , tiết kiệm nguồn vốn nhàn rỗi khác trong nền kinh tế được khai thác, huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn. Chiến lược huy động vốn được phát đọng mạnh mẽ liên tục trong suốt thời kỳ 1993 -1997. Phương châm là hạn chế, giảm thiểu dần cung ứng tiền cơ bản qua kênh tín dụng, buộc các NHTM phải đi vay để cho vay làm tốt vai trò trung gian tài chính của nền kinh tế. Các hình thức huy đọng vốn cũng được đa dạng hoá, có cơ cấu hợp lý nhằm đáng ứng yêu cầu đầu tư trung và dài hạn. Mặt khác, NHTƯ Việt Nam cũng chính thức khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ khác trên thế giới như IMF, WB, ADB... Qua đó tranh thủ được sự giúp đỡ về mặt tổ chức, điều hành... của các tổ chức này. Kể từ cuối năm 1993 khi NHTƯ tổ chức hình thành thị trường nội tệ liên ngân hàng và sau đó gần một năm là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. NHTƯ con phối hợp với hệ tài chính đến tháng 6/1995, NHTƯ chính thức tổ chức bán đấu giá tín phiếu kho bạc tạo nên công cụ huy động vốn mới trên thị trường tiền tệ, góp phần lành mạnh hoá ngân sách. NHTƯ còn mở rộng đối tượng cho vay sang nhiều thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế làm cho nền kinh tế có sự phát triển đồng đều. Bên cạnh việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế thông qua con đường tín dụng, hàng năm NHTƯ còn phải bổ sung phần tiền cung ứng khi chuyển đổi ngoại tệ ròng kết dư nhằm phục vụ mục tiêu ổn định sức mua đối với đồng tiền Việt Nam.
Như vậy, chính sách tiền tệ và đặc biệt là các công cụ của chính sách tiền tệ đã góp phần rất quan trọng vào công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta. Nó góp phần tạo ra các định hướng làm ổn định công ăn việc làm, chống lạm phát, ổn định tỷ giá... từ đó làm cho nền kinh tế phát triển
2- Thực trạng của việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
2.1. Dự trữ bắt buộc:
Như ta đã biết dự trữ bắt buộc là một công cụ quan trọng nhất thuộc tầm chiến lược của chính sách tiền tệ. Với một tỷ lệ dự trữ bắt buộc hợp lý sẽ làm cho các NHTM có thể thực hiện được chức năng tạo tiền và hạn chế khả năng tạo tiền khi cần thiết. Thực tế cho thấy quốc gia nào sử dụng tốt công cụ này thì sẽ có thể điều tiết được một cách có hiệu quả chu kỳ phát triển của nền kinh tế, ổn định tiền tệ và kiểm soát được lạm phát.
ở nước ta, công cụ dự trữ bắt buộc chính thức được sử dụng từ năm 1989. Từ đó đến nay công cụ này đóng một vai trò rất quan trọng trong việc làm tăng, giảm hệ số tạo tiền, kiểm soát tốc độ tăng của tổng phương tiện thanh toán và áp lực tăng giá cả của nền kinh tế. Đối với nước ta, trong một thời gian dài Nhà nước (NHTƯ) đã quy định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với hệ thống ngân hàng là 10%. Tỷ lệ này được ổn định và giữ cố định trong khi cùng thời gian này chính sách tiền tệ đã có những thay đổi nhiều sao cho phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội... của quốc gia. Như vậy, việc thực hiện bơm tiền vào lưu thông luôn được thực hiện theo những dự kiến nhất định mà không hề tính đến sự biến động của nền kinh tế. Mặt khác, điều quan trọng đối với hệ thống ngân hàng là khả năng tạo tiền thì trong thực tế có nhiều phản ứng không thuận lợi. Người gửi tiền ban đầu và người gửi tiền rút ra dể chi trả cho những cuộc giao dịch trong số tiền gửi về sau. Những người nhận được những món tiền trong số tiền gửi về sau. Những người nhận được những món tiền chi trả có thể ký gửi một phần vào tiền gửi tiết kiệm hay định kỳ, tức là giảm bớt tác dụng của bộ số của mức gia tăng nói trên. Các ngân hàng có thể không kiếm đủ khách hàng để cho vay tới mức tối đa. Trong rất nhiều trường hợp, hoạt động kinh tế phát triển, nhu cầu tiền mặt trong lưu thông phải nhiều hơn, do đó khả năng những cuộc chi trả do khách hàng vay ở ngân hàng thực hiện sẽ không trở lại ngân hàng hàng ngày, tức là giảm bớt khả năng cho vay và