Đề án Giải pháp nâng cao vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010

FDI góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu và mở rộng thị trường.

Trong thập kỷ 1990 trở lại đây, mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bình quân hàng năm khoảng trên 20%, chiếm tỷ trọng gần 30% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước, trong đó toàn bộ dầu thô xuất khẩu là của các doanh nghiệp liên doanh. Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn FDI tăng cao hơn tỷ trọng xuất khẩu của khu vực trong nước từ năm 2004. Năm 2005 tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn FDI chiếm 57,4% với tổng giá trị đạt 11130 triệu USD, trong khi đó tỷ trọng xuất khẩu của khu vực trong nước là 42,6%.

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1473 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp nâng cao vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại ( thực tế, công nghệ không thể mua được bằng quan hệ thương mại đơn thuần). - FDI góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường: đầu tư FDI làm cho các hoạt động đầu tư trong nước phát triển, thúc đẩy tính năng động và khả năng cạnh tranh trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. Điều này tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. - FDI góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, FDI góp phần tăng thu ngân sách cho nhà nước thông qua đánh thuế vào các công ty nước ngoài Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu tư , bên cạnh những ưu điểm thì FDI cũng có những hạn chế nhất định. Đó là, nếu đầu tư vào nơi có môi trường bất ổn về kinh tế và chính trị, thì nhà đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn. Còn đối với nước sở tại, nếu không có quy hoạch đầu tư cụ thể thì sẽ dẫn đến đầu tư lan tràn, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn nhiễm môi trường nghiêm trọng. Chương II. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam giai đoạn 1988-2006. 1. Tác động của FDI vào tăng trưởng chung ở Việt Nam giai đoạn 1988-2006. 1.1. Tác động của FDI về mặt kinh tế. - Sử dụng FDI đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện ở nhiều lĩnh vực, trong đó nhà đầu tư tự bỏ vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh và tìm mọi cách để tối đa hóa lợi nhuận. Vì vậy, các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài thường mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần duy trì và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này qua bảng 1 dưới đây. Bảng 1: Cơ cấu đóng góp trong giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế phân theo ngành kinh tế giai đoạn 1996-2005. Đơn vị: (%) Năm Tổng số Kinh tế nhà nước Kinh tế ngoài nhà nước Kinh tế có vốn nước ngoài 1996 100 49.6 23.9 26.5 1997 100 47.3 23.7 29.0 1998 100 45.4 21.4 33.2 1999 100 39.9 22.0 38.1 2000 100 34.2 24.5 41.3 2001 100 31.4 27.0 41.6 2002 100 31.4 27.0 41.6 2003 100 29.3 27.6 43.1 2004 100 27.4 28.9 43.7 2005 100 25.1 31.2 43.7 Nguồn: Tỷ lệ đóng góp của các dự án FDI trong GDP tăng dần qua các năm: Năm 1995 đạt 6,3%, năm 1996 đạt 7,4%, năm 1998 đạt 10,1%, năm 1999 đạt 11,8%, từ năm 2000 đến năm 2003 mỗi năm đều đạt trên 13%GDP. Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, nguồn vốn FDI có vai trò hết sức quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điểm mấu chốt của các nước này là vấn đề huy động, tập trung vốn cao độ để thay đổi cơ cấu kinh tế, từ cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn giữ vai trò chủ đạo sang cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa với tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ cao. Hơn nữa, FDI tác động tới cơ cấu ngành kinh tế và tác động tới cơ cấu vùng kinh tế. Một là: FDI tác động tới cơ cấu ngành kinh tế: + FDI ngày càng tỏ rõ vai trò động lực trong quá