MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I :MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHU CÔNG NGHIỆP VÀ KHU CHẾ XUẤT 3
1. Khái niệm, đặc điểm của KCN, KCX 3
1.1 Khái niệm 3
1.2 Đặc điểm của KCN, KCX 3
1.2.1Về tính chất hoạt động 3
1.2.2 Về cơ sở hạ tầng kĩ thuật 4
1.2.3 Về tổ chức quản lý 4
1.3 Sự khác nhau giữa KCN ,KCX 4
2. Vai trò của KCN, KCX 5
2.1- Điạ chỉ thu hút vốn đầu tư mạnh mẽ 5
2.2-KCN,KCX góp phần tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 6
2.3-Góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và xoá đói giảm nghèo 7
2.4-Nâng cao năng lực công nghệ quốc gia 8
2.5. KCN đã góp phần nhất định vào việc bảo vệ môi trường sinh thái. 8
2.6. Các KCN có tác dụng lan toả tích cực tới trình độ phát triển của các vùng, các ngành, lĩnh vực 9
2.7.Thúc đẩy phát triển kinh tế ở địa phương và thúc đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá 10
CHƯƠNG II- THỰC TRẠNG THU HÚ ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP VÀ KHU CHẾ XUẤT 11
1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của các KCN, KCX 11
2.Thực trạng thu hút đầu tư vào các KCN, KCX 12
3.Hạn chế và nguyên nhân tồn tại 15
a. Hạn chế của các KCN, KCX 15
Về phân bố 15
Tỉ lệ lấp đầy 17
Hiệu quả đầu tư 18
Cơ cấu đầu tư 19
Lao động trình độ cao 20
b. Nguyên nhân 20
Qui hoạch 20
Công tác xúc tiến đầu tư còn hạn chế 21
Thủ tục hành chính 23
Đền bù, giải toả mặt bằng 23
Cơ sở hạ tầng công nghệ 23
CHƯƠNG III- MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KCN, KCX TRONG THỜI GIAN TỚI Ở VIỆT NAM 25
1.Kinh nghiệm của nước ngoài thu hút đầu tư vào KCN, KCX 25
2.Định hướng, mục tiêu và triển vọng phát triển KCN, KCX ở Việt Nam thời gian tới 27
3.Giải pháp cho Việt Nam 28
3.1Cải thiện môi trường đầu tư 29
3.1.1 Nâng cao chất lượng quy hoạch các khu công nghiệp. 29
3.1.2 Thành lập mới có chọn lọc các khu công nghiệp gắn với mục tiêu phát triển công nghiệp theo vùng. 30
3.1.3 Phát triển cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp một cách đồng bộ. 31
3.1.4 Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề. 32
3.1.5 Cải cách thủ tục hành chính 33
3.1.6 Phát triển KCN, KCX kết hợp chặt chẽ với bảo vệ môi trường. 34
3.1.7 Hoàn thiện mô hình tổ chức, quản lý khu công nghiệp. 35
3.2 Đẩy mạnh vận động và xúc tiến đầu tư vào các khu công nghiệp. 36
4. Một số giải pháp cụ thể với từng nguồn vốn 37
4.1 Đối với thu hút đầu tư nước ngoài 37
4.2 Đối với thu hút đầu tư trong nước 40
KẾT LUẬN 42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 43
45 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1928 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp - khu chế xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó quy mô vốn lớn nhất được cấp phép trong năm 2006 phải kể tới dự án nhà máy sản xuất thép của Tập đoàn Posco (Hàn Quốc) tại Khu công nghiệp Phú Mỹ 2, với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 1,2 tỷ USD. Cũng chính dự án này đã đẩy tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lên vị trí thứ nhất trong bảng xếp hạng các địa phương về thu hút FDI với tổng vốn tiếp nhận gần 1,7 tỷ USD.
Cũng có thể kể đến dự án xây dựng nhà máy sản xuất linh kiện điện tử do Tập đoàn Meiko của Nhật đầu tư với số vốn 300 triệu USD tại Khu công nghiệp Phùng Xá (Hà Tây), đây cũng là dự án lớn nhất từ trước đến nay tại tỉnh này.
