MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
I. VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP. 1
1. Vốn và vai trò của vốn trong doanh nghiệp. 1
1.1. Khái quát về vốn. 1
1.2. Phân loại vốn. 2
1.2.1. Căn cứ vào nguồn hình thành. 2
1.2.2. Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn. 2
1.2.3. Căn cứ vào hình thức chu chuyển. 3
1.3. Vai trò của vốn trong doanh nghiệp. 6
2. Hiệu quả sử dụng vốn. 6
2.1. Quan điểm về hiệu quả và hiệu quả sử dụng vốn. 6
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng. 7
2.2.1.Các nhân tố chủ quan. 8
2.2.2.Các nhân tố khách quan. 9
2.3. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn. 10
2.3.1. Nhóm các chỉ tiêu phán ánh khả năng sinh lời của doanh nghiệp. 10
2.3.2. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động của doanh nghiệp. 11
2.3.3. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán của doanh nghiệp. 11
2.4. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn trong doanh nghiệp. 12
II. THỰC TRẠNG VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DNNN Ở NƯỚC TA. 14
1.Thực trạng về vốn trong các DNNN ở nước ta hiện nay. 14
2.Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN ở nước ta hiện nay. 16
3.Những hạn chế trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. 18
4. Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN. 20
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG CÁC DNNN. 20
1. Một số giải pháp tổng quát. 20
2. Các giải pháp cụ thể nhằm quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 22
2.1. Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm. 22
2.2. Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn vốn. 23
2.3.Tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh. 24
2.4. Mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh. 26
2.5. Tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán và phân tích hoạt động kinh tế. 26
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2788 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hoàn thiện việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.
- Quản lý vốn một cách chặt chẽ, không để vốn bị sử dụng sai mục đích, không để vốn bi thất thoát.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng.
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp chịu tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau. Để có cái nhìn tổng quát ta xem xét lần lượt các yếu tố của môi trường bên ngoài và môi trường bên trong doanh nghiệp.
2.2.1.Các nhân tố chủ quan.
2.2.1.1.Các nhân tố về quản lý.
Một là : Trình độ quản lý của doanh nghiệp. Đây là yếu tố tác động mạnh nhất đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trong một môi trường ổn định thì có lẽ đây là yếu tố quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Một bộ máy quản lý tốt với trình độ cao sẽ giúp cho hoạt động doanh nghiệp đạt kết quả cao và ngược lại. Do đó doanh nghiệp cần nâng cao trình độ quản lý, đặc biệt là đối với cán bộ quản lý tài chính.
Hai là : Lựa chọn chiến lược kinh doanh thích hợp. Trong nền kinh tế thị trường, quy mô và tính chất sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp là do thị trường quyết định. Khả năng nhận biết, dự đoán thị trường và nắm bắt thời cơ là những nhân tố quyết định đến thành công hay thất bại trong kinh doanh. Vì vậy, việc lựa chọn một chiến lược kinh doanh hợp lý, đúng đắn có ảnh hưởng lớn hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Các chiến lược kinh doanh phải được xây dựng trên cơ sở tiếp cận thị trường, có như vậy, sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra mới có khả năng tiêu thụ được, vốn sẽ được luân chuyển một cách đều đặn, tài sản cố định mới có khả năng phát huy được hết công suất, hiệu quả sử dụng vốn sẽ cao.
Ba là : Lựa chọn ngành nghề kinh doanh. Một doanh nghiệp khi thành lập phải xác định trước cho mình một loại ngành nghề kinh doanh nhất định. Những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh có ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Để lựa chọn được loại hình kinh doanh thích hợp đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu phân tích môi trường, phân tích điểm mạnh, điểm yếu của mình, đánh giá các đối thủ cạnh tranh cùng ngành... Với những lĩnh vực kinh doanh rủi ro thấp, lợi nhuận cao, ít có doanh nghiệp có khả năng tham gia hoặc lĩnh vực đó được sự bảo hộ của nhà nước, thì hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đó có khả năng cao hơn.Trong quá trình hoạt động, sự năng động sáng tạo của các doanh nghiệp trong việc lựa chọn sản phẩm, chuyển hướng sản xuất, đổi mới cải tiến sản phẩm cũng có thể làm tăng hiệu quả sử dụng vốn. Nếu doanh nghiệp biết đầu tư vốn vào việc nghiên cứu thiết kế sản phảm mới phù hợp với thị hiếu hoặc là đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh béo bở thì sẽ có khả năng thu lãi lớn.
Bốn là: Bố trí cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp thưòng biến động trong các chu kỳ kinh doanh. Việc bố trí cơ cấu vốn càng hợp lý bao nhiêu thì hiệu quả sử dụng vốn càng được nâng cao bấy nhiêu. Bố trí vốn không phù hợp làm mất cân đối giữa tài sản lưu động và tài sản cố định dẫn đến việc thừa hoặc thiếu một tài sản nào đó và làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.
2.2.1.2.. Trình độ khoa học công nghệ và đội ngũ lao động trong doanh nghiệp.
