Đề án Giải pháp và kiến nghị để đẩy mạnh công tác huy động vốn cho ngân hàng thương mại

MỤC LỤC

 

PHẦN MỞ ĐẦU 1

PHẦN I: VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3

1. Vốn trong kinh doanh ngân hàng 3

1.1.Khái niệm về vốn. 3

1.2. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM. 3

1.2.1. Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh 3

1.2.2. Vốn quyết định quy mô của hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của NHTM 4

1.2.3. Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thị trường 4

1.2.4 Vốn là một trong những yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng. 5

2. Các thành phần trong vốn của Ngân hàng thương mại (NHTM) 5

2.1.Vốn chủ sở hữu 5

2.1.1.Vốn ban đầu: 5

2.1.2.Vốn chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động. 6

2.1.3.Các quỹ: 7

2.2. Vốn nợ 9

2.3 Tiền vay 12

2.4 Vốn nợ khác 15

3. Vai trò của NHTM trong các hoạt động kinh tế 16

3.1 Chức năng trung gian tài chính 16

3.2 Chức năng tạo tiền 16

3.3 Chức năng cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán 17

3.4 NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính 17

PHẦN II : THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 19

1. Thực trạng 19

2. Các giải pháp 28

Qua nghiên cứu ta có thể thấy trong những năm qua hoạt động của của các ngân hàng đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế do ảnh hưởng của những nhân tố chủ quan và khách quan. Để có thể thực hiện tốt những nhiệm vụ đề 28

2.1 Giải pháp trực tiếp 28

2.1.1 Tiếp tục đa dạng hóa các hình thức huy động vốn , tăng nhanh nguồn vốn kinh doanh 28

2.1.2 Áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt 30

2.2 Giải pháp hỗ trợ 31

2.2.1 Nâng cao chất lượng sử dụng vốn. 32

2.2.2 Mở rộng và cải tiến các dịch vụ 32

2.2.3 Nâng cao chất lượng phục vụ, củng cố uy tín của ngân hàng. 33

2.2.4 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng 34

LỜI KẾT 35

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 36

 

 