Đối với dự án đăng ký vốn bổ sung, cũng không thiếu vắng những dự án đang hoạt động tại khu công nghiệp của cả nước. Đơn cử, Công ty Công nghiệp Gốm Bạch Mã tại Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore (Bình Dương) tăng 150 triệu USD (chỉ đứng sau dự án tăng vốn của Intel), Công ty Canon Việt Nam tăng 70 triệu USD đầu tư nhà máy sản xuất máy in ở Khu công nghiệp Tiên Sơn (Bắc Ninh), Công ty Fomosa ở Khu công nghiệp Nhơn Trạch 3 (Đồng Nai) tăng 66,4 triệu USD
3.Hạn chế và nguyên nhân tồn tại
a. Hạn chế của các KCN, KCX
Những thành tựu phát triển các KCN, KCX trong thời gian qua đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề cho giai đoạn tiếp theo. Trong thời gian qua KCN, KCX đã thể hiện vai trò không thể thay thế của mình trng quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá của đất nước. Tuy nhiên do mới thành lập và phát triển trong 1 thời gian chưa được lâu chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm và thiếu cơ sở vật chất nên các KCN, KCX của chúng ta còn bộc lộ một số khuyết điểm, cản trở sự phát triển bền vững của nước ta. Cụ thể ở một số mặt như sau:
Về phân bố
Thời gian qua chúng ta đã thành lập quá nhiều KCN, KCX ở cùng một vùng trong khi khả năng thu hút đầu tư hạn chế, không phát huy được hiệu quả vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kĩ thuật cho các KCN. Điều này vô hình chung đã hình thành nên các KCN, KCX có chức năng tương tự nhau ở các địa phương dẫn tới tình trạng cạnh tranh gay gắt, tự phát, chạy đua theo “phong trào”, làm cho hiệu quả sự dụng vốn đầu tư thấp, không khai thác được lợi thế riêng có của các địa phương trong việc phát triển các KCN, KCX. Không chỉ những thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM, mà nhiều tỉnh, thành đang rơi vào “một cuộc đua” thành lập, thu hút đầu tư vào KCN, KCX. Nhiều tỉnh khá “hào phóng” trong việc cắt đất nông nghiệp để thành lập KCN, KCX, đồng thời đưa ra những chính sách ưu đãi riêng, chấp nhận dùng ngân sách địa phương bù lỗ. Hậu quả là, ưu đãi lớn, nhưng các KCN, KCX của cả nước mới chỉ lấp đầy khoảng trên 60%. Có những KCN, KCX đã được rào lại nhưng chưa sử dụng, đất bỏ hoang, trong khi nông dân thiếu đất trồng trọt vì đất đó đã được quy hoạch thành đất công nghiệp.
Ngay tại Hà Nội, theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho tới thời điểm này đã thành lập 6 KCN tập trung với mô hình chủ đầu tư rất đa dạng, gồm các hình thức liên doanh (KCN Thăng Long, Nội Bài, Sài Đồng A), doanh nghiệp nhà nước (KCN Sài Đồng B), công ty 100% vốn nước ngoài (KCN Hà Nội- Đài Tư). Thế nhưng, thực tế chỉ có 3 KCN đi vào hoạt động, đón các nhà đầu tư vào sản xuất kinh doanh (KCN Thăng Long, Sài Đồng B, Nội Bài). Các KCN còn lại chưa triển khai được hoặc chậm triển khai do một số nguyên nhân như chủ đầu tư không có năng lực tài chính, thiếu kinh nghiệm xây dựng hạ tầng kỹ thuật nội bộ. Hay để thu hút các dự án đầu tư vào các KCN, Thái Nguyên thực hiện ưu đãi đầu tư vào KCN Sông Công đối với các dự án tham gia lấp đầy 30 ha đất công nghiệp đầu tiên, dự án xuất khẩu từ 50% sản phẩm trở lên, dự án trả trước trên 90% tiền thuê lại đất và phí sử dụng hạ tầng, dự án sử dụng trên 100 lao động địa phương. Dự án nào đáp ứng đủ 5 điều kiện ưu đãi đầu tư thì được hưởng ưu đãi tối đa là giảm 90% tiền thuê lại đất trong 4 năm và miễn phí sử dụng hạ tầng trong 7 năm...Có thể nói, việc thành lập các KCN, KCX là chủ trương đúng đắn, nhưng tình trạng “ganh đua” giữa các địa phương, với những ưu đãi “xé rào” để thu hút đầu tư, làm ảnh hưởng tới ngân sách nhà nước là một thực tế đáng báo động. Điều đáng nói là, nhiều địa phương chưa tự cân đối được ngân sách, vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, KCX có nguồn gốc từ ngân sách Trung ương, nên nếu các tỉnh cứ tiếp tục dùng ngân sách bù lỗ để thu hút đầu tư vào KCN, KCX thì rốt cuộc ngân sách Trung ương phải è lưng ra... gánh nợ.
