Đề án Giải pháp thúc đẩy sự tham gia của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam

MỤC LỤC

 

Lời nói đầu 1

Phần nội dung 2

Chương I: Tổng quan về thị trường chứng khoán 2

1.1. Khái niệm và bản chất thị trường chứng khoán (TTCK) 2

1.2. Vai trò của thị trường chứng khoán. 3

1.3. Các hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán. 5

Chương II: Hoạt động của ngân hàng thương mại thị trường chứng khoán 9

2.1. Khái quát về ngân hàng thương mại (NHTM) 9

2.2. Các hoạt động của NHTM thị trường chứng khoán 10

2.3. Vai trò hoạt động của ngân hàng thương mại đối với sự phát triển của TTCK. 12

Chương III: Thực trạng và Giải pháp thúc đẩy sự tham gia của NHTM trên TTCK Việt Nam. 16

3.1. Đánh giá khả năng tham gia hoạt động trên TTCK của các NHTM Việt Nam. 16

3.1.1. Những mặt thuận lợi của ngân hàng thương mại quốc doanh. 16

3.1.2. Những khó khăn trở ngại. 18

3.2. Một số giải pháp đổi mới hoạt động NHTMQD nhằm phát triển TTCK. 21

3.2.1. Đổi mới mô hình tổ chức ngân hàng thương mại quốc doanh. 21

3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của Công ty chứng khoán thuộc NHTMQD. 23

3.2.3. Giải pháp đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của các NHTMQD, tăng cường khả năng tham gia và hỗ trợ sự phát triển của TTCK. 25

Kết luận 28

 