trình CNH - HĐH nền kinh tế Việt Nam. Nếu như trong những năm trước đây, các ngành nghề đầu tư tập trung vào lĩnh vực khách sạn – du lịch thì càng về sau này các nhà đầu tư nước ngoài càng tập trung đầu tư vào các ngành công nghiệp và dịch vụ. Số doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài trong công nghiệp tính đến 31/12/1998 mới có 881 doanh nghiệp thì đến 1/7/2002 đã có 1.539 doanh nghiệp ( gồm 1.137 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, 284 doanh nghiệp nhà nước liên doanh với nước ngoài ). + Tính đến hết năm 2005, vốn FDI trong khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất. Lĩnh vực này có 4.053 dự án với tổng số vốn đăng ký là 31.040 triệu USD, chiếm 67,5% về số dự án và 60,6% tổng vốn đầu tư đăng ký. Vốn FDI trong lĩnh vực dịch vụ đứng thứ 2 với 1.188 dự án và vốn đăng ký là 16.202 triệu USD, chiếm tỷ trọng 19,5% về số dự án và 32,1% về vốn đăng ký. Cuối cùng là lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp với 789 dự án và 3.774 triệu USD, chiếm 13% số dự án và 7,3% số vốn đăng ký. Hai là: FDI tác động tới cơ cấu vùng kinh tế: Đầu tư trực tiếp nước ngoài với vai trò là nguồn vốn đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu chuyển dịch cơ cấu giữa các vùng. Vì vậy, Chính phủ đã có những chủ trương, chính sách và biện pháp để khuyến khích các nhà đầu tư nói chung và các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng đầu tư vào những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa…Nhưng cho đến nay, các nhà đầu tư chủ yếu đầu tư vào những vùng, địa phương có cơ sơ hạ tầng kinh tế xã hội tương đối tốt, lực lượng lao động tay nghề cao, các điều kiện sản xuất kinh doanh thuận lợi… tiêu biểu hơn cả là tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm.Chúng ta có thể thấy rõ hơn qua bảng 2 sau đây: Bảng 2: Đầu tư FDI vào các vùng tính đến 30/11/2002 Số dự án Tổng vốn đăng ký Vốn thực hiện KTTĐ Bắc Bộ 662 9861022250 4542191913 KTTĐ Miền Trung 68 534250746 851774360 KTTĐ Nam Bộ 2291 20431273985 9654971376 Vùng núi trung du Bắc Bộ 83 327245713 177353976 Tây Nguyên 69 916049026 156557263 ĐBSCL 132 1093959274 768178132 Nguồn: Vụ quản lý dự án - Bộ KH và ĐT Qua bảng số liệu ta thấy: Có sự mất cân đối khá lớn giữa các vùng, vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ chiếm một khối lượng khá lớn cả về vốn đầu tư, cả về số dự án ( chiếm 69,3% về dự án và 61,6% tổng vốn đầu tư cả nước), là địa bàn kinh tế năng động nhất cả nước và cũng thu hút được lượng vốn FDI lớn nhất cả nước. Tại vùng này, các dự án FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp với 1652 dự án và gần 13 tỷ USD, chiếm 70% số dự án gần 62% tổng FDI vào vùng. Lĩnh vực dịch vụ có 407 dự án và gần 6,59 tỷ USD, lĩnh vực nông – lâm nghiệp có 233 dự án với 1,236 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo sau là vùng kinh KTTĐ Bắc Bộ và các vùng khác. Số liệu trên cho thấy phần nào vấn đề sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài theo vùng lãnh thổ và vấn đề kết hợp hoạt động này với việc khai thác tiềm năng trong nước đạt kết quả chưa cao. Đây cũng chính là vấn đề rất cần được quan tâm trong thời gian tới. - Sử dụng FDI góp phần tăng thu ngân sách và cải thiện cán cân thanh toán: + Hoạt động FDI trên bình diện tổng thể nền kinh tế đã góp phần quan trọng đối với vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh toán. Xuất khẩu là một trong những giải pháp tăng trưởng kinh tế, góp phần tăng thu nhập cho nền kinh tế để từ đó giải quyết các vấn đề xã hội. Theo quy luật các nước đang phát triển, cán cân thanh toán của các nước này luôn ở tình trạng thâm hụt. Do vậy, hoạt động FDI đã góp phần vào việc hạn chế phần nào đó tình trạng thâm hụt thông qua thặng dư xuất khẩu và chuyển vốn đầu tư vào nước tiếp nhận FDI. Thông qua FDI, hoạt động xuất khẩu của nước chủ nhà được kích