Hơn nữa, giữa công tác quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch chưa ăn khớp với nhau. Nhiều quy hoạch đã được duyệt, thậm chí đã đi vào xây dựng kết cấu hạ tầng thì địa phương lại thay đổi quy hoạch về diện tích, ranh giới, gây ra sự hoài nghi về tính ổn định của môi trường đầu tư và hiệu lực của các cơ quan quản lý nhà nước cấp bộ, ảnh hưởng xấu đến thu hút nguồn vốn đầu tư vào các KCN, KCX .
Tỉ lệ lấp đầy
Theo báo cáo của Chính phủ, đến cuối năm 2005 cả nước có 130 Khu công nghiệp và khu chế xuất với tổng diện tích 26.520 ha do Chính phủ quyết định thành lập. Ngoài ra, còn có trên 200 cụm công nghiệp do Uỷ ban nhân dân các tỉnh thành lập với tổng diện tích 13.991 ha và trên 10.000 ha đất các khu kinh doanh tập trung khác. Tổng cộng cả 3 hạng mục, “ngốn” hết 50.511 ha đất nông nghiệp, phần lớn bờ xôi, ruộng mật, làm ăn dễ dàng, giao thông thuận lợi. Tại nhiều địa phương, đặc biệt là các khu đô thị lớn, hàng loạt dự án được phác thảo, toàn những ý tưởng tốt đẹp, song vì nhiều lý do dự án không triển khai được, hoặc triển khai chậm, “treo” ngắn thì một vài năm, dài thì, có khi hơn cả chục năm; có những dự án triển khai không hiệu quả để lại nỗi xót xa, tiếc nuối cho hàng ngàn, hàng vạn nông dân khát khao một mảnh đất để trồng trọt. Thiếu việc làm ắt dẫn đến nghèo đói và theo đó là các tệ nạn xã hội phát triển, tệ nạn cờ bạc, trộm cắp, nghiện hút năm sau nhiều hơn năm trước.Theo thống kê của Bộ Tài nguyên – Môi trường: Tỷ lệ lấp đầy các KCN, KCX trên toàn quốc chỉ đạt 50%; nghĩa là còn 50% diện tích đất bỏ trống trong tình trạng để cho cỏ mọc. Hiện có 12 KCN, KCX với tổng diện tích 2000 ha được thành lập từ trước năm 1998, song đến nay tỷ lệ lấp đầy vẫn chưa “quá bán”.
Một vài ví dụ điển hình như là khu chế xuất Hải Phòng có quy mô 150 ha, thành lập từ năm 1997, nhưng đến nay chỉ cho thuê được 1 ha. Cũng tại Hải Phòng, Khu công nghiệp Nomura với diện tích 153 ha, thành lập từ năm 1994, nay mới cho thuê được 39 ha. Như vậy, hơn 10 năm qua Hải Phòng đã bỏ trống 263 ha đất trong KCN, KCX . Thủ đô Hà Nội cũng không chịu thua, Khu công nghiệp Đài tư, Daewoo Hanel quy mô trên 200 ha, thành lập từ những năm 1995 – 1996 nhưng đến nay mới cho thuê được 5 ha. Hà Nội vốn là thành phố được xếp vào hàng “4 Đ”: đất đai đắt đỏ. Vậy mà, chỉ mới qua 2 dự án, 195 ha đất đã bị bỏ trống cả chục năm nay. Tại Bà Rịa – Vũng Tàu, khu công nghiệp Mỹ Xuân B1 quy mô 226 ha thành lập từ năm 1996, nay cũng mới cho thuê được 20 ha.