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1679 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp thúc đẩy sự tham gia của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường hiện hữu, trái lại trên thị trường này các giao dịch chứng khoán hoàn toàn được thực hiện bởi các thành viên - các cttt chứng khoán - thông qua hệ thống thông tin và máy tính điện tử đã được nối mạng với nhau. Điều đáng chú ý là các thành viên của thị trường OTC không phải là thành viên của bất kỳ sở giao dịch chứng khoán nào, và họ thực hiện phần lớn nhưn giao dịch cho chính mục đích kinh doanh chứng khoán chứ không phải thực hiện lệnh của khách hàng. Nói cách khác, các Công ty chứng khoán hay các thành viên của thị trường OTC cũng chính là khách hàng, là người giao dịch hay những người tạo ra thị trường. Trên thị trường OTC “hàng hoá” là các loại chứng khoán chưa được niêm yết giá tại bất kỳ sở giao dịch nào. Đây chính là sự khác biệt giữa thị trường OTC với Sở giao dịch chứng khoán - từ đó là Sàn giao dịch truyền thống hay sàn giao dịch điện tử. * Hoạt động của thị trường phi tập trung Đây là thị trường mà hoạt động mua bán chứng khoán của bất kỳ chủ thể kinh tế nào, thông qua môi giới hoặc trực tiếp, diễn ra suốt ngày đêm ở khắp mọi nơi với phần lớn là các giao dịch theo phương thức trao ngay. Chính vì điều này mà người ta thường ít quan tâm đến thị trường phi tập trung hoặc coi đó là thị trường vô hình. Trên thực tế, hoạt động của thị trường vô hình lại chính là cơ sở hình thành và phát triển của thị trường chính thức và ngay cả khi thị trường chính thức đã ra đời và phát triển thì những giao dịch của thị trường vô hình vẫn có ý nghĩa rất quan trọng. Thị trường vô hình không chỉ làm tăng tính sôi động mà còn góp phần vào ổn định giá cả và lượng cân bằng trên thị trường chính thức, đặc biệt là những giao dịch với khối lượng lớn từ 10.000 chứng khoán - giao dịch khối. CHƯƠNG II HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 2.1. Khái quát về ngân hàng thương mại (NHTM) 2.1.1. Quan niệm về Ngân hàng tmn Đa số các nhà kinh tế học đều cho rằng NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng. Là một doanh nghiệp NHTM cũng có tổ chức hoạt động theo mô hình như bất kỳ doanh nghiệp nào khác, dựa trên cơ sở pháp lý và mục đích lợi nhuận. Điều khác biệt của một NHTM với một loại hình doanh nghiệp nào đó chính là ở đối tượng và lĩnh vực hoạt động kinh doanh của ngân hàng đã rất đặc biệt - tiền tệ và tín dụng. Ngoài ra do các hoạt động kinh doanh tiền tệ và tín dụng của NHTM luôn có những ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng đến toàn bộ nền kinh tế do vậy mà các NHTM luôn được coi là những doanh nghiệp đặc biệt. Chính vì điều này mà ngoài những quy định pháp lý chung đối với các doanh nghiệp, các ngân hàng cũng được quản lý theo những luật định và các cơ quan chức năng nhất định của Nhà nước. 2.1.2.Phân loại. * NHTM quốc doanh: Là NHTM được thành lập từ 100% vốn ngân sách Nhà nước * NHTM cổ phần: Là NHTM được thành lập dưới hình thức Công ty cổ phần trong đó có một cá nhân hoặc một tổ chức không được sở hữu số cổ phần của ngân hàng quá tỷ lệ do NHNN quy định. * Ngân hàng nước ngoài: Là ngân hàng được thành lập theo pháp lệnh ngân hàng nước ngoài. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là cơ sở của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam hoạt động theo pháp lệnh Việt Nam. * Ngân hàng Liên doanh: Là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của bên NHVN và bên ngân hàng nước có có trụ sở tại Việt Nam, hoạt động theo pháp lệnh Việt Nam. * Ngân hàng đầu tư và phát triển: là ngân hàng quốc doanh, nhận vốn đầu tư phát triển từ NHNN để đầu tư cho các dự án phát triển kỹ thuật củann và huy động vốn trung, dài hạn trong nước, ngoài nước để cho vay trung hạn, dài hạn là chủ yếu. 2.2. Các hoạt động của NHTM thị trường chứng khoán 2.2.1. Mỗi ngân hàng là một nhà đầu tư và kinh doanh chứng khoán. Ngân hàng thương mại ngày nay không chỉ thực hiện vai trò là một trung gian tài chính sử dụng nguồn vốn huy đoọng được để tiến hành cho vay mà còn thực hiện hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán như một nhà đầu tư. Hoạt động đầu tư này cho chính ngân hàng bằng nguồn vốn kinh doanh của mình (trong điều kiện luật pháp quốc gia cho phép các ngân hàng thực hiện kinh doanh chứng khoán) nhưng cũng có thể là ngân hàng mua bán, kinh doanh chứng khán theo sự uỷ thác của khách hàng. Cùng với việc đầu tư, các ngân hàng còn có thể đầu cơ chứng khoán trên thị trường. Qua việc đầu cơ chứng khoán, các ngân hàng có thể thu hút được lợi nhuận bằng cách tiến hành mua chứng khoán để bán chứng khoán tại các thời điểm khác nhau khi có sự biến động về tỷ giá. Hai hoạt động này chính là nghiệp vụ kinh doanh trực tiếp cua các ngân hàng trên thị trường chứng khoán. Các ngân hàng có thể kiếm được nhiều lời hơn trong loại chứng khoán nào và họ cũng giảm được chi phí giao dịch do tiến hành mua chứng khoán đối với khối lượng lớn. 2.2.2. Ngân hàng thực hiện thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán. Cùng với việc áp dụng công nghệ tin học và viên thông hiện đại mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, kỹ thuật tin học phát triển khiến cho công nghệ thanh toán qua ngân hàng trở nên ngày càng hiện đại. Ngày nay, ngành ngân hàng đã và đang phát triển một hệ thống thanh toán bù trừ tiền và những giấy tờ có giá riêng cho ngành. Hệ thống này có thể mở rộng và cho phép thanh toán bù trừ ghi sổ trong một thời gian rất nhanh chóng. Nhờ có hệ thống thanh toán bù trừ của ngân hàng mà hoạt động thanh toán chứng khoán đảm bảo được yêu cầu về thời gian, độ chính xác nhằm phục vụ cho các đối tượng mua bán chứng khoán trên thị trường. Ngoài ra, ngân hàng với cơ sở vật chất, độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như những kinh nghiệm trong hoạt động bảo quản và các giấy tờ có giá vốn rất được tín nhiệm của công chúng sẽ đảm nhiệm tốt dịch vụ lưu ký chứng khoán bao gồm bảo quản an toàn chứng khoán, giữ gìn bí mật về thông tin chứng khoán, thực hiện thanh toán cho tất cả các chứng khoán gia dịch. Đồng thời, khi khách hàng lưu ký có liên quan như thu lãi chứng khoán hộ khách hàng hay chuyển nhượng chứng khoán theo sự uỷ quyền của khách hàng. 2.2.3. Ngân hàng thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán. Ngân hàng thương mại hoàn toàn có khả năng bảo lãnh chứng khoán và làm đại lý thực hiện bao tiêu số chứng khoán sắp phát hành đồng thời cũng là người xác định giá cả, khối lượng chứng khoán phát hành. Khi muốn phát hành chứng khoán ra thị trường, các doanh nghiệp cũng như các tổ chức chính phủ cần phải có sự bảo lãnh của các ngân hàng thương mại, bởi vì với sự bảo lãnh này thì công chúng sẽ tin tưởng và dễ dàng chấp nhận đối với các chứng khoán mới. Với mạng lưới tổ chức rộng rãi gồm nhiều chi nhánh, những kinh nghiệm trong kinh doanh, những quan hệ với nhiều đối tượng khách hàng, các cán bộ có trình độ chuyên môn cao nên các ngân hàng thương mại lớn có thể thực hiện thành công việc bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các doanh nghiệp. Kết hợp với các Công ty chuyên nghiệp kinh doanh chứng khoán, các ngân hàng thương mại có thể tham gia vào quảng cáo, cung cấp những thông tin cần thiết về các loại chứng khoán mới phát hành tạo nên điều kiện thuận loaị cho các chứng khoán giao dịch ở thị trường cấp hai. Như vậy, với việc tham gia vào thị trường chứng