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1406 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp và kiến nghị để đẩy mạnh công tác huy động vốn cho ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ô và tính ổn định của nguồn tiền. Vào dịp Tết, nguồn tiền tiết kiệm cũng như tiền gửi của doanh nghiệp có xu hướng giảm sút, đặc biệt trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến. Thu nhập: Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kỳ hạn của nguồn tiền. Tại các thành phố lớn, nơi tập trung tầng lớp dân cư có thu nhập cao, hình thành người gửi tiền lớn. Khi ngân hàng mở rộng cho vay, tiền gửi của các doanh nghiệp và các cá nhân cũng gia tăng. Các nguồn tiền gửi thanh toán thường biến động mạnh (kém ổn định) hơn tiền gửi tiết kiệm. Địa điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, các loại hình huy động đa dạng, các dịch vụ đa dạng... 2.3 Tiền vay Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi của khách hàng, các NHTM có thể đi vay ở NHTƯ, ở các NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức ngoài nước... Vốn đi vay chỉ chiếm một tỷ trọng có thể chấp nhận được trong kết cấu nguồn vốn, nhưng nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để bảo đảm cho ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường. * Các loại tiền vay + Vay Ngân hàng nhà nước. Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiết hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng nhà nước là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại ngân hàng nhà nước. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước) tăng lên. Ngân hàng Nhà nước điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ; ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân hàng Nhà nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng (thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng Nhà nước trong từng thời kì. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, ngân hàng Nhà nước cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định + Vay các tổ chức tín dụng khác Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước. Khoản vay có thể không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên. + Vay trên thị trường vốn Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này; họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lí hoặc được bảo lãnh của Ngân hàng Đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kĩ thị trường để quyết định qui mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Các vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ... cũng được các ngân hàng quan tâm. - Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng + Đặc điểm: Tỷ trọng của loại nguồn này trong tổng nguồn thường thấp hơn nguồn tiền gửi. Các nguồn đi vay thường là với thời hạn và qui mô xác định trước, do vậy tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi, ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên: ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết; ngân hàng hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng. Nguồn vay có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên do rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi với cùng kì hạn. Các khoản vay Ngân hàng nhà nước và vay ngân hàng khác tuy lãi suất thấp song thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời khi nhu cầu thanh toán của khách hàng tăng cao. + Các nhân tố ảnh hưởng Chính sách tiền tệ từng thời kì: Khi mục tiêu của chính sách tiền tệ là mở rộng, việc vay Ngân hàng nhà nước sẽ trở nên dễ dàng hơn đối với các NHTM nhờ lãi suất tái chiết khấu thấp. Và ngược lại khi chính sách tiền tệ thắt chặt được triển khai, Ngân hàng nhà nước sẽ nâng mức lãi suất tái chiết khấu để hạn chế việc các NHTM đến vay tiền. Thu nhập của dân cư và sự ổn định vĩ mô ảnh hưởng tới hoạt động vay thông qua phát hành các giấy nợ trung và dài hạn. Khi thu nhập của dân cư ở mức cao họ sẽ có xu hướng thích tiết kiệm & mua các giấy nợ. Đồng thời triển vọng về một nền kinh tế ổn định sẽ khiến các khách hàng yên tâm hơn khi nắm giữ giấy nợ. Kĩ thuật nghiệp vụ của ngân hàng nhằm tạo tính thanh khoản của các giấy nợ và thuận tiện đối với người cho vay cũng ảnh hưởng tới việc đi vay của ngân hàng. 2.4 Vốn nợ khác Loại này bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn khác + Tiền uỷ thác: NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ... Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng. Cùng với sự phát triển các mối quan hệ đa phương, rất nhiều các tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng mạng lưới ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình thành nguồn uỷ thác, làm gia tăng nguồn vốn của ngân hàng. + Tiền trong thanh toán: Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể trở thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền kí quĩ để mở L/C...). Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay... + Tiền khác: Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả * Đặc điểm: Phần lớn các nguồn khác ngân hàng không phải trả lãi (lãi suất danh nghĩa bằng không). Tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng rất đáng kể. Ví dụ để có các nguồn uỷ thác ngân hàng phải tìm kiếm các chủ đầu tư, tìm hiểu yêu cầu của họ, nghiên cứu các dự án mà họ tài trợ... Nhìn chung, các nguồn khác trong ngân hàng thường không lớn (trừ một số ngân hàng có các dịch vụ uỷ thác cho nhà nước hoặc cho các tổ chức quốc tế). Việc gia tăng các nguồn này nằm trong chính sách gia tăng nguồn thu cho ngân hàng và bị ảnh hưởng bởi khả năng thực hiện và mở rộng các loại hình dịch vụ khác. 3. Vai trò của NHTM trong các hoạt động kinh tế 3.1 Chức năng trung gian tài chính Đây là chức năng quan trọng nhất của NHTM .NHTM nhận tiền gửi và cho vay chính là đẫ thực hiện việc chuyển tiền tiết kiệm thành tiền đầu tư. Những chủ thể dư thừa vốn cũng có thể trực tiếp đầu tư bằng cách mua các công cụ tài chính sơ cấp như: cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp hoặc chính phủ thông qua thị trường tài chính. Nhưng thị trường tài chính trực tiếp đôi khi không đem lại hiệu quả cao nhất cho người đầu tư vì: khó tìm kiếm thông tin, chi phí tìm kiếm thông tin lớn, chất lượng thông tin không cao, chi phí giao dịch lớn và phải có sự trùng khớp về nhu cầu giữa người thừa vốn và người thiếu vốn về số lượng, thời hạn... chính vì thế NHTM với tư cách là một trung gian tài chính đứng ra nhận tiền gửi tiết kiệm và cung cấp vốn cho nền kinh tế với số lượng và thời hạn phong phú và đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu về vốn của khách hàng có đủ điều kiện vay vốn. Với mạng lưới giao dịch rộng khắp, các dịch vụ đa dạng, cung cấp thông tin nhiều chiều, hoạt động ngày càng phong phú chuyên môn hoá vào từng lĩnh vực NHTM đã thực sự giải quyết được những hạn chế của thị trường tài chính trực tiếp, góp phần nâng cao hiệu quả luân chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường. 3.2 Chức năng tạo tiền Chức năng tạo tiền là chức năng cực kỳ quan trọng của NHTM. Chức năng này được thể hiện trong quá trình NHTM cấp tín dụng cho nền kinh tế và hoạt động đầu tư của NHTM, trong mối quan hệ với NHTƯ đặc biệt trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ mà mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền. Từ một lượng tiền cơ sở do NHTƯ phát hành qua hệ thốngNHTM sẽ được tăng lên gấp bội khi NHTM cấp tín dụng cho nền kinh tế. Khối lượng tiền qua hệ thống ngân hàng được tính theo công thức : D=m.MB D: khối lượng tiền qua hệ thống ngân hàng MB: khối lượng tiền cơ sở M=1/rd: hệ số nhân tiền rd : tỷ lệ dự trữ bắt buộc NHTƯ có thể điều tiết khối lượng tiền cung ứng bằng cách thay đổi lượng tiền tỷ lệ dự trữ bắt buộc để tăng hoặc giảm khả năng tạo tiền của NHTM từ đó ảnh hưởng đến khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế do đó đạt được hiệu quả mà mục tiêu chính sách tiền tệ đặt ra . 