Đề án Hoàn thiện khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực xuất khẩu của Công ty Da giầy Hà Nội

MỤC LỤC

 Trang

LỜI NÓI ĐẦU 3

PHẦN I: HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT KHẨU CỦA

CÔNG TY DA GIẦY HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN QUA 4

I. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY DA GIẦY HÀ NỘI 4

1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty 4

2. Cơ cấu tổ chức của Công ty 6

3. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty Da giầy Hà Nội 9

II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY DA GIẦY HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN QUA. 10

1. Tình hình chung về hoạt động sản xuất- kinh doanh của Công ty Da giầy Hà Nội 10

2. Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty 12

2.1. Về chất lượng hàng xuất khẩu 13

2.2. Về thị trường xuất khẩu 14

3. Những vấn đề còn tồn tại 14

4. Nguyên nhân 15

4.1 Nguyên nhân chủ quan 15

4.2 Những nguyên nhân khách quan: 16

PHẦN II: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN

KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY 18

I. GIẢI PHÁP TỪ PHÍA CÔNG TY 18

1. Tăng cường hoạt động marketing nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu 18

2. Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu của công ty 19

2.1 Về chất lượng sản phẩm 19

2.2 Về giá cả sản phẩm 20

2.3 Về thời gian giao hàng 21

2.4 Phải thu thập thông tin kịp thời và đa dạng hoá các mặt hàng 21

3. Tập trung giải quyết những vấn đề khó khăn về vốn 22

4. Nâng cao trình độ nghiệp vụ và tay nghề cho cán bộ công nhân viên 23

 

II. GIẢI PHÁP VỀ PHÍA NHÀ NƯỚC 23

1. Hỗ trợ đầu tư nghiên cứu phát triển cho ngành giầy 23

2.Hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp sản xuất giầy dép 24

3. Xúc tiến hỗ trợ việc mở rộng thị trường xuất khẩu 24

4. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu 26

4.1. Hoàn thiện hệ thống thuế xuất nhập khẩu 26

4.2. Hoàn thiện các thủ tục hành chính hải quan 27

KẾT LUẬN 28

TÀI LIỆU THAM KHẢO 29

 

 