khoán, các ngân hàng vừa mở rộng được hoạt động kinh doanh của mình vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán. 2.2.4. Các ngân hàng thực hiện môi giới, tư vấn đầu tư chứng khoán. Với chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp, thực hiện kiểm soát và giám sát bằng đồng tiền đối với các hoạt động kinh tế quốc dân, các ngân hàng thương mại luôn có đầy đủ các thông tin mọi mặt về hoạt động kinh doanh, khả năng tài chính, các nguồn tài trợ và cả xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Vì vậy, mà sự tư vấn của ngân hàng thường rất chính xác và hiệu quả. Đồng thời các chuyên gia ngân hàng với khả năng phân tích và dự đoán tài chính có thể tư vấn, môi giới cho khách hàng dù là cá nhân hay doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư vào chứng khoán có được những lựa chọn đầu tư đúng đắn. 2.2.5. Một số nghiệp vụ khác. Nngoài các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán ở trên, các ngân hàng thương mại còn thực hiện chiết khấu, cầm cố các chứng khoán. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán thì nghiệp vụ này ngày càng phát triển. Khi có nhu cầu sử dụng vốn, các cá nhân, doanh nghiệp có thể dễ dàng đêm cổ phiếu, trái phiếu đến ngân hàng để cầm cố, chiết khấu như một loại giấy tờ có giá. Như vậy, các ngân hàng đã tạo điều kiện để nâng cao tính thanh toán của các loại chứng khoán. 2.3. Vai trò hoạt động của ngân hàng thương mại đối với sự phát triển của TTCK. Thực tế ở hầu khắp các nước có thị trường chứng khoán phát triển, các ngân hàng thương mại luôn được coilà một trong những trung gian tài chính quan trọng bậc nhất. Ngân hàng có thể làm người môi giới chứng khoán, người tư vấn đầu tư, người quản trị chứng khoán, người thanh toán về các giao dịch chứng khoán. Ngân hàng có thể tham mưu, tư vấn cho công ty để phát hành cổ phiếu hay trái phiếu thành công. Ngân hàng thương mại có vai trò rất quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán. Một cách cụ thể chúng ta có thể chỉ ra các vai trò đó như sau: 2.3.1. Đối với sự hình thành của TTCK. Thị trường chứng khoán về bản chất là hình thức phát triển lên từ các quan hệ tín dụng. Khi nền kinh tế phát triển đến một mức độ nhất định thì các quan hệ tín dụng với nguồn gốc từ các ngân hàng không còn đáp ứng được nhu cầu về vốn cho nền kinh tế và khi đó thị trường chứng khoán ra đời. Tương tự như các thị trường khác, khi được thiết lập thị trường chứng khoán cũng phải có các yếu tố căn bản cấu thành như hàng hoá cung ứng, những người mua, người bán.v.v… và ngân hàng thương mại đã thể hiện vai trò là người cung cấp những yếu tố cấu thành đó cho thị trường chứng khoán. Các ngân hàng thương mại góp phần tạo hàng hoá cho thị trường. Các ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế đều có thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu của mình trên thị trường chứng khoán. Khi các ngân hàng phát hành chứng khoán đã tạo một lượng hàng hoá mới cho thị trường sơ cấp và khiến cho hoạt động của cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp đều thêm sôi động. Không những thế, như đã đề cập trong phần nghiệp vụ của các ngân hàng trên thị trường chứng khoán, chúng ta có thể thấy các ngân hàng có thể là nhà môi giới phát hành chứng khoán hiệu quả. Khi thưc hiện nhiệm vụ này, các ngân hàng sẽ giúp cho người sáng lập Công ty lựa chọn được loại chứng khoán phát hành, tư vấn về các vấn đề có liên quan để đảm bảo khi chứng khoán được đưa ra thị trường thì nó sẽ thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư. Trong các trường hợp phát hành chứng khoán với khối lượng lớn, các ngân hàng có thể mua chứng khoán mới phát hành rồi sau đó bán lại cho công chúng. Như vậy có thể thấy các ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối với sự thành công của một đợt chứng khoán phát hành nói riêng và đối với việc tạo ra lượng hàng hoá cung ứng trên thị trường chứng khoán nói riêng. 