3.3 Chức năng cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán Thông qua chức năng làm trung gian tài chính NHTM làm tăng lượng tiền trong lưu thông và cung cấp cho những người đầu tư những chứng khoán có tính lỏng cao hơn và có rủi ro thấp hơn do đó sẽ an toàn hơn khi nhà đầu tư nắm giữ những chứng khoán sơ cấp do doanh nghiệp, công ty phát hành. Các NHTM còn cung cấp một danh mục phương tiện thanh toán rất đa dạng và phong phú : sec chuyển tiền, sec chuyển khoản, thẻ tín dụng... sự xuất hiện của các phương tiện thanh toán này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng giao dịch thương mại, mua bán hàng hoá an toàn nhanh chóng, chi phí thấp. 3.4 NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính Ngoài các dịch vụ truyền thống là huy động và cho vay, NHTM ngày nay còn cung cấp một danh mục dịch vụ khá đa dạng và phong phú: dịch vụ thanh toán, dịch vụ môi giới, bảo lãnh tư vấn bảo hiểm... Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các loại dịch vụ ngân hàng cũng phát triển và mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng. chưa bao giờ các dịch vụ tài chính ngân hàng lại phát triển như bây giờ, tỷ trọng thu nhập từ thu phí dịch vụ ở các ngân hàng hiện đại có thể chiếm tới 40-50% tổng thu nhập của ngân hàng. Đồng thời việc phát triển các dịch vụ này cũng làm tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng chu chuyển vốn trong nền kinh tế, làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông do đó tiết kiệm được chi phí in ấn kiểm đếm tiền. Ngày nay trong điều kiện cạnh tranh rất khốc liệt giữa các ngân hàng việc đưa ra các dịch vụ mới làm tăng tiện ích cho khách hàng là một yếu tố để cạnh tranh.Chính vì vậy mà các Ngân hàng ngày nay rất tích cực đầu tư trang bị cơ sở vật chất, áp dụng công nghệ tin học, khoa học kỹ thuật vào hoạt động của mình. Nếu các NHTM có thể đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng về dịch vụ, tạo được uy tín với khách hàng thì đây cũng là một biện pháp, yếu tố để tăng khả năng huy động vốn. PHẦN II : THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 1. Thực trạng Về lãi suất huy động Trong thời gian qua, với chính sách kiềm chế lạm phát trọn gói của chính phủ đã tác động lên thị trường tài chính của Việt Nam. Lãi suất huy động vốn và cho vay của các ngân hàng không ngừng thay đổi, thậm chí là từng giờ. Có một vấn đề là tâm lý của người gửi tiền không ổn định, sự thay đổi lãi suất đó kéo theo một hệ quả là lượng tiền mặt huy động của các ngân hàng tăng giảm thất thường. Khi lãi suất huy động của ngân hàng A tăng lên thì lượng tiền cùng với số lượng người gửi tăng theo, và khi lãi suất huy động của ngân hàng B cao hơn thì một lượng lớn tiền mặt được rút khỏi ngân hàng A và được gửi sang ngân hàng B. Khách hàng đi gửi tiền thường không hiểu rõ các điều kiện ràng buộc của các ngân hàng nên khi rút tiền không đúng kỳ hạn đó phải hưởng mức lãi suất thấp không như kỳ vọng, dẫn đến tâm lý thiếu lòng tin vào các ngân hàng. Tuy tiền lãi mất đi đối với một khách hàng không đáng kể nhưng tính đến toàn hệ thống ngân hàng thì việc này đó dẫn đến thiệt hại không nhỏ. Trong năm 2009 ngân hàng TMCP phát triển nhà TPHCM (HDBank) trong một thời gian dài duy trì “đỉnh” lãi suất huy động VND ở mức 10,3%/năm (chỉ còn thêm 0,2% là chạm trần lãi suất cơ bản), ngày 27/10 đã điều chỉnh giảm còn 9,99%/năm. Hay như Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) chỉ sau một ngày công bố lãi suất 6 tháng của sản phẩm “Tiền gửi siêu lãi suất” là 10,05%/năm, đã phải điều chỉnh giảm lãi suất này xuống dưới 10%/năm. Tương tự, Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank) điều chỉnh biểu lãi suất huy động đối với các loại tiền VND, USD và EUR. Đối với VND, lãi suất huy động được điều chỉnh tăng thêm cao nhất là 1,2%/năm so với biểu lãi suất cũ, mức lãi suất cao nhất là 9,72%/năm. Có thể thấy rằng, hoạt động điểu chỉnh lãi suất huy động vốn tại các ngân hàng thương mại hiện nay tập trung ở các kỳ hạn