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1466 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hoàn thiện khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực xuất khẩu của Công ty Da giầy Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m 2002, Công ty Da Giầy Hà Nội đã có những thuận lợi do năm 2001 để lại. Nhưng năm 2002 là năm có nhiều sự biến động về thị trường giầy dép thế giới và khu vực, nó có tác động một phần không nhỏ đối với Công ty. Mặc dù vậy, trong năm 2002 Công ty vẫn thực hiện tốt kế hoạch đề ra. Trong các năm 2001, 2002 Công ty đã cho ra đời hàng trăm mẫu mốt, đáp ứng nhanh chóng và kịp thời các yêu cầu của khách hàng chấp nhận và đặt hàng sản xuất trong những năm qua. Đây là điều kiện quan trọng để Công ty thực hiện phương thức mua đứt bán đoạn (FOB) tới 90% phương thức gia công chỉ chiếm 5 - 10% như hiện nay. Mặt khác để chủ động và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thời gian qua Công ty Da Giầy Hà Nội đã chú trọng đầu tư xây dựng trung tâm mẫu mốt khá mạnh, với đội ngũ gần 30 cán bộ công nhân viên thiết kế và chế thử mẫu. - Để nắm bắt nhanh chóng, kịp thời các thông tin về thị trường, Công ty đã xây dựng một đội ngũ cán bộ marketing trẻ được đào tạo cơ bản kể cả đối với thị trường trong nước và xuất khẩu. Công ty liên tục tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế và Việt Nam tổ chức, Công ty đã xây dựng được cho mình một Website riêng trên mạng Internet để quảng bá sản phẩm của mình, đồng thời tham gia tích cực vào hệ thống bao gồm 40 đại lý bán và giới thiệu sản phẩm của Công ty, trên phạm vi toàn quốc. Sản phẩm của Công ty đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới như: Pháp, Đức, Anh, ý, Hà Lan, Bỉ, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Thuỵ Sỹ, Hy Lạp, Thuỵ Điển, Đan Mạch... Năm 2001 được sự ủng hộ của Tổng Công ty da giầy Việt Nam, Công ty đã đầu tư mới mở rộng sản xuất 5,5 tỷ đồng. Trong đó có 1,5 tỷ đồng cho xây dựng cơ bản và 4 tỷ đồng cho nhà máy móc thiết bị. Đến nay, Công ty đã có một hệ thống nhà xưởng máy móc thiết bị đồng bộ, sạch sẽ khang trang đạt tiêu chuẩn quốc tế, bao gồm: 01 xí nghiệp sản xuất giầy vải. 01 xí nghiệp sản xuất giầy da 01 xí nghiệp sản xuất cao su và đế giầy. 01 xí nghiệp cơ điện 01 Xí nghiệp Liên doanh Hà Việt - Tung Shing Như vậy, qua phân tích ở trên, ta thấy tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty Da giầy Hà Nội có xu hướng phát triển tốt. 2. Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty: Công ty Da Giầy Hà Nội mặc dù mới chuyển sang sản xuất kinh doanh giầy dép trong 4 năm trở lại đây. Nhưng Công ty cũng đã thể hiện là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả và có tích luỹ, hoạt động đang có chiều hướng đi lên. Trong những năm gần đây, thị trường giầy dép thế giới và khu vực có rất nhiều biến động như: - Sự mất giá của đồng EURO đã làm ảnh hưởng lớn đến giá cả của giầy dép xuất khẩu vào thị trường EU. Và dẫn tới sản lượng giầy xuất khẩu vào thị trường EU năm 2001 giảm, đặc biệt là giầy vải. Thêm vào đó lượng giầy tồn kho trên thị trường thế giới tăng, dẫn đến cầu về thị trường giầy dép giảm. Bên cạnh đó, Trung Quốc một đất nước với hơn 1 tỷ dân, giá nhân công lao động rẻ, một đối thủ cạnh tranh lớn có đầy đủ tiềm năng và ưu thế như ngành da giầy Việt Nam, nhưng lớn hơn và mạnh hơn rất nhiều lần. Hơn thế, với việc đã chính thức gia nhập WTO làm cho hàng hoá xuất khẩu của Trung Quốc cũng có những lợi thế cạnh tranh nhất định. Trước bối cảnh như vậy, để đạt được mục tiêu là đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu giầy dép của Công ty Da Giầy Hà Nội sang các nước trong khu vực và EU, đòi hỏi Công ty cần phải có một chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Và