2.3.2. Đối với sự ổn định và phát triển của TTCK. Thị trường chứng khoán được xem như là một chiếc phong vũ biểu cho nền kinh tế quốc dân. Khi thị trường ổn định và phát triển sẽ thể hiện nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng trưởng và ngược lại. Do đó, việc ổn định và phát triển thị trường chứng khoán có ý nghĩa rất quan trọng, và ỏ đây vai trò của ngân hàng thương mại được thể hiện rất rõ rệt. Khi các ngân hàng tham gia vào mua bán chứng khoán thì đã tác động đến cung cầu chứng khoán trên thị trường và do đó làm thay đổi thị giá củ chứng khoán. Trong những điều kiện tự do hoá lãi suất các ngân hàng được phép chủ động điều chỉnh lãi suất huy động, cho vay cũng như tham gia vào việc hình thành lãi suất trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Khi các ngân hàng thay đổi mức lãi suất của mình sẽ tác động trực tiếp đến sự biến động của thị giá chứng khoán. Bằng những hoạt động nghiệp vụ này, các ngân hàng thương mại có thể điều chỉnh sự biến động của giá cả chứng khoán và góp phần vào việc ổn ddịnh thị trường chứng khoán. Mặt khác, hoạt động của thị trường phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, Công ty niêm yết. Các ngân hàng thương mại còn thực hiện việc ổn định thị trường chứng khoán thông qua việc giúp cho các doanh nghiệp này lúc gặp khó khăn về tài chính đảm bảo quyền tự chủ của họ. Các ngân hàng có thể cung cấp tín dụng hay góp vốn cổ phần để duy trì, phục hồi hoạt động của các doanh nghiệp. Nhờ đó góp phần ổn định giá chứng khoán trên thị trường và tránh được các vụ đổ bể dây truyền gây lên sự sụp đổ của thị trường chứng khoán. Qua nghiệp vụ môi giới, tư vấn chứng khoán, ngân hàng thương mại đã trở thành cầu nối giữa khách hàng với thị trường chứng khoán. Khi đó, là một trung gian trên thị trường, các ngân hàng có thể thoả mãn yêu cầu đầu tư của khách hàng với kết quả tốt nhất và khách hàng sẽ mong muốn được tiếp tục đầu tư chứng khoán với sự trợ giúp của các ngân hàng bởi vì nó sẽ hiệu quả hơn là tự đầu tư. Ngoài ra, với dịch vụ chiết khấu khiến cho các chứng khoán có tính lỏng cao hơn. Do vậy, các nhà đầu tư có thể mua chứng khoán khi có lượng tiền mặt rảnh rỗi và bán đi khi có nhu cầu sử dụng tiền mà không có sự phân biệt về chi phí cơ hội. Với những lợi ích này, thị trường chứng khoán đã thu hút được nhiều đối tượng tham gia hơn. Hoạt động của ngân hàng không chỉ phát triển thị trường chứng khoán theo nghĩa tạo ra lượng khách hàng lớn hơn, đa dạng hơn mà quan trọng là nó giúp cho thị trường chứng khoán phát triển về mặt chất lượng thông qua những sự trợ giúp cho thị trường bằng hệ thống thanh toán chứng khoán, tiền nhanh chóng, chính xác của mình. Và các dịch vụ tiện ích như chuyển đổi chứng khoán, thu lãi, lưu ký.v.v… đã thực sự góp phần vào việc phát triển thị trường chứng khoán. 2.3.3. Bảo đảm các nguyên tắc hoạt động của thị trường. Khi các ngân hàng tham gia vào thị trường chứng khoán thì sẽ góp phần bảo đảm việc thực hiện các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của thị trường chứng khoán. Ngân hàng có đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp do vậy có thể góp phần bảo đảm cung cấp thông tin đối xứng, hạn chế những hiện tượng lừa đảo trong kinh doanh chứng khoán. Theo quy định thì các Công ty niêm yết phải có trách nhiệm cung cấp đầy đủ các thông tin cho sở giao dịch. Song hệ thống thông tin của ngân hàng là cơ sở để tham chiếu tính chính xác, trung thực của các thông tin nói trên. Hơn nữa, các ngân hàng cũng góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện nguyên tắc công bằng thông qua khả năng kiểm soát và giám đốc bằng đồng tiền của tín dụng ngân hàng. Ngoài ra, những hành vi buôn bán tay trong, đầu cơ bất chính cũng được hạn chế khi có sự tham gia của các ngân hàng vào hoạt động của thị trường chứng khoán cụ thể là các hoạt động đấu giá. CHƯƠNG III THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ THAM GIA CỦA NHTM TRÊN TTCK VIỆT NAM. 3.1. Đánh giá khả năng tham gia hoạt động trên TTCK của các NHTM Việt Nam. Cơ cấu hoạt động ngân hàng thương mại Việt Nam có thể được chia thành ba khối là (1) hoạt động của các ngân hàng thương mại quốc doanh; (2) hoạt động của các ngân hàng ngoài quốc doanh; và (3) hoạt động của các ngân hàng liên doanh, chi nhánh và đại diện của ngân hàng nước ngoài. Trong đó: Hoạt động của ngân hàng thương mại quốc doanh không những có quy mô lớn, chiếm tỷ trọng tuyệt đối trên thị trường mà còn là nguồn cung cấp vốn cũng như các dịch vụ ngân hàng quyết định đến sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế đất nước. Chính vì vậy khi nghiên cứu về hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam thì cần phải tập trung chủ yếu vào nghiên cứu về NHTMQD đặc biệt là 4 ngân hàng chủ chốt: Ngân hàng công thương, ngân hàng đầu tư và phát triển, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn và ngân hàng ngoại thương. Vì vậy trong đề án này em chỉ tập trung chủ yếu vào nghiên cứu ngân hàng thương mại quốc doanh. 3.1.1. Những mặt thuận lợi của ngân hàng thương mại quốc doanh. 3.1.1.1. Vị thế của các ngân hàng thương mại quốc doanh. Hiện nay, các ngân hàng này đã có mạng lưới chi nhánh và các sở giao dịch trên phạm vi cả nước, cho phép các ngân hàng tiếp cận có khả năng nắm bắt và đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng muốn tham gia đầu tư kinh doanh chứng khoán. Mặt khác, với tỷ trọng thị phần hoạt động tuyệt đối, các ngân hàng thương mại quốc doanh có khả năng thực hiện việc cung cấp thông tin tài chính quan trọng vèe các doanh nghiệp một cách chính xác và kịp thời cho các hoạt động của thị trường chứng khoán, hạn chế mức độ rủi ro và bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Các loại chứng khoán được các ngân hàng thương mại quốc doanh bảo lãnh và tư vấn phát hành chứng khoán chắc chắn sẽ được công chúng tin tưởng và sẵn sàng đầu tư, kể cả các loại chứng khoán chưa được niêm yết. Từ đó cho thấy, các ngân hàng thương mại quốc doanh là cầu nối quan trọng nhất giữa các đối tượng khách hàng và thị trường chứng khoán ở Việt Nam. 3.1.1.2. Những tiến bộ trong công nghệ. Hệ thống thanh toán vốn là một trong những khâu yếu kém nhất bởi những đặc trưng như thủ tục rườm rà, mất nhiều thời gian và không hiệu quả, nay đã được cải thiện đáng kể trong đó các hoạt động thanh toán trong nội bộ các ngânhàng với sự trợ giúp của mạng vi tính, rút ngắn thời gian và tăng cường tính chính xác. Trên cơ sở công nghệ đổi mới, các nghiệp vụ ngân hàng truyền thống như quản lý tài khoản, chuyển tiền, thanh toán trong nước và quốc tế đã được đảm bảo bởi chất lượng cao hơn và phục vụ tốt hơn đối vớ khách hàng. Đặc biệt trong đầu tháng 3/2001, hệ thống thanh toán điện tử của NHNN đã khánh thành và đi vào hoạt động sẽ đảm bảo thời gian để thực hiện các khoản thanh toán giữa các ngân hàng thương mại sẽ chỉ còn được tính bằng giây. Bên cạnh những hình thức thanh toán truyền thống, thanh toán thẻ đã bắt đầu xuất hiện và đi vào cuộc sống. 3.1.1.3. Sự ra đời của các Công ty cho thuê Tài chính, các Công ty chứng khoán thuộc ngân hàng. Các Công ty cho thuê tài chính thuộc các ngân hàng thương mại quốc doanh lần lượt ra đời từ năm 1997, 1998. Các Công ty này chính là cổng vào thị trường chứng khoán