Hiệu quả đầu tư
Dù đã trải qua 16 năm hình thành và phát triển, nhưng các KCN, KCX chỉ thực sự mới phát triển mạnh trong khoảng 10 năm gần đây. Tuy doanh thu và xuất khẩu của các khu công nghiệp này tốc độ tăng bình quân lên đến 31,9% / năm ở thời kì 2001-2005, cao gấp đôi so với mức tăng trưởng công nghiệp của cả nước. Các doanh nghiệp này có mức doanh thu/ lao động bình quân ở mức khá cao, trên 15.000USD/ người; mức xuất khẩu/ lao động cũng đạt mức trên 7.000 USD/người. Tuy nhiên, những năm gần đây cả hai chỉ tiêu này đều có xu hướng giảm dần
Doanh thu và kim ngạch xuất khẩu của các khu công nghiệp Việt Nam
TT
chỉ tiêu
ĐVT
1996
2000
2002
2004
2005
1
Doanh thu KCN
Triệu USD
500
3350
5600
1187
13425
-
tốc độ tăng trưởng
%
100
112
124.4
115.5
120
2
Xuất khẩu KCN
Triệu USD
421
2170
3200
4949
6137
-
Xuất khẩu KCN/ Tổng giá trị XK cả nước
%
5
14,98
19,36
19
20
3
Số lao động luỹ kế
1000 người
201
370
706
953
-
Tăng tương đối
%
-
45,1
38,16
35,00
4
Doanh thu/ lao động
1000 USD/ng
16,67
15,14
15,85
14,09
5
Xuất khẩu/ lao động
1000USD/ ng
10,8
8,65
7,01
6,44
Nguồn : Tính toán từ số liệu của Bộ Kế hoạch - Đầu tư
Cơ cấu đầu tư
Cơ cấu đầu tư còn bất hợp lý, ngành nghề, lĩnh vực đầu tư chưa phong phú.
Trong những năm gần đây, xu hướng đầu tư vào khu công nghiệp KCN, KCX của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đang ngày càng tăng. Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất cập . Hầu hết các dự án hoạt động trong các KCN, KCX đều là các dự án công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, tiêu dùng như dệt, sợi, may mặc, da giày … Còn các dự án đầu tư vào những ngành công nghiệp nặng hay những ngành đòi hỏi công nghệ tiên tiến, hiện đại như điện, điện tử, vật liệu mới còn quá ít. Đây là vấn đề rất đáng quan tâm, bởi vì nếu không thu hút và phát triển được những ngành đòi hỏi công nghệ cao thìnước ta khó tránh khỏi tụt hậu vàvẫn là thị trường gia công cho nước ngoài. Hơn nữa, cơ cấu nguồn vốn đầu tư cũng đang nổi lên nhiều vấn đề đáng chú ý, đó là: 1- Trong những năm đầu phát triển các KCN, KCX , nguồn vốn đầu tư vào chủ yếu là nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, nhưng trong những năm gần đây, nguồn vốn này đang có xu hướng giảm sút. Quy mô bình quân của một dự án có chiều hướng năm sau thấp hơn năm trước. Thực tế này cho thấy, các KCN, KCX ở nước ta vẫn chưa đủ sức hấp dẫn những nhà đầu tư từ các công ty lớn, xuyên quốc gia, nắm những công nghệ gốc, sản xuất những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao. 2- Mặc dù có trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam, nhưng phần lớn là từ các nước châu Á (chiếm gần 80%), còn những quốc gia châu Âu, Bắc Mỹ - những nước có kỹ thuật cao, công nghệ hiện đại, hiện có vị trí khá khiêm tốn trong cơ cấu đầu tư vào khu vực này.còn th
Lao động trình độ cao
Hiện nay, đang tồn tại một nghịch lý trong việc cung cấp lao động cho các doanh nghiệp trong KCN, KCX . Các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển một lực lượng lớn lao động có kỹ thuật, tay nghề cao, có kỷ luật lao động tốt, thế nhưng đa số lực lượng lao động ở các địa phương không đáp ứng được những yêu cầu này. Theo số liệu điều tra, hầu hết lực lượng lao động ở các địa phương có KCN, KCX chưa đáp ứng được trình độ chuyên môn, không quen với môi trường lao động công nghiệp, chưa đáp ứng được những yêu cầu của công nghệ quản lý, sản xuất hiện đại của các doanh nghiệp trong KCN, KCX . Số lao động có trình độ đại học và trên đại học trong các khu công nghiệp, khu chế xuất chỉ chiếm 4,5% tổng số lao động, công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo chiếm 31%, lao động giản đơn chiếm tới 60%. Chính vì vậy, tỷ lệ thất nghiệp của các địa phương có KCN, KCX vẫn ở mức cao, trong khi các doanh nghiệp lại thiếu lao động.
b. Nguyên nhân
Qui hoạch thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu sự phối hợp giữa các ngành, các tỉnh trong 1 vùng kinh tế. Qui hoạch còn mang tính hình thức, chất lượng qui hoạch thấp.