tạo ký thác ở những ngân hàng kế tiếp. Từ đó có thể suy ra, việc cung ứng tiền hay thu hẹp khối lượng tiền tệ trong lưu thông bằng tỷ lệ dự trữ bắt cuộc không phải là hoàn hảo. Đến đầu năm 1994, NHTƯ có sự thay đổi trong quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc (đối với tiền gửi không kỳ hạn là 13%, đối với tiền gửi có kỳ hạn là 7%) nhưng vẫn để áp áp dụng trong nhiều năm. Thực tế đã chứng minh việc thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc phải thường xuyên thay đổi phù hợp vơí yêu cầu của việc thực hiện chính sách tiền tệ thì công cụ này mới có ý nghĩa. Ngoài ra, khi tổ chức thực hiện dự trữ bắt buộc thì theo nguyên tắc việc trích tiền ký quũy dự trữ đặc biệt phải được thực hiện hàng ngày, phải nắm được só dư tiền gửi hàng ngày nhưng trên thực tế ở nước ta đã thực hiện theo định kỳ nửa tháng. Điều này làm giảm tính nhạy cảm của công cụ này. Từ năm 1999 đến nay, NHTƯ đã có những điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM và các tổ chức tín dụng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã giảm từ 10% xuống 5% trong năm 2000 đối với các tổ chức tài chính. Đối với NHTMCP Nông thôn, quỹ tín dụng trung ương, quỹ tín dụng khu vực tỷ lệ này là 1% còn các NHNN & PTNT tỷ lệ này giảm xuống mức 3%. Việc hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc trên đã góp phần làm giảm được chi phí hoạt động của NHTM, tạo cho các NHTM linh hoạt nguồn vốn khả dụng của mình, tạo ra các cơ hội đầu tư mới. Nhìn chung, ở Việt Nam công cụ dự trữ bắt buộc thực sự chưa được sử dụng linh hoạt, nhạy bén nên đã hạn chế chức năng vốn có của nó. khi nghiên cứu về bản chất của dự trữ bắt buộc thì dự trữ bắt buộc là công cụ mang tính chất hành chính của NHTƯ nhằm điều tiết mức cung tiền tệ của NHTM cho nền kinh tế, thông qua hệ số tạo tiền đối với lượng tín dụng của các NHTM cung ứng cho nền kinh tế. Dự trữ bắt buộc là biện pháp kiểm soát cung ứng tiền tệ không phải là cách để cho tiền ổn định.
2.2. Lãi suất tái chiết khấu:
Lãi suất tái chiết khấu là công cụ quan trọng và được sử dụng khá hiệu quả ở nhiểu quốc gia trên thế giới. Đã trong một thời gian dài trước cuộc khủng hoảng kinh tế 1920 - 1921 ở Mỹ thì lãi suất tái chiết khấu là công cụ duy nhất nhưng rất có hiệu quả ở Mỹ do FED điều hành. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước nói chung và đổi mới hệ thống ngân hàng nói riêng (từ hệ thống ngân hàng mọi cấp nên hệ thống ngân hàng hai cấp). Công cụ lãi suất tái chiết khấu đã được Nhà nước ta chính thức đưa vào sử dụng và quy định tại điều 41 và 43 của pháp lệnh ngân hàng. Nhưng thực tế, Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới đất nước theo cơ ché thị trường nên chưa có đầy đủ các công cụ (trái phiếu, thương phiếu...) để thực hiện công cụ lãi suất tái chiết khấu. Vì thế NHNN Việt Nam đã sử dụng hình thức cho vay cầm cố. Hình thức này được thực hiện bằng cách các NHTM đem giấy tờ có giá tới NHTƯ làm vật thế chấp để vay tiền. Trong một thời gian khá dài đây là công cụ thay thế cho công cụ lãi suất tái chiết khấu góp phần giúp NHTƯ điều khiển khối lượng tín dụng khá hữu hiệu. Tuy nhiên khi áp dụng hình thức cho vay cầm cố. NHTƯ thường áp dụng tỷ lệ lãi suất bị động, chạy theo lãi suất của các ngân hàng thương mại quốc doanh, chỉ các NHTM quốc doanh mới chịu sự chi phối của công cụ này, còn NHTMCP không chịu sự tác động. Ngày 1/7/1997, khi thị trường của nước ta đã phát triển một cách hoàn chỉnh hơn, thống đốc NHNNVN quy định lãi suất tái chiết khấu là 0,9/tháng, trong khi trần lãi suất cho vay ngắn hạn là 1%/tháng. Vậy là NHTM được lợi 1% /tháng. Đến đầu năm 2000. Lãi suất tái chiết khấu là 0,45%. Tuy nhiên, do hạn chế xuất phát từ chính công cụ lãi suất tái chiết khấu như đã trình bầy ở trên và sự chưa hoàn chỉnh của thị trường tiền tệ ở Việt Nam làm cho việc thi hành chính sách tiền tệ quốc gia chưa đem lại hiệu quả như mong muốn.