hoạt, trở nên sôi động. Khởi đầu là việc xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp và khai khoáng, tiếp đến là các sản phẩm thuộc ngành công nghiệp cần nhiều lao động như dệt may, công nghiệp chế biến và sau đó là sản phẩm có hàm lượng tư bản cao như sản phẩm điện, điện tử, cơ khí,…Có thể nói FDI đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện chiến lược công nghiệp hóa theo hướng xuất khẩu của Việt Nam. FDI đã đóng góp phần tăng thu ngân sách của Nhà nước thông qua việc trực tiếp đóng thuế và các khoản phí có tính chất thuế, nếu thời kỳ 1991-1195 nước ta đạt trên 1,12 tỷ USD, thời kỳ 1996-2000 đạt trên 10,6 tỷ USD, tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước và chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Cụ thể ta có bảng 3 sau đây: Bảng 3: Cơ cấu giá trị xuất khẩu hàng hóa theo khu vực kinh tế ( kể cả xuất khẩu dầu thô ) Đơn vị: (%) 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Khu vực kinh tế nhà nước 73.0 70.0 65.0 65.7 59.4 53.0 54.8 52.9 49.6 45.3 42.8 Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 27.0 29.7 35.0 34.3 40.6 47.0 45.2 47.1 50.4 54.7 57.2 Nguồn: 1.2. Tác động của FDI về mặt xã hội. - Sử dụng FDI góp phần tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động. Vấn đề việc làm cho người lao động hiện đang được xã hội quan tâm và coi đây là nhân tố góp phần làm cho xã hội phát triển công bằng và bền vững. Mọi người có việc làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, các vấn đề xã hội được giải quyết, nâng cao đời sống cho mọi tầng lớp dân cư. Cùng với việc làm lao động được hưởng tiền công mà các doanh nghiệp chi trả. Thông thường mức tiền công do các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài trả cao hơn mức tiến lương trung bình của xã hội, do đó người lao động trong các doanh nghiệp này sẽ có thu nhập cao hơn, kéo theo mức tiêu dùng và tiết kiệm lớn hơn so với người lao động ở một số khu vực khác. Đây là yếu tố thúc đẩy mặt bằng tiền công trong nước tăng lên, tạo điều kiện cho các ngành kinh tế phát triển. Ở Việt Nam, số lao động làm trong khu vực này tăng lên. Khu vực này không chỉ thu hút được nhiều lao động trực tiếp mà còn thu hút hàng chục vạn lao động gián tiếp trong xây dựng, cung ứng dịch vụ…và một số lượng lao động lớn hơn thế trong ngành công nghiệp phụ trợ, các dịch vụ đầu vào và đầu ra. Để cụ thể ta có bảng 4 như sau: Bảng 4: Số lượng việc làm do khu vực FDI tạo ra giai đoạn 1991-2005. Đơn vị: Nghìn người Năm 1991 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Giải quyết việc làm 200 220 250 270 296 379 439 472 520 631 673 Nguồn: Ngoài ra, các dự án FDI thông qua lương mang lại thu nhập cho người lao động, góp phần cải thiện đời sống. Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và đầu tư năm 2003, lương bình quân lao động Việt Nam trong các dự án FDI là 70-80USD/tháng, của kỹ sư là 220-250 USD/tháng, của cán bộ quản lý khoảng 490-510 USD/tháng. Tổng thu nhập của người lao động của các dự án FDI hàng năm trên 500 triệu USD. 2. Đánh giá những thành tựu và hạn chế của FDI ở Việt Nam thời gian qua. 2.1. Một số thành tựu chủ yếu. - FDI bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Trong 20 năm qua, FDI đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ tuật cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn. Tính đến cuối năm 2005, cả nước đã cấp phép cho hơn 7000 dự án FDI với tổng số vốn đầu tư đăng ký tới 65,2 tỷ USD (kể cả vốn đầu tư tăng thêm mở rộng sản xuất), nếu tính các dự án còn hiệu lực thì thì có 6030 dự án với tổng vốn đầu tư trên 51 tỷ USD. Theo số liệu thống kê hàng năm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thời kỳ 1991-1995, vốn FDI chiếm 30% tổng vốn đầu tư xã hội, thời kỳ 1996-2000 vốn FDI thực hiện chiếm 23,9%, từ 2001- 2005 chiếm 17,7%. Mặc dù sự đóng góp dòng vốn FDI có xu hướng