Thứ nhất, quy hoạch các KCN, KCX chưa tính hết những điều kiện cần thiết, những căn cứ làm cơ sở để quy hoạch. Tình trạng các tỉnh, các địa phương đua nhau xây dựng KCN để “ lót ổ”, “ trải chiếu”cho các nhà đầu tư còn diễn ra khá mạnh mẽ nhưng kết quả lại không như mong muốn gây lãng phí lớn. Hậu quả là thành lập quá nhiều KCN, KCX ở cùng một vùng trong khi khăn năng thu hút đầu tư hạn chế, không phát huy được hiệu quả của vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kĩ thuật và xã hội cho các KCN, KCX, dự án vẫn chờ, người dân mất đất thất nghiệp, đồng vốn kém hiệu quả
Thứ hai công tác qui hoạch chưa giải quyết tốt quan hệ giữa quy hoạch- kế hoạch và thị trường, dẫn đến tình trạng coi trọng mặt này, xem nhẹ mặt kia.
Thứ ba, việc xác định vị trí địa lý quy hoạch khu công nghiệp thiếu chính xác. Vì vậy không khai thác được hết tiềm năng thế mạnh về lao động, nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ. Đặc biệt là vấn đề bảo vệ môi trường, đến khi khắc phục hậu quả gây lãng phí và hết sức tốn kém.
Thứ tư, quy hoạch khu công nghiêp chưa định rõ từ đầu về quy mô và loại hình. Trên cơ sở đó, xác định giới hạn, phạm vi mặt bằng tổ chức không gian kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật và hạ tầng xã hội. Tình trạng hiện nay một số khu công nghiệp phải điều chỉnh lại quy hoạch, đặc biệt là thiếu các dịch vụ cần thiết cho người lao động
Thứ năm, đường lối chiến lược, định hướng phát triển kinh tế đã được xác định nhưng thiếu hướng dẫn cụ thể bằng các văn bản có tính pháp quy. Cơ chế, chính sách đối với KCN, KCX chậm đổi mới. Năng lực cán bộ quy hoạch chưa đáp ứng đươc yệ cầu phát triển của các KCN, KCX , phân công, phân cấp chưa rõ ràng, hiệu quả quản lý của bộ máy thấp……
Công tác xúc tiến đầu tư còn hạn chế
Trong thời gian qua, cùng với việc xây dựng Danh mục dự án gọi vốn đầu tư làm cơ sở để tổ chức vận động, xúc tiến đầu tư trên địa bàn lãnh thổ, các Ban quản lý KCN các địa phương đã xây dựng được mô hình xúc tiến đầu tư có hiệu quả thông qua việc thành lập Trung tâm xúc tiến đầu tư với chức năng như một cơ quan một cửa, một đầu mối” nhằm hỗ trợ nhà đầu tư toàn bộ các khâu từ hình thành đến triển khai dự án, đồng thời chủ động tổ chức các chương trình vận động đầu tư ở trong và ngoài nước. Song trên thực tế, công tác này chưa được quan tâm một cách đúng mức, thiếu hệ thống tổ chức chung của Nhà nước đồng thời chưa có chính sách thoả đáng đối với hoạt động này. Xúc tiến đầu tư trước hết thuộc trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, mà trực tiếp là của các ban quản lý KCN. Nhưng do thiếu đầu mối quản lý chung, nên ngoài một số cuộc hội thảo về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong đó có lồng nội dung giới thiệu và vận động đầu tư vào các KCN đã được thành lập do một số bộ, ngành tổ chức ở trong và ngoài nước, thời gian qua công tác này được tiến hành gần như tự phát ở từng KCN, dựa chủ yếu vào sáng kiến chủ động và kinh phí của các công ty xây dựng hạ tầng KCN, trước hết là của chủ đầu tư nước ngoài trong các liên doanh xây dựng hạ tầng KCN.
Nội dung cũng như phương thức tổ chức vận động đầu tư còn quá đơn giản, nặng về tuyên truyền luật pháp, chính sách, chưa tập trung vào chương trình vận động theo từng đối tác, lĩnh vực hoặc dự án cụ thể nên hiệu quả chưa cao. Hoạt động vận động đầu tư tại một số nước, khu vực thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao, thương mại của Việt Nam ở nước ngoài còn hết sức hạn chế do không có cán bộ chuyên trách và kinh phí tổ chức; thiếu sự kết hợp giữa hoạt động ngoại giao, xúc tiến thương mại với vận động ĐTNN; các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước chưa được sử dụng có hiệu quả nhằm phục vụ cho hoạt động vận động đầu tư. Tài liệu tuyên truyền đầu tư chưa đầy đủ và không được biên soạn, phổ biến bằng phương tiện hiện đại nên không thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư.