2.3. Nghiệp vụ thị trường mở.
ở nước ta, việc thiết lập và điều khiển các thị trường tiền tệ thuộc thẩm quyền của NNHNNVN theo quy định tại điều 48 của pháp lệnh về NHNN. Vừa qua, chúng ta đã thành lập thị trường tiền tệ ở hình thức thị trường liên ngân hàng mua bán bằng lãi suất. mặt dù, thị trường tiền tệ của nước ta chưa thực sự hoàn thiện nhưng đang trong quá trình đi vào quỹ đạo, dần hoàn thiện để đáp ứng những nhu cầu của nền kinh tế. Đứng trước tình hình đó, nước ta đã tiến thêm một bước nữa là đưa nghiệp vụ thị trường mở vào thực tế của nền kinh tế. Tính cho tới nay, nghiêp vụ thị trường mở của NHNNVN đã hoạt động được 7 tháng và cũng thể hiện được vai trò quan trọng của nó trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở ở nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế. Hiện tại số lượng thành viên đang niêm yết trên thị trường vẫn còn rất ít (6 thành viên). Trong số 20 thành viên chỉ có 8 tháng viên đã nối mạng hoặc có thể truyền File để tham gia giao dịch. Tại mỗi phiên giao dịch thường chỉ có từ 1 - 3 thành viên tham gia chiếm 5 - 15% trong tổng số các thành viên nghiệp vụ thị trường mở và chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các tổ chức tín dụng chủ yếu là NHTMQD. Ngoài ra, doanh số mua bán còn hạn chế, mỗi phiên giao dịch bình quân chỉ khoảng 10 tỷ đồng. Nhìn chung hoạt động thị trường mở ở nước ta còn quá trầm lặng, chưa trở thành công cụ đắc lực của CSTT ở nước ta. Theo số liệu NHNN thì đã có 20 thành viên được công nhận là thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở. Ttong đó có 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, 9 ngân hàng nước ngoài, 1 công ty tài chính và 1 quỹ tín dụng nhân dân trung ương. Từ khi khai trương đến 12/2000, thị trường giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện được 13 phiên giao dịch nghiệp vụ thị trường mở với tổng khối lượng tín phiếu mua bán bằng 1428 tỷ. Với những con số cụ thể trên ta thấy được hạn chế trên là do nghiệp vụ thị trường mở là một nghiêp vụ còn rất mới đối với các tổ chức tín dụng Việt Nam. Người dân thì thiếu thống tin, có sự hiểu biết quá ít về chứng khoán cũng như nhiều loại giấy tờ có giá khác,... mặt khác, thị trường liên ngân hàng chưa thực sự phát triển, hàng hoá trên thị trường hạn hẹp về cả chủng loại và số lượng. Thường xuyên diễn ra tình trạng khan hiếm hàng hoá làm nản lòng các nhà đầu tư. Ngoài ra việc sử dụng tín phiếu kho bạc trên thị trường thứ cấp chưa linh hoạt. Các TCTD thường sử dụng tín phiếu kho như một công cụ đầu tư hơn là công cụ của thị trường mở. Từ đó dẫn tới việc khan hiếm hàng hoá. Như vậy, do còn hạn chế cả về cơ sở vật chất, trình độ cán bộ sự đơn sơ của thị trường tài chính, sự bất cập trong vấn đề lượng thành viên tham gia thị trường cũng như khối lượng giấy tờ có giá do các thành viên nắm giữ... nên tác động can thiệp của NHNN thông qua nghiệp vụ thị trường mở rất còn hạn chế.
2.4- Hạn mức tín dụng:
Việc đưa vào áp dụng công cụ hạn mức tín dụng tỏ ra có hiệu quả trong những năm 1992 - 1993 mà nhờ đó mà nền kinh tế của nước ta đạt tăng trưởng ở mức cao, lạm phát bị đẩy lùi thị trường tiền tệ và giá cả dần đi vào thế ổn định. Tuy nhiên, việc điều hành công cụ này chỉ phát huy hiệu quả khi hệ thống NHTMQD còn chiếm phần lớn thị trường tiền tệ. Đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ công cụ hạn mức tín dụng với các công cụ khác của chính sách tiền tệ. Như vậy, xét cho cùng thì hạn mức tín dụng chỉ đạt hiệu quả cao trong nền kinh tế khép kín. Nhưng do
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28770.doc