trong các năm 2000, 2001, 2002 Công ty đã từng bước khẳng định được hướng đi đúng đắn của mình, thông qua kết quả xuất khẩu giầy dép đạt được, có thể đánh giá chính xác và khách quan về hoạt động này thông qua bảng sau: Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu năm 2000, 2001, 2002 Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Sản lượng (đôi) Giá trị (USD) Sản lượng (đôi) Giá trị (USD) Sản lượng (đôi) Giá trị (USD) Tổng giá trị xuất khẩu (FOB) trong đó: 630.000 1.105.000 700.000 1.501.000 762.600 2.030.000 - Giầy vải 623.700 994.500 677.250 1.100.450 701.250 1.400.750 - Giầy da gia công 6.300 110.500 22.750 400.550 61.350 569.250 Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh xuất khẩu các năm 2000, 2001, 2002 của phòng xuất nhập khẩu Theo bảng trên có thể thấy sản lượng xuất khẩu mặt hàng giầy da gia công của Công ty tăng rõ rệt trong năm 2002 và tăng gần 10 lần so với năm 2001 và gần 3 lần so với năm 2000. Thị trường tiêu thụ giầy vải gia công nói riêng và da giầy của Công ty nói chung ngày càng tìm được chỗ đứng trên thị trường tiêu dùng quốc tế.Mặt khác hình thức xuất khẩu của Công ty cũng thay đổi, trong năm 2000, Công ty còn thực hiện hình thức gia công xuất khẩu, nhưng sang năm 2001 Công ty chuyển hẳn sang hình thức xuất khẩu trực tiếp. Sở dĩ có được các kết quả như vậy, một phần là do các nguyên nhân sau: + Các quốc gia xuất khẩu giầy dép lớn như Hàn Quốc, Đài Loan, đang dần mất đi lợi thế của ngành công nghiệp da giầy này, là ngành sử dụng nhiều lao động. Khi giá công nhân ở khu vực này đang trở lên đắt hơn so với khu vực khác. + Việt nam có thế mạnh là nhân lực dồi dào, rẻ, có trình độ kỹ năng tốt, mặt khác giầy dép Việt Nam lại được hưởng chế độ thuế quan của EU. + Do liên minh Châu Âu(EU), một thị trường tiêu thụ giầy dép lớn đã đưa ra chính sách phá giá đối với Trung Quốc, bãi bỏ quy chế ưu đãi thuế với Thái Lan, hạn chế số lượng nhập khẩu bằng hạn ngạch và tăng thuế nhập khẩu giầy vào EU đối với các mặt hàng có xuất xứ từ Trung Quốc, Inđônêxia (tăng từ 16% đến 94%) vì vậy có sự dịch chuyển đơn hàng sang Việt Nam. + Do nắm bắt được tình hình, Công ty đã mở rộng, nâng cao công suất nhằm đáp ứng các đơn đặt hàng, tránh rủi ro cho khách hàng. Chính vì vậy Công ty ngày càng có nhiều đơn đặt hàng hơn. 2.1. Về chất lượng hàng xuất khẩu Với mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, thoả mãn yêu cầu khách hàng. Năm 2001 Công ty Da Giầy Hà Nội đã xây dựng và áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng quốc tế theo tiêu chuẩn ISO-9002. Ngày 31/7/2000 Công ty ra quyết định thành lập Hội đồng chất lượng ISO - 9002, mở ra các lớp đào tạo chuyên gia đánh giá giá nội bộ, ban hành chính sách chất lượng của Công ty, sổ tay chất lượng ISO-9002, 18 thủ tục ISO-9002 và các biểu mẫu quy trình kiểm tra, bản mô tả công việc của từng cán bộ công nhân viên. Kết quả sau hơn một năm triển khai xây dựng áp dụng thử và hoàn thiện 10/2001 tập đoàn thử và hoàn thiện. Tháng 10/2001 tập đoàn chứng nhận quốc tế - SGS đã giá và chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng của Công ty đạt tiêu chuẩn hệ thống chất lượng quốc tế ISO-9002 và cấp chứng chỉ ISO-9002 cho Công ty (số 18727 ngày 20/10/2001). Đây là thành quả to lớn của sự phấn đấu liên tục, không mệt mỏi của toàn thể cán bộ công nhân viên Công ty Da Giầy Hà Nội, là điều kiện quan trọng để Công ty đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường và cũng là tờ giấy thông hành để Công ty thâm nhập và mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường mới. Mặt khác Công ty cũng xây dựng được một đội ngũ cán bộ, trung tâm mẫu mốt khá mạnh với 30 công nhân viên thiết kế và thử mẫu. Vì thế trong các năm 2001, 2002 Công ty đã