Hệ thống thông tin về kinh tế, luật pháp, chính sách, đặc biệt là thông tin cơ hội và đối tác đầu tư chưa đầy đủ và trong một số trường hợp còn thiếu chính xác, độ tin cậy thấp. Điều này không chỉ làm hạn chế hiệu quả hoạt động tuyên truyền, vận động đầu tư mà còn gây nhiều khó khăn cho nhà đầu tư trong việc tìm hiểu thị trường và xác định cơ hội, đối tác đầu tư.
Vừa qua, việc xử lý đối với một số doanh nghiệp có vốn ĐTNN tiến hành chưa được tốt, đặc biệt cuối năm 2005 đã xảy ra các cuộc bãi công tự phát ở một số KCN thuộc các tỉnh miền Đông Nam Bộ, thêm vào đó việc phản ánh về hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong KCN trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng đã gây không ít hoài nghi về chính sách nhất quán và thiện chí của Nhà nước ta, tác động không tốt tới việc vận động, thu hút vốn ĐTNN trong bối cảnh hiện nay.
Thủ tục hành chính còn quá rườm rà, phức tạp. Các chính sách, luật lệ tính ổn định còn chưa cao, còn thường xuyên thay. Luật qui định còn thiếu rõ ràng, tính minh bạch, công khai còn hạn chế trong khi đó việc ban hành các nghị định, thông tư và văn bản hướng dẫn còn quá chậm, nhiều ban, bộ ngành cùng nhau ra luật gây sự chồng chéo và khó khăn cho nhà đầu tư
- Đền bù, giải toả mặt bằng còn nhiều bất cập, hạn chế, vừa phức tạp, vừa tốn nhiều thời gian, tiền bạc. Nhiều KCN, KCX còn phải mất 2 -3 năm mới đền bù giải toả xong. Điều này đã đẩy chi phí xây dựng tăng lên, dẫn đến giá cho thuê đất tăng cao, làm giảm tính hấp dẫn của KCN, KCX .
- Cơ sở hạ tầng công nghệ còn lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế nên chưa đáp ứng được sự đòi hỏi và yêu cầu của các nhà đầu tư. Cơ sở hạ tầng ngoài đường rào KCN, KCX thiếu đồng bộ(kém hơn so với CSHT trong KCN, KCX ). Các KCN, KCX đến nay việc xây dựng cơ sở hạ tầng còn sơ sài, nhiều khu vẫn chưa có khu xử lí nước thải, chưa cung cấp đầy đủ nước sạch cho doanh nghiệp sản xuất, hệ thống giao thông ngoài hàng rào không thuận tiện, điện không ổn định…Cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào thường xây dựng chậm hơn so với việc xây dựng hạ tầng kĩ thuật trong hàng rào. Ví dụ như một số KCN, KCX ở Hà Nội việc xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào như xây dựng đường giao thông, hệ thống thoát nước… luôn phụ thuộc vào quy hoạch phát triển của thành phố, nên thường chậm hơn so với tiến độ xây dựng hạ tầng kĩ thuật trong khu công nghiệp.
CHƯƠNG III- MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KCN, KCX TRONG THỜI GIAN TỚI Ở VIỆT NAM
1.Kinh nghiệm của nước ngoài thu hút đầu tư vào KCN, KCX
Để tạo môi trường thu hút đầu tư hấp dẫn hơn, ngoài những khu kinh tế mở hay khu kinh tế, Thái Lan không ngừng tìm tòi, áp dụng các mô hình mới. Thí dụ như ở 2 khu công nghiệp (KCN) của tập đoàn Amata là Amata Nakorn và Amata City, chính quyền Thái Lan cho thiết lập các khu mậu dịch tự do hay khu tự do. Những người sống trong khu mậu dịch tự do (free trade zone) trong một KCN có thể được mua hàng nhập khẩu miễn thuế. Khu tự do (free zone) thì chỉ dành cho hàng hóa và nguyên vật liệu. Hàng hóa, vật liệu từ nước ngoài đem vào khu tự do không cần đóng thuế. Chúng được dùng vào việc sản xuất, chế biến... để rồi được xuất khẩu lại. Nhà nước Thái Lan thu tiền kho chứa cũng như các phí liên quan đến việc chuyên chở, các thủ tục giấy tờ... Khác với khu mậu dịch tự do, trong khu tự do không có người ở. Các khu tự do thường nằm gần sân bay hoặc cảng nước sâu quốc tế để hàng hóa xuất - nhập khẩu được triển khai nhanh chóng.