giảm do sự gia tăng của đầu tư tư nhân nhưng nó đã góp phần tích cực vào việc khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tạo tiền đề quan trọng trong quá trình thực hiện CNH, HĐH đất nước. Bảng 5: Tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - FDI đóng góp tích cực vào tăng thu ngân sách nhà nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Kinh tế Việt Nam trong những năm qua có tốc độ tăng trưởng cao, liên tục một phần là do có sự đóng góp tích cực của vốn FDI. FDI đã góp phần tăng thu ngân sách của Nhà nước thông qua việc trực tiếp đóng thuế và các khoản phí có tính chất thuế, nếu thời kỳ 1991-1995 chưa đến 400 triệu USD, thì thời kỳ 1996-2000 gần 1,5 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước đó. Trong những năm gần đây mức tăng bình quân hàng năm các khoản nộp ngân sách của doanh nghiệp FDI là 24%. Năm 2001 số thu ngân sách của khu vực FDI chiếm 7%, năm 2002 chiếm 8% năm 2003 chiếm 9%, năm 2004 là 800 triệu USD, chiếm 10% tổng thu ngân sách cả nước. Tỷ lệ vốn FDI đóng góp vào GDP cũng không ngừng được tăng lên qua các năm. Năm 1992, tỷ lệ đóng góp của FDI vào GDP là 2% thì đến năm 1996 là 7,4% tăng gấp hơn 3 lần. Cũng năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam đạt 9.5%, cao nhất từ trước đến nay. Sự tăng trưởng này có sự đóng góp của FDI. Từ năm 2000-2005, tỷ lệ đóng góp của FDI trong GDP ngày càng tăng (năm 2004 là 15,2% và năm 2005 là 15,9%), và tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn này cũng tăng cao. Giữa vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế luôn có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Đầu tư nhiều và có hiệu quả sẽ có tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Ngược lại, khi tăng trưởng kinh tế nhanh sẽ tạo được lòng tin đối với các chủ đầu tư. Số liệu trong bảng 6 dưới đây cho thấy tỷ trọng FDI trong GDP ngày càng tăng có ý nghĩa quan trọng trong việc đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Bảng 6: Tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI đối với GDP, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ 1992-2005 Nguồn: Niêm giám thống kê các năm và Bộ Kế hoạch và Đầu tư - FDI góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu và mở rộng thị trường. Trong thập kỷ 1990 trở lại đây, mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bình quân hàng năm khoảng trên 20%, chiếm tỷ trọng gần 30% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước, trong đó toàn bộ dầu thô xuất khẩu là của các doanh nghiệp liên doanh. Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn FDI tăng cao hơn tỷ trọng xuất khẩu của khu vực trong nước từ năm 2004. Năm 2005 tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn FDI chiếm 57,4% với tổng giá trị đạt 11130 triệu USD, trong khi đó tỷ trọng xuất khẩu của khu vực trong nước là 42,6%. Trừ dầu khí, các doanh nghiệp FDI đã tạo ra giá trị xuất khẩu 1,12 tỷ USD trong thời kỳ 1991-1995, trên 10,6 tỷ USD trong thời kỳ 1996-2000, tăng hơn 8 lần, chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Riêng năm 2004, xuất khẩu của khu vực FDI (không kể dầu thô) là 8,6 tỷ USD, tăng 35,6% so với năm 2003. FDI chiếm tỷ trọng đáng kể trong xuất khẩu một số mặt hàng công nghiệp: 100% dầu thô, 84% sản phẩm điện tử, máy tính và linh kiện, 42% dày da, 25% may mặc. Một số dự án FDI có kim ngạch xuất khẩu lớn như công ty Fujitsu năm 2000 xuất khẩu 586 triệu USD, những năm gần đây bình quân 300 triệu USD/năm, công ty Canon tại Hà Nội xuất khẩu khoảng 200 triệu USD/năm, công ty giầy Pouchen, Taekang xuất khẩu 120 triệu USD/năm. Khu vực FDI trong lĩnh vực khách sạn, du lịch đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước gia tăng xuất khẩu tại chỗ. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu so với doanh thu của các doanh nghiệp FDI đã thay đổi theo hướng tích cực: Thời kỳ 1991-1995 là 30%, thời kỳ 1996-2000 là 43% và 2001-2005 khoảng 42%. Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt Nam ngày càng tăng chủ yếu là do lợi thế về vốn, công nghệ, kỹ thuật và có nhiều kinh nghiệm trong quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI cũng tăng nhanh từ 2,3 tỷ USD của thời kỳ 1991-1995 lên 15,3 tỷ USD của thời kỳ 1996-2000 và khoảng 39 tỷ USD của năm 2001-2005. Vẫn có tình trạng nhập siêu gia tăng trong khu vực FDI, chủ yếu là nhập khẩu máy móc, thiết bị và nguyên liệu, phụ tùng để sản xuất hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp. Ngoài ra, khu vực có vốn FDI còn góp phần mở rộng thị trường ở nhiều nước trên thế giới. Hiện nay, hàng hoá của Việt Nam đã có mặt trên thị trường 160 nước trên thế giới, trong đó thị trường châu Âu chiếm gần 63% tổng kim ngạch xuất khẩu và gần 70% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Năm 1997, các nước ASEAN đã chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu và 30% tổng kim ngạch nhập khẩu. Ngoài xuất khẩu, các doanh nghiệp có vốn FDI còn sản xuất ra nhiều hàng hoá cung ứng cho thị trường trong nước, góp phần thay thế nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ. - FDI góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ. Một trong những lĩnh vực thu hút vốn đầu tư giành được sự quan tâm rất lớn từ các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp là việc tiếp nhận kỹ thuật và công nghệ thông qua hoạt động FDI. Đây là điểm thể hiện ưu thế nổi bật của hoạt động FDI so với các hình thức hoạt động khác. Chính vì vậy, trong những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đi đầu trong lĩnh vực tiêu chuẩn hoá công nghệ và chất lượng. Thông thường việc chuyển giao công nghệ tiên tiến và hiện đại nhất được thực hiện ở các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Các công nghệ loại 2 và loại 3 thì thường chuyển giao thông qua các doanh nghiệp liên doanh hoặc bán bản quyền cho các công ty trong nước. Theo đánh giá của Bộ kế hoạch và Đầu tư thì phần lớn trang thiết bị do các đối tác đầu tư vào Việt Nam là đồng bộ, có trình độ bằng hoặc hơn các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và thuộc loại phổ cập ở các nước công nghiệp trong khu vực. Hoạt động chuyển giao công nghệ đã tạo ra nhiều sản phẩm mới, kiểu dáng đẹp, chất lượng đạt tiêu chuẩn Việt Nam và một số đạt tiêu chuẩn quốc tế. Các dự án công nghệ kỹ thuật cao chủ yếu đầu tư trong các khu công nghiệp. Tính đến đầu năm 2006, Ban quản lý khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh đã cấp 17 giấy phép đầu tư với tổng số vốn là 712,5 triệu USD và 933.6 tỷ đồng. Lĩnh vực đầu tư là các ngành: sản xuất linh kiện của máy tính và điện tử, chế phẩm sinh học, dược phẩm, phần mềm ứng dụng và dịch vụ khác... Tháng 2 năm 2006, tập đoàn Intel đã được chính phủ trao giấy phép đầu tư dự án nhà máy sản xuất bộ vi xử lý trị giá 605 triệu USD đặt tại khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh. Dự kiến giai đoạn đầu nhà máy chế tạo chip (300 triệu USD) sẽ thu hút khoảng 2.000 lao động nội địa. Bên cạnh đó cuối tháng 1/2006, Nidec (tập đoàn lớn của Nhật trong lĩnh vực cơ khí ) đã quyết định nâng vốn đầu tư tại khu công nghệ cao từ 500 triệu USD lên tới 1 tỷ USD trong những năm tới. Đó là chưa kể đến những dự án công nghiệp kỹ thuật cao đầu tư như Công ty trách nhiệm hữu hạn Canon Việt Nam, Mabuchi Motor, Orion Hanel. Nhờ nâng cao chất lượng thiết bị và công nghệ, không chỉ các doanh nghiệp có vốn FDI mà các doanh nghiệp trong nước cũng được thúc đẩy phát triển công nghệ, góp phần tích cực vào nâng cao năng lực sản xuất cho các ngành kinh tế then chốt và tăng sức cạnh tranh của một số sản phẩm của Việt Nam trong khu vực và thế giới. - FDI góp phần tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động Ở Việt Nam, số lượng người