ngắn, còn các kỳ hạn dài đã bị thu hẹp. Ngoài việc tăng lãi suất, nhiều ngân hàng cũng sử dụng các công cụ huy động là kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trong đó lãi suất được đẩy lên đỉnh điểm ở các kỳ hạn ngắn. Nhận xét : Các ngân hàng thường đưa ra mức lãi suất cao cùng với nhiều chương trình khuyến mại hấp dẫn. Thế nhưng kỳ hạn ứng với mức lãi suất đưa ra đó thường là một năm. Nếu chia bình quân tháng và với một lượng tiền gửi không nhiều thì chi phí cơ hội sẽ cao hơn thu nhập từ tiền lãi. Bên cạnh đó, khách hàng thường không xem trọng mối quan hệ lâu dài giữa khách hàng gửi tiền - ngân hàng huy động, cho nên việc thay đổi đối tác trong giao dịch là điều tất yếu xảy ra. Đây cũng có thể xem như là một chi phí nữa mà khách hàng bỏ ra. Việc tạo dựng được mối quan hệ lâu dài của cả hai phía là một yếu tố mang đậm tính văn hoá kinh doanh, mà điều này thường cả hai phía đều không xem trọng. Qua thời gian biến động cho ta thấy rằng tính chuyên nghiệp cũng như văn hoá kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam còn nhiều yếu kém khi giao dịch không được đặt trên nền tảng lòng tin mà là lợi ích trước mắt. Chính vì sự mong manh đó nên lượng vốn trong dân còn rất lớn nhưng với mức lãi suất huy động cao như hiện nay vẫn không thu hút đáng kể. Và khi khối lượng lớn vốn ấy cứ nằm im thì chúng ta lại tăng chi phí cơ hội của mình một lần nữa. Theo đánh giá của một số chuyên gia trong ngành tài chính ngân hàng, quyết định giữ nguyên lãi suất cơ bản của NHNN sẽ tiếp tục gây áp lực cho hệ thống ngân hàng đối với việc huy động vốn trong bối cảnh thị trường hiện nay. Bởi trước khi quyết định trên được ban hành, các ngân hàng đã kiến nghị NHNN nên bỏ trần lãi suất huy động vốn đang áp dụng 10.5%/năm. Thực tế hiện nay, ngoài mức trần lãi suất huy động là 10.5%/năm, các ngân hàng phải gia tăng khuyến mãi, tặng tiền mặt cho khách hàng, với kỳ vọng thu hút được nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư. Chẳng hạn, tại SCB áp dụng chương trình tặng tiền cho khách hàng là tổ chức gửi tiền bằng VND, với mức gửi tối thiểu 50 triệu đồng (kỳ hạn 3 tháng trở lên theo hình thức lĩnh lãi cuối kỳ). Theo đó, SCB tặng ngay tiền mặt bậc thang theo số dư lên đến 0,25%/năm, tặng tiền mặt 0,1%/năm khi gửi lại và tặng tiền mặt cho khách hàng tham gia gửi trước ngày 1/4 lên đến 0,2%/năm với mong muốn huy động được nhiều vốn. Năm 2010, chủ trương hỗ trợ lãi suất chỉ còn duy trì đối với các khoản vốn vay trung, dài hạn. Trong khi đó, vốn huy động về của ngân hàng hiện chủ yếu tập trung ở kỳ hạn ngắn ngày (dưới 6 tháng). Nhưng các ngân hàng cho biết, cái khó nhất trong triển khai tín dụng hiện nay vẫn là phải áp dụng trần lãi suất cho vay theo xu hướng lãi suất cơ bản của tháng 3/2010 (trần cho vay là 12%/năm), không đủ bù chi phí. Quản lý thanh khoản bất cập. Cơ cấu nguồn vốn trong hệ thống ngân hàng có tới 80% tổng nguồn vốn là có kỳ hạn dưới 1 năm, chỉ có 20% tổng nguồn vốn là có kỳ hạn trên 1 năm (trong đó kỳ hạn trên 2 năm chưa tới 10%). Trong khi đó cơ cấu cho vay phổ biến tại các ngân hàng thương mại Việt Nam là gần 60% tổng dư nợ cho vay với thời hạn cho vay trên 1 năm Trong những năm qua các ngân hàng đều có lợi nhuận khá nhờ doanh thu tăng mạnh và chênh lệch lãi suất cho vay/vay lớn. Tuy nhiên, lợi nhuận trong 18 tháng qua có sự biến động mạnh, trong đó lợi nhuận chính chủ yếu là nhờ tỷ lệ cho vay cao và lãi suất tăng mạnh trong nửa đầu năm 2008. Lợi nhuận của các NHTM quốc doanh sẽ vẫn thấp hơn so với các ngân hàng có vốn nước ngoài. Đồng thời, môi trường cạnh tranh gay gắt và lãi suất giảm càng gây thêm sức ép tới lợi nhuận của các ngân hàng. Dự đoán chung, lợi nhuận của các ngân hàng Việt Nam trong những năm tới sẽ giảm do môi trường kinh doanh ngày càng khó khăn ảnh hưởng tiêu cực tới kết quả hoạt động. Những yếu tố được dự báo sẽ tác động xấu đến lợi nhuận bao gồm chi phí đảm bảo chống thất thu vốn tăng lên, tăng trưởng tín dụng giảm do nhu cầu