Ngoài việc cải thiện các chính sách liên quan đến hoạt động của các công ty có vốn nước ngoài đã đầu tư để tạo nên hình ảnh tốt làm an tâm những xí nghiệp dự định đầu tư, kinh nghiệm các nước trong khu vực gồm Thái Lan, Malayxia, Trung Quốc, là luôn có những biện pháp tiếp thị tích cực hơn. Hồi cuối thập niên 1980, thế kỷ trước các lãnh đạo cấp cao nhất của Trung Quốc và Thái Lan thường xuyên tiếp xúc và đưa yêu cầu cụ thể với những công ty đa quốc gia lớn mà họ muốn đầu tư, đến xây dựng các nhóm cứ điểm công nghiệp. Họ quảng bá điểm khác biệt trong các KCN của đất nước mình, phát huy “giá trị gia tăng” của mình để thu hút đầu tư. Kết quả là hiện nay, ngoại ô Bangkok có một quần thể sản xuất xe hơi và bộ phận xe hơi lớn thứ 3 ở châu á. Còn Malayxia trở thành một trong những trung tâm sản xuất đồ điện gia dụng nhiều nhất thế giới. Trong thập niên 90 thế kỷ XX, có hiện tượng xí nghiệp Nhật chuyển các cơ sở sản xuất từ Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore sang Indonexia, Philipines và nhất là Trung Quốc. Không chỉ ở cấp trung ương, mà các địa phương của Trung Quốc cũng đã rất tích cực trong việc thu hút FDI. Chẳng hạn thị trấn Đông Hoản gần đặc khu kinh tế Thẩm Quyến, dù chỉ mới là thành phố nổi từ năm 1990, mà họ đã có văn phòng đại diện ở Tokyo để thu nhập thông tin thị trường và tìm đối tác đến đầu tư.
Giá cho thuê đất rẻ không phải là yếu tố quyết định trong việc thu hút đầu tư. Theo các chuyên gia Thái Lan, chìa khóa cho sự thành công của các KCN là vị trí, dịch vụ hạ tầng và năng lực quản lý. Xây dựng KCN trong khu vực nghèo rẻ hơn trong khu vực phát triển, có chí phí lao động, đất đai, vật liệu thấp hơn. Nhưng ngược lại, chi phí hạ tầng cơ sở và vận chuyển cao hơn, do đó các nhà đầu tư thường hướng đến khu vực phát triển hơn. Không phải ngẫu nhiên mà hiện nay trên thế giới, có tới 70-75% dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài di chuyển trong nội bộ các nước phát triển, chỉ có 25-30% di chuyển đến các nước đang phát triển và kém phát triển. Cuối cùng, điều kiện thu hút đầu tư nền tảng nhất mà Thái Lan và Trung Quốc áp dụng là chính sách thu hút FDI vào các KCN. Thái Lan đã cố gắng giảm thiểu chi phí đầu vào như nhiên liệu, nguyên liệu, vật liệu, cước viễn thông quốc tế, giá thuê đất chi phí lưu thông hàng hóa, nới lỏng chính sách thuế thu nhập của người nước ngoài... Còn Trung Quốc cũng đã từ bỏ quan điểm “nới lỏng đầu vào , quản lý chặt đầu ra” như một số nước khác, điều mà các nhà đầu tư nước ngoài gọi là “tiền hậu bất nhất”. Bài học kinh nghiệm trong thu hút đầu tư vào các KCN Trung Quốc là “trước cho, sau lấy”. Ngoài ra, tại Trung Quốc, sự phát triển và phân bổ các KCN được thực hiện theo nguyên tắc: lấp đầy và phát triển hiệu qủa các KCN đã có, khi nào các KCN lấp đầy 60-70% diện tích thì mới cho phép triển khai các KCN tiếp theo. Thời gian gần đây, Trung Quốc đã cắt giảm tới 500KCN, nhằm hạn chế việc sử dụng quá mức và lãng phí quỹ đất canh tác. Các hồ sơ xin duyệt và mở rộng các KCN bị chững lại và nhiều nơi đã rút hồ sơ lập KCN mới khỏi danh sách được phê duyệt
2.Định hướng, mục tiêu và triển vọng phát triển KCN, KCX ở Việt Nam thời gian tới
Mục tiêu phát triển chính của các KCN, KCX là tạo đà cho tăng trưởng công nghiệp, tạo nguồn hàng xuất khẩu, tạo việc làm và từng bước phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh tự phát, phân tán, tiết kiệm đất, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phát triển hạ tầng, hạn chế ô nhiễm do chất thải công nghiệip gây ra. Phát triển các KCN, KCX cũng để thúc đẩy các cơ sở sản xuất dịch vụ cùng phát triển, làm cơ sở cho việc phát triển các khu đô thị, phân bố hợp lý lực lượng sản xuất.