làm việc trong khu vực FDI ngày càng tăng qua các năm. Thực tế nhiều dự án đầu tư nước ngoài đã sử dụng lao động tại chỗ như trong các lĩnh vực công nghiệp chế biến, lắp ráp, điện tử, văn phòng, du lịch. Đặc biệt là trong ngành công nghiệp nhẹ, tuy quy mô đầu tư không lớn như trong công nghiệp nặng nhưng giải quyết được số lượng lao động nhiều hơn. Tính đến cuối năm 2004, số lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 82%, ngành nông, lâm, thuỷ sản chiếm 10% và ngành dịch vụ là 8%. Trong đó lực lượng lao động nữ trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm đại đa số, thường chiếm trên 60% trong tổng số lao động. Năm 2000, tổng số lao động nữ trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 60,4%, năm 2001: 62,83% và năm 2002: 64,89%. Riêng đối với các khu công nghiệp, số lượng lao động làm cho các doanh nghiệp có vốn FDI chiếm trên 50% so với cả nước. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ riêng năm 2004, tổng số việc làm do các doanh nghiệp FDI tại các khu công nghiệp trong phạm vi cả nước là 350 nghìn người. Trong đó vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc là 115 nghìn người. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là 192 nghìn người và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung là 78 nghìn người. Điều này góp phần tích cực nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở một nước đông dân và dồi dào lao động như ở nước ta. Ngoài 350.000 người lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp FDI trong các khu công nghiệp và khu chế xuất còn kéo theo lao động làm công tác dịch vụ, khoảng 250.000-300.000 người. Như vậy số người làm việc nhờ tác động của các doanh nghiệp FDI tại các khu công nghiệp, khu chế xuất khoảng 600.000-650.000 người. Thu nhập bình quân của lao động Việt Nam trong khu vực FDI nhìn chung cao hơn ở khu vực trong nước. Tuy nhiên, thu nhập của lao động trong khu vực FDI cũng tuỳ thuộc vào ngành nghề, trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật, do vậy thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp này có có sự chênh lệch tương đối lớn. Người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao có thu nhập cao gấp 3,5 lần so với lao động phổ thông và cao gấp 2,88 lần so với lao động có trình độ sơ cấp. Các vị trí quản lý cao cấp hiện có mức thu nhập bình quân 10,231 triệu đồng/người/tháng, gấp 9,86 lần so với mức thu nhập trung bình của lao động phổ thông và gấp 2,29 lần so với lao động quản lý bậc trung. Những ngành có giá trị gia tăng thấp như dệt may, giầy da, giày thể thao…có thu nhập trung bình khoảng từ 1-1,2 triệu/tháng trong khu vực FDI trong khi đó ở khu vực trong nước là khoảng từ 600.000-700.000 đồng/tháng. Mặc dù thu nhập của lao động trong khu vực FDI có sự chênh lệch nhưng đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao đời sống của người lao động và làm tăng sức mua trên thị trường. 2.2. Một số hạn chế chủ yếu và nguyên nhân. 2.2.1. Những hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Một là: FDI theo vùng còn bất hợp lý. Mặc dù Chính phủ đã có nhiều chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào những vùng kinh tế trọng điểm và các vùng sâu, vùng xa (Quyết định 53/1999/QĐ-TTg ngày 26/3/1999) nhưng trên thực tế đầu tư giữa các vùng có sự chênh lệch khá lớn. Riêng vùng trọng điểm kinh tế phía Nam và các vùng phụ cận (thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa-Vũng Tàu) chiếm 48,7% tổng số vốn FDI của cả nước. Một số tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng (Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Vình Phúc, Quảng Ninh) chiếm 25,2% tổng số vốn đăng ký của cả nước. Vùng Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long chiếm tỷ lệ khiêm tốn là 2,4% và các tỉnh khu bốn cũ chiếm tỷ trọng thấp nhất là 2,2% trong tổng vốn thu hút