dành cho các ngân hàng trên thương mại. Sau khi các cttt này được cấp giấy phép hoạt động. Như vậy có thể nói rằng các NHTMQD Việt Nam đã có đầy đủ cơ sở pháp lý và những yếu tố thuận lợi cơ bản để tham gia vào các hoạt động trên thị trường chứng khoán. Hơn nữa sự tham gia của hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh vào thị trường có thể được khẳng định là nhân tố tích cực cho sự phát triển của thị trường chứng khoán cũng như bản thân hoạt động ngân hàng thương mại Việt Nam. 3.1.2. Những khó khăn trở ngại. Những cơ hội và khả năng để tăng cường và mở rộng các hoạt động kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng thương mại Việt Nam hoàn toàn là hiện thực. Song trước mắt cũng còn rất nhiều khó khăn và thách thức, đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu, hoàn thiện của các ngân hàng này. Thực trạng hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam từ năm 1995 đến nay cho chúng ta có thể khái quát những yếu kém cơ bản, chính là những trở ngại đối với sự tham gia vào các hoạt động trên thị trường chứng khoán. 3.1.2.1. Khả năng tài chính và quy mô hoạt động nhỏ bé. Quy mô nguồn vốn nhỏ và cơ cấu chưa hợp lý với chủ yếu là vốn huy động ngắn hạn và không kỳ hạn là hạn chế thứ nhất. Thứ hai, các hình thức huy động còn rất nghèo nàn, chưa đủ sức thu hút được các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư và các nd. Tương ứng với những hạn chế về quy mô và cơ cấu nguồn vốn, các hoạt động sử dụng vốn trong kinh doanh ngân hàng chủ yếu dựa vào cho vay, phần lớn là cho vay ngắn hạn và đối tượng khách hàng vẫn là các doanh nghiệp Nhà nước. Trong khi đó, các hoạt động đầu tư còn chiếm tỷ trọng nhỏ và chưa có các dịch vụ ngân hàng tiện ích. Giao dịch của ngân hàng với khách hàng cho đến nay vẫn là những giao dịch truyền thống: nhận tiền gửi, cho vay và thanh toán. 3.1.2.2. Chất lượng và hiệu quả hoạt động thấp. Nếu so sánh các chỉ số về hoạt động như: huy động tiền gửi và dư nợ cho vay nền kinh tế so với GDP; cho vay so với huy động vốn; và đặc biệt là chất lượng dư nợ của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam vào cùng thời điểm năm 2001 đều còn kém xa so với ngân hàng thương mại của các nước trong khu vực. Hoạt động ngân hàng thương mại Việt Nam hoàn toàn không năng động, trái lại, lệ thuộc nặng nền vào các quy chế của NHNN. Khả năng quản lý yếu kém, còn nhiều biểu hiện của thời kỳ chế độ bao cấp qua tín dụng. Các nguyên tắc và quy trình cho vay hoặc là quá cứng nhắc, hoặc là thường xuyên bị vi phạm, bóp méo. Chưa có một ngân hàng quốc doanh nào đề ra các tiêu chuẩn an toàn trong nội bộ cũng như các công cụ phòng chống rủi ro về tỷ giá, về lãi suất và sự biến động của thị trường tài chính quốc tế. Khả năng kiểm toán nội bộ rất yếu kém, số liệu thống kê trong các báo cáo tài chính còn rất nhiều bất cập, không đầy đủ và thiếu tính hệ thống, minh bạch và do đó thiếu độ tin cậy. 3.1.2.3. Các dịch vụ trung gian tài chính chưa phát triển. Các dịch vụ của ngân hàng thương mại đã được triển khai mở rộng nhưn vẫn còn quá ít các sản phẩm và chất lượng dịch vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, kể cả các dịch vụ của các Công ty chứng khoán thuộc ngân hàng. Cho đến nay vẫn có thể khẳng định, các ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn chỉ có các hoạt động truyền thống với trình độ công nghệ thấp. Trong khi các ngân hàng nước ngoài thậm chí một số ngân hàng ngoài quốc doanh Việt Nam như ANZ, ACB.v.v… các dịch vụ tiện ích rất được phát triển và mang lại nguồn thu nhập khá lớn. Các hoạt động trung gian này chưa phát triển cũng là nguyên nhân không thu hút được nguồn vốn, tình trạng lưu thông tiền mặt và giao dịch ngoài ngân hàng, ngoài