cho ra đời hàng trăm mẫu mốt mới, đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của khách hàng. 2.2. Về thị trường xuất khẩu Hiện nay phần lớn sản phẩm của Công ty xuất khẩu sang thị trường các nước Châu Âu là chủ yếu, như: Đức, Thuỵ Sỹ, Hy Lạp, Hà Lan, Anh, Pháp, Thuỵ Điển, Đan Mạch. Tuy nhiên sau khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ được thông qua thì thị trường Mỹ là điểm nhắm tới và Công ty sẽ tập trung mở rộng mối quan hệ giao dịch với thị trường đầy tiềm năng này. Ngoài ra, thị trường khu vực cũng là thị trường mà Công ty đang quan tâm, tuy nhiên cũng sẽ khó khăn hơn do giá cả vật tư, nguyên liệu và nhân công chênh lệch không nhiều so với nước ta. Có thể nói, Công ty Da Giầy Hà Nội đã tạo ra được uy tín đối với khách hàng trong và ngoài nước, phần lớn các sản phẩm của Công ty là xuất khẩu, và thị trường xuất khẩu chính của Công ty là các nước EU. Hiện nay Công ty đã và đang mở rộng hàng hoá của mình sang thị trường Mỹ, đây chính là một hướng đi quan trọng, có thể là mũi nhọn tiến công chiến lược, trong sự tăng tốc chung của ngành da giầy và dệt may nước ta trong thời gian sắp tới. 3. Những vấn đề còn tồn tại: Về bạn hàng kinh doanh, do Công ty mới phát triển nên chưa có hệ thống phân phối trực tiếp tại các thị trường tiêu thụ nước ngoài. Do đó, Công ty thường xuyên phải bán sản phẩm của mình cho các đối tác trung gian nên hiệu quả xuất khẩu chưa cao. Trình độ quản lý kỹ thuật công nghệ, thiết kế và phát triển mẫu mốt, quản lý vận hành sản xuất kinh doanh của cán bộ Công ty còn hạn chế. Mặc dù đã cố gắng đầu tư đổi mới công nghệ kỹ thuật, chủ yếu là thiết kế và triển khai mẫu mốt nhưng phần lớn sản phẩm của Công ty là do đối tác trung gian nước ngoài cung cấp đơn đặt hàng và mẫu mã sản phẩm, điều này khiến Công ty phụ thuộc bị động nhiều và hiệu quả kinh tế không cao. Thị trường chủ yếu của Công ty là thị trường Châu Âu. Việc tập trung vào một thị trường như vậy, tuy có những ưu điểm, song bên cạnh đó còn có những hạn chế nhất định như: gặp rủi ro trong sự biến động của thị trường, hoạt động xuất khẩu quá lệ thuộc vào một thị trường. Nếu như EU có chính sách mới ngăn cản hàng tiềm năng mà Công ty chưa thâm nhập vào nhanh, thì tất yếu Công ty sẽ mất lợi thế và cơ hội phát triển mở rộng sản xuất. Công ty vẫn áp dụng phương pháp quản lý tiếp cận khách hàng theo kiểu cũ. Theo đó Công ty thường không chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng mà ngược lại chờ khách hàng đến liên hệ giao dịch với Công ty khi có nhu cầu. Phương pháp tiếp cận này cùng với việc mở rộng thị phần của Công ty tại các thị trường nhập khẩu gặp phải nhiều khó khăn. Việc tổ chức sản xuất kinh doanh của Công ty vẫn còn bị mất cân đối, quá gấp gáp vào những tháng đầu và cuối năm nhưng lại quá nhàn rỗi vào những tháng giữa năm. Sở dĩ vậy, Công ty còn tồn tại những vấn đề trên là do những nguyên nhân chủ yếu sau: 4. Nguyên nhân: 4.1 Nguyên nhân chủ quan Một là, Công ty Da Giầy Hà Nội mới chuyển sang lĩnh vực sản xuất kinh doanh giầy dép. Đây là lĩnh vực hết sức mới mẻ đối với Công ty. Do đó Công ty chưa có kinh nghiệm trong sản xuất và kinh doanh mặt hàng này. Hai là, do Công ty mới thành lập nên trình độ lao động ở Công ty còn hạn chế, công nhân lành nghề ít, số công nhân đạt bậc 7 chỉ có 15 người, chiếm 15% tổng số công nhân. Hơn nữa số công nhân nữ chiếm 50% nên sản xuất cũng gặp khó khăn, ngày công, giờ công cũng khó được bảo đảm do nghỉ thai sản, ốm đau... do vậy ảnh hưởng tới tốc độ sản xuất hoạt động xuất khẩu của Công ty. Ba là, do mới thành lập nên bộ máy quản lý, kỹ thuật của Công ty còn yếu. Mặc dù Công ty đã thành lập được một trung tâm mẫu mốt, nhưng những mẫu mã mà Công ty sản xuất chủ yếu là do nước nhập khẩu đưa sang hoặc là