FDI vào Việt Nam. Điều này cho thấy sự mất cân đối quá lớn giữa các, địa phương, vùng, miền trong việc thu hút FDI. Hai là: nảy sinh xung đột xã hội như lợi ích giữa chủ và thợ, xung đột giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI...dẫn đến tình trạng đình công ở nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Một số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài không thực hiện đúng quy định của pháp luật về sử dụng lao động là người Việt Nam như trả lương thấp hơn mức lương tối thiểu do nhà nước quy định, không thực hiện đúng chế độ bảo hiểm xã hội, kéo dài thời gian lao động... Ba là: nhiều dự án sử dụng FDI bị đổ bể, không hiệu quả vì nhiều lý do không thể triển khai, bị các cơ quan chức năng rút phép đầu tư. 2.2. Một số nguyên nhân cơ bản. Một là: môi trường đầu tư nước ta đã được cải thiện nhiều nhưng vẫn còn không ít khó khăn, hạn chế, chậm điều chỉnh so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh để thu hút FDI diễn ra rất gay gắt. Theo đánh giá của UNC-TAD, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong hoạt động thu hút FDI nhưng so với các nước như Singapore, Trung Quốc thì hoạt động thu hút FDI còn thua kém... Hai là: hệ thống luật pháp, chính sách liên tục được sửa đổi bổ sung, hoàn thiện nhưng vẫn chưa đồng bộ, hay thay đổi. Việt Nam đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với thông lệ quốc tế song hệ thống pháp luật yếu kém vẫn là một bất lợi của nước ta trong thiệc thu hút và sử dụng hiệu quả FDI. Ba là: cơ sở hạ tầng còn yếu kém, dẫn đến chi phí đầu vào cao. So với một số nước trong khu vực, lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong thu hút FDI đang giảm dần do chi phí đầu vào cao, các thủ tục rườm rà. Ở Việt Nam vẫn còn nhiều khoản chi phí cao như: tiền thuê văn phòng, cước viễn thông quốc tế,... Bốn là: công tác đầu tư đã có nhiều cố gắng nhưng chưa quảng bá được hình ảnh, môi trường đầu tư của Việt Nam đến thế giới. Các thông tin xúc tiến đầu tư chưa thể hiện đầy đủ cái chúng ta cần cũng như chưa đưa được điều mà các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn. Kinh phí tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư còn hạn chế. Năm là: chất lượng nguồn nhân lực thấp. Hầu hết lao động của Việt Nam trong các doanh nghiệp nước ngoài chủ yếu là lao động giản đơn, thiếu kỹ năng, trình độ chuyên môn, đặc biệt là thiếu lao động tay nghề cao, trình độ lao động không đáng ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. Chẳng hạn một số khu công nghiệp đã phải thành lập các cơ sở đào tạo nghề như: trường dạy nghề Dung Quất, trung tâm dạy nghề Việt Nam – Singapore, trường dạy nghề Thừa Thiên Huế ( thuộc khu công nghiệp Phú Bài...) Chương III. Giải pháp I. Định hướng sử dụng FDI giai đoạn 2006-2010. Dự thảo lần 3 chương trình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2006-2010 được Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn tất. Theo đó, dự kiến tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI) đăng ký cấp mới và tăng vốn trong 5 năm 2006-2010 đạt 30-34 tỷ USD, trong đó vốn đăng ký cấp mới đạt 22-24 tỷ USD, vốn tăng thêm đạt 8-10 tỷ USD. Vốn FDI thực hiện trong giai đoạn này dự kiến đạt khoảng 24-25 tỷ USD, trong đó FDI trong ngành công nghiệp chiếm 55%, dịch vụ chiếm 37% và nông – lâm – ngư nghiệp chiếm 8%. Về định hướng lĩnh vực sử dụng FDI, khuyến khích sử dụng FDI vào những ngành tạo ra ra giá trị gia tăng cao như: công nghệ thông tin, điện tử, lắp ráp và chế tạo máy, ngành kinh doanh bất động sản, khách sạn và du lịch, sử dụng FDI để phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ... Nâng cao hiệu quả sử dụng của một đồng vốn FDI, sử dụng FDI phải hướng vào việc phát huy lợi thế so sánh của từng vùng lãnh thổ, từ đó tạo phản ứ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36139.doc
Tài liệu liên quan