sự kiểm soát của Nhà nước là rất phổ biến ở Việt Nam. Hệ thống thông tin tài chính phục vụ cho kiểm soát và điều hành hết sức sơ khai trong khi địa bàn hoạt động của các ngân hàng lại phân tán trong phạm vi cả nước. Trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ tín dụng và cán bộ quản lý chưa đáp ứng yêu cầu đảm bảo cho một ngân hàng thương mại hoạt động có hiệu quả và an toàn trong một thị trường phát triển khá nhanh và rủi ro lớn như Việt Nam. Bộ máy tổ chức và quản lý nguồn nhân lực của các ngân hàng thương mại cũng còn nhiều bất cập, mô hình cồng kềnh và do đó hiệu suất thấp. Kinh nghiệm về nghiệp vụ ngân hàng quốc tế cũng như các thông tin về thị trường tài chính tiền tệ quốc tế còn hạn chế, công nghệ tin học và các phần mềm quản lý chưa được ứng dụng vào các nghiệp vụ ngân hàng, trình độ ngoại ngữ của cán bộ ngân hàng còn nhiều bất cập, sự hiểu biết về các thông lệ, công ước quốc tế còn nhiều hạn chế. Tất cả những vấn đề này là vấn đề khó khăn, cản trở khả năng hộp nhập vào thị trường tài chính quốc tế của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Trong bối cảnh về các hoạt động cơ bản như, vậy hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại quốc doanh đều rất thấp là đều dễ hiểu. Các chỉ số tài chính yếu kém: chi phí nghiệp vụ cao, khả năng sinh lời và sức cạnh tranh vì vậy mà cũng rất thấp. 3.1.2.4. Môi trường pháp lý và kinh doanh không thuận lợi. Hoạt động trong một môi trường pháp lý không nghiêm chặt, các ngân hàng khó tránh khỏi những hành vi tiêu cực, vi phạm các nguyên tắc tín dụng và rất khó khăn cho công tác thu nợ, xử lý tài sản thế chấp và nợ quá hạn. Môi trường hoạt động kinh doanh không bình đẳng: một mặt các ngân hàng thương mại quốc doanh còn được hưởng nhiều chế độ ưu đãi, bao cấp từ Nhà nước và NHNN, mặt khác có qúa nhiều sự can thiệp của Chính phủ và NHNN vào tất cả các hoạt động của các ngân hàng này. Công tác thống kê, thu nhập và xử lý thông tin tài chính của NHNN còn yếu kém và chưa phát huy được hiệu quả trong quản lý, giám sát, và chỉ đạo toàn hệ thống. Sự kém phát triển của hệ thống thị trường tài chính, các thị trường tiền tệ, thị trường vốn và đặc biệt là thị trường chứng khoán cũng gây không ít khó khăn cho hoạt động của các ngân hàng thương mại noí chung và các NHTMQD nói riêng. Tất nhiên, những hạn chế và yếu kém của các ngân hàng thương mại Việt Nam nói tên cũng có nguyên nhân khách quan, các ngân hàng mới chỉ được quan tâm phát triển mình trong những năm gần đây. Khi nền kinh tế còn trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, hệ thống ngân hàng chỉ là các quỹ tiền tệ đặc biệt của Nhà nước. Với một khoảng thời gian chuyển đổi còn quá ngắn như vậy thì những quan niệm xưa chưa thể hoàn toàn dứt bỏ, kinh nghiệm tổ chức và quản lý đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại chắc chắn còn nhiều hạn chế cũng là điều dễ hiểu. 3.2. Một số giải pháp đổi mới hoạt động NHTMQD nhằm phát triển TTCK. 3.2.1. Đổi mới mô hình tổ chức ngân hàng thương mại quốc doanh. Bốn ngân hàng thương mại quốc doanh chủ chốt phải được tổ chức lai thành các ngân hàng đa năng, hiện đại có thể cung cấp các dịch vụ trọn gói cho từng nhóm khách hàng và đảm bảo cho các ngân hàng này có thể tham gia tích cực vào các hoạt động trên thị trường chứng khoán. 3.2.1.1. Về mô hình tổ chức. Trên thế giới, các ngân hàng thương mại đa năng hiện đại có thể được tổ chức theo ba mô hình (đan năng toàn phần, đa năng một phần và ngân hàng chuyên doanh). Mỗi mô hình này đều có những ưu thế và nhược điểm nhất định, phù hợ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải pháp thúc đẩy sự tham gia của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam.DOC
Tài liệu liên quan