những mẫu mốt cải tiến ít nhiều dựa trên cơ sở các mẫu đã có. Còn thực tế những mẫu mã mà Công ty tự thiết kế tiến tới còn rất hạn chế, chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Về cơ sở hạ tầng còn thấp, các thiết bị hiện đại như máy vẽ thông qua hệ thống vi tính, máy thử độ bền... Công ty chưa có. Bốn là, do tính mùa vụ sản xuất. Do nhu cầu về giầy thường tăng mạnh vào những tháng cuối năm (từ tháng 8 năm nay đến tháng 4 năm sau) nên việc sản xuất giầy của Công ty cũng phải sản xuất theo 2 mùa. Về mùa lạnh, Công ty phải tập trung sản xuất giầy xuất khẩu, trong mùa này nhịp độ sản xuất của Công ty lại giảm đi, có phần chậm lại, máy móc không sử dụng hết công suất. Do vậy việc sản xuất của Công ty trở nên mất cân đối, quá gấp gáp vào những tháng đầu năm và cuối năm, nhưng lại quá nhàn rỗi vào những tháng giữa năm. Năm là, sự yếu kém của khâu tổ chức marketing, chưa có chuyên viên về Marketing. Những người làm công tác Marketing hiện nay mới chỉ có kinh nghiệm thực tế chứ chưa được đào tạo qua chuyên ngành marketing. Do vậy hoạt động marketing của Công ty không được tiến hành thường xuyên, làm giảm sức cạnh tranh của Công ty. Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan của Công ty, hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất khẩu của Công ty còn chịu tác động từ bên ngoài. 4.2 Những nguyên nhân khách quan Thứ nhất, mặt hàng giầy dép là mặt hàng hàng thường xuyên thay đổi mẫu mã và kiểu dáng cho phù hợp với nhu cầu đi lại, ăn mặc... nên khó xác định chính xác nhu cầu của khách hàng. Hơn nữa, ở Việt Nam chưa có trung tâm thiết kế mẫu mốt, về mặt hàng này nên nó cũng gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất giầy dép nói chung và Công ty da giầy Hà Nội nói riêng. Thứ hai, sản xuất giầy dép nói chung bị lệ thuộc quá nhiều vào cung ứng nguyên vật liệu, phụ liệu, hoá chất, phụ tùng, thiết bị máy móc từ nước ngoài. Do đó ảnh hưởng đến quy trình sản xuất và làm cho giá thành sản phẩm cao hơn so với các nước khác. Hơn nữa những nguyên vật liệu của Việt Nam thì không đồng bộ, chất lượng không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Thứ ba, việc Việt Nam tham gia vào AFTA, tuy có đem lại thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhưng cũng đưa lại những thách thức, như đẩy doanh nghiệp sản xuất giầy dép Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với giầy dép của các nước trong khu vực. Đặc biệt là sự cạnh tranh quyết liệu của giầy dép Trung Quốc, đây là một thị trường giàu tiềm năng, một nguồn cung cấp hàng hoá vốn có giá trị gia tăng cao nhất là khi Trung Quốc đã tham gia tổ chức thương mại quốc tế (WTO), khi đó hàng rào thuế quan của EU đối với giầy dép nhập khẩu từ Trung Quốc không còn có hiệu lực nữa. Thứ tư, mặc dù đã có những cải cách trong quá trình thực hiện các thủ tục xuất nhập khẩu, những quy định còn phiền hà, chưa thực sự thông thoáng. Mặc khác, việc áp dụng mà đối với các nguyên phụ liệu giầy nhập khẩu còn chưa thống nhất và chính xác đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp, ảnh hưởng đến thời gian sản xuất và giao hàng xuất khẩu. Ngoài ra, thủ tục nhập dây chuyền sản xuất, đầu tư quá phức tạp, giải trình qua nhiều khâu, ảnh hưởng không tốt đến quá trình sản xuất. Hơn nữa việc nhập khẩu dây chuyền sản xuất phải nhập dưới hình thức kinh doanh nên phải nộp thuế, do đó làm giảm lợi nhuận của Công ty. Thứ năm, tuy đã có những cải cách đáng kể trong chính sách thuế, nhưng chính sách thuế vẫn còn bất cập. Đó là tồn tại nhiều mức thuế khác nhau trong khi chưa có tiêu chuẩn phân loại nhóm sản phẩm theo từng mức cụ thể, giữa cục thuế và hải quan chưa có sự thống nhất về thuế, cách hoàn thuế. Trong thời gian qua, Nhà nước đã áp dụng chính sách miễn giảm thuế cho