yếu, và tình trạng thắt chặt cho vay tín dụng và nguồn cung tín dụng giảm. Thanh khoản: đáp ứng đủ, nhưng sẽ thắt chặt dần. Hệ thống ngân hàng Việt Nam chịu tác động hạn chế của cuộc khủng hoảng tín dụng một phần là nhờ thanh khoản dồi dào. Tuy nhiên, tỷ lệ cho vay/tiền gửi (LDR) đang tăng lên. Theo Ngân hàng Nhà nước, tăng trưởng tín dụng trong tháng 6/2009 là 17% so với cuối năm 2008, cao hơn so với 16% của tỷ lệ tăng trưởng tiền gửi. Các ngân hàng liên doanh nói chung thì có nền tảng thanh khoản tốt hơn các NHTM quốc doanh. Tiềm năng thu hút tín dụng trong nước của các ngân hàng rất lớn. Tuy nhiên, triển vọng này bị cản trở do tâm lý cố hữu của người dân từ trước đến nay thiếu tin tưởng vào hệ thống ngân hàng và nền kinh tế vẫn sử dụng nhiều tiền mặt, nơi phần lớn người dân vẫn không giữ tiền tiết kiệm trong ngân hàng. Ngoài ra, sự lên giá gần đây của thị trường bất động sản và chứng khoán càng khiến các ngân hàng phải cạnh tranh nhiều hơn để thu hút tín dụng trong dân. Mặc dù vậy, tiền gửi vẫn là nguồn tín dụng đầu vào chủ yếu cho các ngân hàng, chiếm 70-75% tổng vốn tín dụng. Đây là yếu tố tích cực cho triển vọng của các ngân hàng. Hiệu quả hoạt động chưa cao Hiệu suất hoạt động của các ngân hàng Việt Nam dao động trong khoảng 33-69%, tuỳ thuộc vào các yếu tố như cơ cấu chủ sở hữu, mô hình và chiến lược kinh doanh, cũng như chi phí hoạt động. Chẳng hạn, các ngân hàng cổ phần ở Việt Nam hoạt động với cơ chế tự động cao hơn và có đội ngũ nhân viên lương cao nhiều hơn. Hiệu suất hoạt động của họ đã giảm do quá trình phát triển hạ tầng, chi phí lương tăng, và các chi phí quản lý khác liên quan đến mở rộng mạng lưới và hoạt động bán lẻ. Chi phí nhân sự cao do sự khan hiếm chuyên gia trong lĩnh vực này, vì vậy các ngân hàng phải tăng lương để giữ chân nhân viên. Nhiều ngân hàng sẽ đối mặt với tình trạng chi phí tiếp tục gia tăng khi mở rộng hạ tầng công nghệ thông tin và phát triển mạng lưới. Nếu doanh thu giảm, dù là nhỏ, các ngân hàng sẽ phải điều chỉnh mạng lưới chi nhánh để nâng cao hiệu suất hoạt động. Có thể các ngân hàng sẽ áp dụng các chiến lược kinh doanh bảo thủ và thận trọng hơn, kèm theo các biện pháp cắt giảm chi phí. Huy động vốn đủ và cần tiếp tục củng cố. Các ngân hàng Việt Nam vẫn chưa có tiềm năng vốn tương xứng và nói chung vẫn có vốn thấp so với tiêu chuẩn của thế giới. Vì vậy, nhiều NHTM quốc doanh sắp được cổ phần hoá sẽ đòi hỏi sự bơm vốn từ phía chính phủ hoặc/và các nhà đầu tư chiến lược để hỗ trợ tăng trưởng vốn. Vốn điều lệ còn thấp Theo hướng dẫn về vốn pháp định và các tiêu chuẩn quốc tế Basel 1, các ngân hàng của Việt Nam cần duy trì một hệ số vốn tối thiểu (CAR) là 8%. Đến cuối năm 2010, các ngân hàng Việt Nam sẽ buộc phải đăng ký vốn tối thiểu là 3.000 tỷ đồng.Tuy nhiên tính đến tháng 3/2010, trong số 39 ngân hàng thương mại cổ phần, nếu xét theo quy mô vốn điều lệ thì có 21/39 ngân hàng thương mại cổ phần dưới 2.000 tỷ đồng; 30/39 dưới 3.000 tỷ đồng và chỉ 9/39 có vốn trên 3.000 tỷ đồng. Đứng đầu “câu lạc bộ trên 3.000 tỷ đồng” là Vietcombank với 12.100 tỷ đồng (650 triệu USD) nhưng có thể bị VietinBank “qua mặt” vì vốn điều lệ của ngân hàng này đang là 11.252 tỷ đồng và dự kiến hết 2010, VietinBank sẽ phát hành thêm 3 đợt, nâng vốn điều lệ lên mức 18.731 tỷ đến 19.833 tỷ đồng. Tiếp theo là Eximbank (8.800 tỷ đồng), ACB (7.814 tỷ đồng), Sacombank (6.700 tỷ đồng), LienVietBank (3.300 tỷ đồng)...   