Theo Bố Kế hoạch và Đầu tư, việc phát triển các KCN, KCX thời gian tới nhằm vào các mục tiêu cơ bản là:
Hình thành hệ thống các KCN, KCX vừa và nhở tạo điều kiện phát triển khu vực nông thôn;
Nâng cao tỷ lệ lấp đầy các KCN, KCX , phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản lấp đầy diện tích các KCN, KCX đã được thành lập mới và mở rộng một cách có chọn lọc các KCN, KCX tập trung trên các vùng lãnh thổ, các địa phương với tổng diện tích tăng thêm khoảng 5.000 km2
Tăng tỷ lệ đóng góp của các KCN, KCX vào tổn giá trị sản xuất công nghiệp từ mức 26% hiện nay lên khoảng 35% vào năm 2010
Căn cứ tình hình thực tế, dự báo về tình hình thực hiện và triển vọng thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào các KCN, KCX như sau
Triển vọng đầu tư vào các KCN, KCX hiện nay là khá sáng sủa. Đối với đầu tư trong nước, Luật Doanh nghiệp thống nhất 2005 tiếp tục phát huy hiệu quả và Luật đầu tư chung 2006 được đưa vào áp dụng trong thực tiễn, được đánh gía là có tiềm năng to lớn. Đó là chưa kể nguồn kiều hối với mức tăng trưởng bình quân kỷ lục 22%- giai đoạn 2001-2004
Theo dự báo, những lĩnh vực có triển vọng hơn trong việc thu hút đầu tư vào các KCN, KCX trong 5 năm tới sẽ là ngành công nghiệp năng lượng(điện, than và dầu khí); tiếp đến là công nghiệp ô tô.
Dự báo, trong 5 năm tới, tổng vốn đầu tư nước ngoài thu hút mới và vốn tăng thêm dự kiến đạt khoảng 12 tỷ USD, với khoảng 1.550 dự án. Riêng thu hút đầu tư trong nước, dựa trên cơ sở những cải cách về môi trường kinh doanh trong nước và một số dự án có khả năng triển khai như: khí hoá lỏng, điện, phân đạm, thép, dự kiến đạt khoảng 7 tỷ USD, với trên 2.400 dự án mới. Ngoài những khu kinh tế mở, Việt Nam có thể thiết lập các khu mậu dịch tự do hay các khu tự do trong một KCN.
Phấn đấu đến năm 2010, Việt Nam sẽ cơ bản lấp đầy các KCN (kể cả các KCN mới thành lập), với tổng diện tích 45.000- 50.000 ha. Tới năm 2015, tổng diện tích các KCN sẽ được nâng lên 65.000- 70.000 ha, phấn đấu thu hút thêm 6.500 - 6.800 dự án, với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 36-39 tỷ USD. Đây là lộ trình để năm 2020, cả nước hoàn thiện cơ bản mạng lưới KCN trên toàn lãnh thổ với tổng diện tích các KCN đạt khoảng 80.000 ha
3.Giải pháp cho Việt Nam
Qua kinh nghiệm của Trung Quốc và Thái Lan và nhiều nước khác trên thế giới đã cho chúng ta đã rút ra được bài học cho mình để có thể tăng khả năng thu hút vốn đầu tư hơn nưã vào các KCN, KCX thực hiện được mục tiêu trong thời gian tới mà Đảng, nhà nứoc đã đề ra. Giải pháp tập trung chủ yếu vào 2 vấn đề lớn mà ta còn nhiều yếu kém và hạn chế đó là môi trường đầu tư và công tác xúc tiến đầu tư.
3.1Cải thiện môi trường đầu tư
3.1.1 Nâng cao chất lượng quy hoạch các khu công nghiệp.
- Đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch khu công nghiệp của các địa phương theo cơ chế triển khai do Thủ tướng Chính phủ ban hành, gắn kết giữa quy hoạch khu công nghiệp với quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch khu đô thị - dân cư, quy hoạch sử dụng đất.
Việc triển khai thực hiện quy hoạch phát triển khu công nghiệp phải căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của từng địa phương theo hướng kết hợp hài hoà giữa phát triển công nghiệp với quy hoạch vùng, quy hoạch các công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội. Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp sau khi được phê duyệt sẽ là căn cứ để các cơ quan, tổ chức và các địa phương sử dụng trong quá trình rà soát, điều chỉnh quy hoạch các vùng và các địa phương.
- Trong quá trình triển khai quy hoạch, chú trọng việc khuyến khích các
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36089.doc