một số đối tượng nhưng thủ tục xin hoàn thuế hoặc miễn giảm thuế còn rườm rà, phức tạp. Thứ sáu, chính sách về khoa học công nghệ và đào tạo của Nhà nước, những năm qua Nhà nước đã quan tâm đến công tác nghiên cứu khoa học của ngành, song ở mức độ chưa nhiều. Chi phí cho nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới quá ít. Ngành chưa được quan tâm tổ chức các khoá đạo tạo chuyên sâu, phần kỹ thuật và công nghệ đang phụ thuộc nhiều vào đối tác nước ngoài. Nhà nước chưa tạo điều kiện để ngành chủ động trong tiếp thu, ứng dụng khoa học công nghệ mới (công nghệ thiết kế mẫu mốt, công nghệ tạo phẩm...). Đồng thời, Nhà nước chưa có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật và những công nhân có trình độ tay nghề cao, để gắn kết họ với Công ty, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao hiệu quả và đẩy mạnh xuất khẩu. Bên cạnh những khó khăn trên, Công ty còn phải gặp những khó khăn từ thị trường nước ngoài. Đó là những khó khăn về cung cầu của thị trường thế giới. Số lượng các doanh nghiệp sản xuất giầy dép ngày càng tăng lên, đặc biệt tại các nước công nghiệp mới ở Châu á(NICs), dẫn đến làm tăng số lượng giầy cùng chủng loại trên thị trường, làm cho cung vượt cầu dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trong khi đó hai thị trường tiêu thụ giầy dép lớn nhất là EU và Bắc Mỹ lại đang tìm cách bảo hộ sản xuất và chống lại việc nhập khẩu giầy dép giá rẻ từ các nước Châu á - Thái Bình Dương. Thị trường EU lại đang có xu hướng nhập và phát triển sản xuất giầy phát triển sản xuất giầy từ các khối nước Đông Âu, khi quan hệ thương mại với các nước đó được cải thiện. Họ tìm cách tăng sự cạnh tranh để chống chọi với các loại giầy dép rẻ tiền ở Châu á bằng các giải pháp công nghệ, các lợi thế về sự gần gũi địa lý... Vì vậy, giầy dép của Việt Nam trong đó có giầy dép của Công ty sẽ phải chịu sức cạnh tranh gay gắt hơn. Tóm lại, trên đây là một số đánh giá cơ bản hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty Da Giầy Hà Nội trong những năm qua. Sự đánh giá này được thể hiện trên hai khía cạnh: những kết quả đạt được và những vấn đề tồn tại. Những kết quả đạt được khẳng định sự đứng vững và đi lên của Công ty, đồng thời chứng minh được định hướng chiến lược phát triển đúng đắn cần được khai thác, bổ sung và hoàn thiện để phát huy tối đa các lợi thế mà Công ty có được. Bên cạnh đó nguyên nhân của những vấn đề tồn tại sẽ là phương hướng cơ bản để xây dựng một giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu trong giai đoạn tới. Phần II Một số giải pháp nhằm hoàn thiện khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực xuất khẩu của Công ty Trên con đường hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, muốn thành công không còn cách nào khác là phải nâng cao khả năng cạnh tranh. Mà muốn nâng cao khả năng cạnh tranh thì ngoài những chính sách của Nhà nước nhằm bảo hộ sản xuất trong nước cần phải nâng cao nhận thức về hội nhập không chỉ cho các doanh nghiệp mà cho cả người tiêu dùng, để các doanh nghiệp Việt Nam hiểu rõ cơ hội và thách thức của hội nhập, đề ra chiến lược kinh doanh, giải pháp đầu tư về công nghệ, quản lý để sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ chất lượng tốt, giá cả hợp lý và có sức cạnh tranh cao, tăng cường đầu tư tiếp thị, xây dựng thương hiệu, góp phần tạo lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm thương hiệu Việt Nam trên thị trường. Do đó, qua quá trình thực tập ở Công ty Da giầy Hà Nội, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện khả năng của Công ty trong lĩnh vực xuất khẩu như sau: I. Giải pháp từ phía công ty Hoạt động xuất khẩu là hoạt động mang tính chất phức tạp, bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi môi