Vì thế các ngân hàng yếu, tiềm lực tài chính có hạn sẽ chịu nhiều sức ép, việc này có thể dẫn đến tình trạng sáp nhập trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.Theo Moody’s nhận thấy có một sự chênh lệch lớn giữa tỷ lệ CAR của các ngân hàng cổ phần và các ngân hàng NHTM quốc doanh, từ 7% đến 14%, trong đó tỷ lệ của NHTM quốc doanh thấp hơn. Mặc dù tổng vốn huy động của các ngân hàng Việt Nam hiện nay vẫn đáp ứng đủ, song khả năng phát triển và mở rộng thị phần của họ trong một môi trường ngân hàng phát triển nhanh chóng chủ yếu phụ thuộc vào khả năng huy động vốn của họ. Theo dự đoán chất lượng tài sản của các ngân hàng sẽ xấu đi, song mức độ thua lỗ tiểm ẩn này và tác động của nó tới khả năng huy động vốn vẫn chưa chắc chắn do tình trạng bi quan trong nền tài chính toàn cầu hiện nay và môi trương hoạt động trong nước dự báo sẽ xấu đi. Cho rằng các ngân hàng có nền tảng vốn yếu cần củng cố vị thế của họ nhằm triệt tiêu bớt những tổn thất không lường trước. Điều này đặc biệt quan trọng do khả năng huy động vốn của ngành đang suy yếu bởi khả năng dự phòng thấp của toàn bộ hệ thống và lo ngại gia tăng về tỷ lệ nợ khó đòi cũng như mức độ tập trung cao của hệ thống ngân hàng. Hoạt động huy động vốn trong năm 2010 được xác định sẽ khó khăn hơn so với năm trước, chênh lệch lãi suất đầu vào - đầu ra tiếp tục co hẹp khi trần lãi suất chưa được bãi bỏ. Đồng thời, nguồn thu từ các hoạt động kinh doanh vàng, ngoại tệ… sẽ không còn đóng góp vào lợi nhuận, khi hoạt động sàn vàng phải đóng cửa. Vì thế, kế hoạch lợi nhuận năm nay dù được hầu hết ngân hàng "co kéo" để không thua kém năm qua, nhưng để đạt được con số này không hề dễ dàng. Giảm thu từ dịch vụ… Năm 2009, hoạt động kinh doanh ngoại hối chỉ mang về cho Eximbank (EIB) 134 tỷ đồng, giảm đến 78,8% so với năm 2008 (634 tỷ đồng). Vì năm qua được xem là năm khó khăn đối với lĩnh vực kinh doanh ngoại hối, cho dù EIB được biết đến là ngân hàng có thế mạnh về kinh doanh vàng và ngoại tệ. Đồng thời, trong quý IV/2009, EIB kinh doanh chứng khoán bị lỗ 43,5 tỷ đồng và lũy kế cả năm lỗ hơn 39,8 tỷ đồng. Như vậy, lợi nhuận sau thuế quý IV của Ngân hàng chỉ đạt 162 tỷ đồng, dù lũy kế cả năm EIB lãi 1.144 tỷ đồng, tăng 60,9% so với cùng kỳ. Con số lợi nhuận trước thuế năm 2009 đạt trên 5.688 tỷ đồng, tăng 342,76% so với cùng kỳ năm 2008 của Vietcombank (VCB) vừa được ngân hàng này công bố, đã gây bất ngờ lớn cho nhiều người. Vì trước đó, chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế đưa ra đầu năm qua của VCB chỉ ở mức khiêm tốn 3.400 tỷ đồng. Đó là do trong năm qua tỷ lệ nợ xấu của VCB được xử lý ở mức thấp, dưới 3%. Điều này dẫn đến dự phòng rủi ro giảm xuống rất nhiều, đồng thời được hoàn nhập một phần dự phòng của năm trước đó. Cụ thể, theo báo cáo tài chính của VCB, lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trong quý cuối cùng của năm 2009 đạt trên 1.644 tỷ đồng, hoàn nhập dự phòng rủi ro tín dụng là hơn 249 tỷ đồng; trong khi cùng kỳ năm 2008, VCB phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng lên đến 2.050 tỷ đồng. Còn thu nhập từ lãi và thu nhập tương tự của VCB đạt 3.964,24 tỷ đồng trong quý IV/2009, giảm 18,68% so với cùng kỳ năm 2008, trong khi chi phí hoạt động lên tới 1.250 tỷ đồng, tăng 83% so với cùng kỳ. Lũy kế cả năm 2009, thu nhập từ lãi của VCB đạt 15.292 tỷ đồng, tăng 38,55% so với năm 2008; chi phí hoạt động lên tới 3.733,4 tỷ đồng, gấp hơn 2 lần năm 2008, nhưng trích lập dự phòng rủi ro tín dụng chỉ có 191,43 tỷ đồng. Tại Sacombank (STB), lợi nhuận trước thuế quý IV/2009 đạt 614,9 tỷ đồng, tăng 17,5%; lợi nhuận sau thuế đạt 486,5 tỷ đồng, tăng 14% so với quý trước đó. Lũy kế cả năm, tổng thu của STB đạt 9.145,8 tỷ đồng; tổng chi là 6.995,3 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế hợp nhất đạt 2.150,4 tỷ đồng. So với chỉ tiêu kế hoạch năm 2009, lợi nhuận trước thuế của Ngân hàng vượt 34,4% (chỉ tiêu 1.600 tỷ đồng). EPS 4 quý gần nhất theo tính toán của STB đạt 2.784 đồng. Tuy nhiên, chỉ tiêu lợi nhuận năm 2010 của STB ở mức 2.600 tỷ đồng được cho là áp lực không nhỏ đối với HĐQT và Ban điều hành Ngân hàng. Vì theo đại diện STB, trong năm nay do chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng phải xây dựng thấp hơn năm trước, nên Ngân hàng sẽ gia tăng nguồn thu từ dịch vụ, với tỷ trọng chiếm trên 30% trong tổng thu nhập đóng góp vào lợi nhuận (năm 2009, nguồn thu từ hoạt động dịch vụ đóng góp khoảng 25 - 30%

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26845.doc
Tài liệu liên quan