trường cạnh tranh quốc tế. Do vậy công ty muốn đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình cần phải tìm hiểu pháp luật quốc tế, tập quán quốc tế, thông lệ quốc tế, và các lợi thế, chính sách khuyến khích xuất khẩu của chính phủ ưu đãi của các tổ chức quốc tế các nước phát triển giành cho các nước kém phát triển, từ đó kết hợp với khả năng của chính mình để đẩy mạnh và tăng hiệu quả xuất khẩu. 1. Tăng cường hoạt động marketing nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu: Kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì hoạt động marketing càng giữ vai trò quyết định sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh cuả Công ty. Với 4 chính sách giá cả, sản phẩm, phân phối và khuyếch trương hoạt động của marketing đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu. Tăng cường marketing (đặc biệt là marketing quốc tế) sẽ tạo điều kiện cho Công ty đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình. Vì vậy, để củng cố hoạt động marketing nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, công ty cần phải tiến hành các công việc sau: Một là, hình thành và củng cố hoạt động của bộ phận marketing. Dự kiến thành lập bộ phận marketing khoảng 4 đến 5 người, chịu trách nhiệm điều hành là trưởng phòng xuất nhập khẩu, trong bộ máy này cũng cần phân nhỏ hơn theo hướng chuyên môn hoá theo dõi các khu vực thị trường, chẳng hạn như thị trường EU, thị trường Mỹ, thị trường Nhật, thị trường khác... Bộ phận marketing cần tập trung chủ yếu vào phân tích các khách hàng, lập hồ sơ lưu trữ của từng khách hàng, tăng cường giao lưu tiếp xúc với các khách hàng, hỗ chợ chăm sóc khách hàng. Ngoài ra cần phải thu thập thông tin của thị trường về da giầy, về tỷ giá hối đoái, về biến động của thị trường tiền tệ ... Hai là, tăng cường công tác nghiên cứu thị trường. Thông qua nghiên cứu thị trường, công ty tự xác định cho mình đâu là thị trường mục tiêu, đâu là thị trường tiềm năng của công ty. Công tác nghiên cứu thị trường đòi hỏi công ty phải tiến hành nghiên cứu các vấn đề sau: - Tìm hiểu phong tục tập quán và thị hiếu tiêu dùng của người tiêu dùng thông qua tổ chức những đợt thăm dò ý kiến khách hàng bằng cách lập phiếu thăm dò ý kiến khách hàng. - Xác định và dự báo các quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường thế giới. - Nghiên cứu chính sách ngoại thương của các quốc gia . - Tìm hiểu thông tin về giá cả, và phân tích cơ cấu các loại giá quốc tế. Mặt khác vào tháng 7/2000 vừa qua hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết, mở ra một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc thâm nhập vào thị trường khổng lồ này. Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Công ty Da giầy Hà Nội nói riêng cần phải vạch một chiến lược cụ thể, phát huy nội lực của mình để đáp ứng nhu cầu của thị trường và khả năng cạnh thị trường Mỹ khi mà mới đây hiệp định này được phê chuẩn đối với cả hai bên Việt Nam và Hoa Kỳ . Bên cạnh thị trường Mỹ thì Nhật Bản cũng là thị trường tiêu thụ tiềm năng, với nhu cầu nhập khẩu hàng năm là 350 triệu đôi giầy dép từ nước ngoài, đứng thứ ba trên thế giới về khả năng nhập khẩu giầy dép . Ba là, đẩy mạnh các hoạt động khuyếch trương. Để khách hàng biết được tên tuổi và sản phẩm của mình, đòi hỏi công ty phải tổ chức các đợt khuyến mại, quảng cáo thông qua báo chí, vô tuyến truyền hình, đặc biệt là thông qua Internet. Bên cạnh đó công ty phải tham gia tích cực hơn nữa vào các hội chợ triển lãm quốc tế về da giầy, quảng cáo trên các tạp chí, các trang thông tin chuyên đề của phòng thương mại, Bộ thương mại, Hiệp hội da giầy, Các hội chợ hàng tiêu dùng quốc tế ... 2. Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu của công ty: Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế thị trường. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải có khả năng cạnh tranh cao, đặc biệt đối với ngành sản xuất da giầy. Do có đặc điểm là không đòi hỏi vốn lớn, lại thu hồi vốn nhanh và sử dụng nhiều lao động, là ngành được hầu hết các nước đang phát triển tham gia với mức độ cạnh tranh cao. 2.1 Về chất lượng sản phẩm. - Đối với các doanh nghiệp sản xuất đặc biệt là sản xuất hàng xuất khẩu thì vấn đề chất lượng sản phẩm là điều kiện quan trọng nhất để thu hút khách hàng và giữ uy tín của công ty trên thương trường. Muốn vậy công ty cần thực hiện các biện pháp sau: + Tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng kiến thức ISO 9002 cho cán bộ công nhân viên trong công ty, nhằm duy trì hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002. + Thực hiện hiện đại hoá từng phần về công nghệ và trang thiết bị, hạn chế tối đa việc nhập khẩu thiết bị quá cũ và đã lạc hậu . + Phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm của đơn vị bạn về công nghệ và trang thiết bị. + Tăng cường trao đổi với khách hàng về ý tưởng để có bước chuẩn bị về công nghệ nhằm sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của họ. + Trong lĩnh vực thiết kế, ngoài tính kỹ thuật thì mẫu giầy còn mang tính chất mỹ thuật, do đó đòi hỏi người thiết kế phải có đầu óc thẩm mỹ, sáng tạo. Do vậy, công ty cần phải tuyển dụng các kỹ sư trẻ có khả năng tiếp thu nhanh những khoa học kỹ thuật mới, có sức bật trong công việc, có tư duy sáng tạo. + Xây dựng tiền lương, tiền thưởng hợp lý để khuyến khích những người thiết kế tập trung vào công tác nghiên cứu thiết kế. Có thể xây dựng hình thức tiền thưởng dựa trên những mẫu mã do cán bộ thiết kế tạo ra, đặc biệt là những mẫu được khách hàng ưa chuộng, đem lại nhiều lợi nhuận cho công ty. + Bên cạnh đó, công ty cần phải đầu tư, đổi mới máy móc, trang thiết bị trong lĩnh vực này như mua một hệ thống máy vi tính, máy vẽ qua vi tính cùng một số phần mềm phục vụ cho công tác nghiên cứu, thiết kế phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng mà công ty đang áp dụng. Đồng thời từng bước cải tạo, nâng cấp phòng thiết kế, chế thử mẫu và phòng thí nghiệm trên cơ sở tăng cường đầu tư thêm thiết bị cho phù hợp với nhiệm vụ mới . - Công ty phải luôn quan tâm, thường xuyên bồi dưỡng tay nghề, nâng cao trình độ tay nghề của công nhân, từ đó công nhân có thể sử dụng thành thạo máy móc... Mặt khác, công nhân có đủ trình độ sẽ tự kiểm tra chất lượng sản phẩm của mình, không có sự kiểm tra nào có hiệu quả bằng công nhân tự kiểm tra chất lượng sản phẩm do chính mình làm ra. - Một vấn đề nữa quyết định đến chất lượng sản phẩm là quá trình kiểm tra và quản lý chất lượng sản phẩm. Công ty cần xây dựng một đội ngũ các nhân viên kỹ thuật có trình độ, kinh nghiệm gắn bó và tiếp xúc trong lĩnh vực giầy dép, hoạt động vì mục đích đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty. Các cán bộ kiểm tra và quản lý chất lượng có nhiệm vụ đi sâu, đi sát quá trình sản xuất, kiểm tra từng công đoạn sản xuất sản phẩm, nếu phát hiện thấy ở công đoạn nào chất lượng không đảm bảo thì phải yêu cầu sửa ngay trước khi chuyển sang công đoạn sau, hạn chế việc phải tháo toàn bộ sản phẩm để sửa chữa lại từ đầu. 2.2 Về giá cả sản phẩm. Để tạo ra sức cạnh tranh xuất khẩu thì vấn đề giảm giá sản phẩm cũng là một vấn đề hết sức quan trọng. Hiện nay giá thành sản phẩm xuất khẩu của công ty được xác định bằng các chi phí sản xuất và các chi phí giao dịch khác. Trong thời gian tới công ty cần chú ý đến một số biện pháp sau để giảm bớt giá thành sản phẩm : - Tăng cường quản lý khâu định mức tiêu hao vật tư, cải tiến công nghệ sản xuất xử lý c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35467.doc
Tài liệu liên quan