Khoa học công nghệ và đội ngũ lao động là những yếu tố quyết định đến sản phẩm của doanh nghiệp nó tạo ra sản phẩm và những tính năng, đặc điểm của sản phẩm. Có thể nói những yếu tố này quyết định kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Công nghệ hiện đại đội ngũ lao động có tay nghề cao thì sẽ làm việc với năng suất cao chất lượng sản phẩm tốt, giá thành hạ và doanh nghiệp có khả năng thu lợi nhuận cao. Tuy nhiên để có được dây chuyền thết bị hiện đại thì doanh nghiệp phải đầu tư vốn lớn. Do đó doanh nghiệp phải tính toán lựa chọn công nghệ phù hợp với chi phí hợp lý để làm tăng hiệu quả sử dụng vốn. Trong điều kiện cạnh tranh, doanh nghiệp cần chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ để tạo sức cạnh tranh cho sản phẩm của mình.
2.2.2.Các nhân tố khách quan.
2.2.2.1.Cơ chế quản lý và các chính sách của Nhà nước.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật và khả năng của mình. Nhà nước tạo hành lang pháp lý và môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh theo những ngành nghề mà doanh nghiệp đã lựa chọn và hướng các hoạt động đó theo chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Vì vậy, chỉ một thay đổi nhỏ trong cơ chế quản lý và chính sách của Nhà nước cũng ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp, ví dụ như: việc quy định trích khấu hao, tỷ lệ trích lập các quỹ, các văn bản chính sách về thuế suất...Nói chung, việc thay đổi cơ chế và chính sách của Nhà nước có thể gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Song, nếu doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt được những thay đổi và thích nghi thì sẽ đứng vững trên thị trường.
2.2.2.2.Các yếu tố của thị trường.
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng những cơ hội thách thức trên thị trường sẽ tác động lớn đến sự thành bại của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ít có đối thủ cạnh tranh hoặc có ưu thế vượt trội so với đối thủ cạnh tranh thì khả năng thu lợi nhuận lớn của doanh nghiệp đó là lớn. Điều này thể hiện rất rõ trong các doanh nghiệp hoạt động trong ngành độc quyền của Nhà nước. Ngược lại với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ít có cơ hội phát triển và gặp sự cạnh tranh gay gắt của đối thủ cạnh tranh thì hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp đó sẽ thấp. Môi trường cạnh tranh không chỉ tác động đến hiệu quả của doanh nghiệp trong hiện tại mà còn trong tương lai. Bởi vì nếu doanh nghiệp có được thắng lợi ban đầu trong cuộc cạnh tranh thì sẽ tạo được ưu thế về vốn, về uy tín, từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh trong tương lai.
2.3. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.
2.3.1. Nhóm các chỉ tiêu phán ánh khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
2.3.1.1.Hệ số sinh lời tài sản (ROA).
Hệ số sinh lời tài sản.
(ROA)
=
Lợi nhuận sau thuế.
Tổng tài sản.
Hệ số này cho biết một đồng tài sản doanh nghiệp sử dụng tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hệ số này càng cao thì việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp càng hiệu quả. hợp lý.
2.3.1.2.Hệ số sinh lời vồn cổ phần (ROE).
Hệ số sinh lợi vốn cổ phần.
(ROE)
=
Lợi nhuận sau thuế.
Vốn chủ sở hữu.
ROE là thước đo tốt nhất về năng lực của một công ty trong việc tối đa hóa lợi nhuận từ mỗi đồng vốn đầu tư. Công ty đạt được ROE càng cao thì khả năng cạnh tranh càng mạnh, do đó, ROE sẽ giúp nhà đầu tư đánh giá các công ty trong cùng ngành nghề để ra quyết định lựa chọn đầu tư.
Có thể nói, bên cạnh các chỉ số tài chính khác thì ROE là thước đo chính xác nhất để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy được tạo ra bao nhiêu đồng lời. Đây cũng là chỉ số đáng tin cậy về khả năng sinh lời của công ty trong tương lai.
2.3.2. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động của doanh nghiệp.
2.3.2.1.Vòng quay hàng tồn kho.
Vòng quay hàng
tồn kho.
=
Giá vốn hàng bán.
Hàng tồn kho bình quân.
Số vòng quay hàng tồn kho càng lớn thì tốc độ luân chuyển hàng tồn kho càng nhanh. Sự luân chuyển hàng tồn kho càng nhanh sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể giảm bớt vốn dự trữ nhưng vẫn đảm bảo vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tốt hơn và ngược lại sự luân chuyển vốn chậm thì doanh nghiệp sẽ mất nhiều vốn dự trữ hơn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh.
2.3.2.2.Số vòng quay của vốn lưu động.
Số vòng quay của VLĐ
=
Tổng doanh thu thuần
Vốn lưu động bình quân
Chỉ số này cho biết số vòng quay của VLĐ trong một kỳ sản xuất kinh doanh. Số vòng quay tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng VLĐ tăng và ngược lại.
2.3.3. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
2.3.3.1.Hệ số thanh toán ngắn hạn.
Hệ số thanh toán
ngắn hạn.
=
Tài sản lưu động.
Nợ ngắn hạn.
Hệ số thanh toán ngắn hạn cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu đồng tài sản lưu động để đảm bảo cho một đồng nợ ngắn hạn. Tỷ lệ thanh toán ngắn hạn càng cao thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng được tin tưởng và ngược lại tỷ lệ thanh toán càng thấp thì khả năng thanh toán khó mà tin tưởng được. Hệ số này thông thường được chấp nhận ở mức xấp xỉ là 2.0
2.3.3.2.Hệ số thanh toán nhanh.
Hệ số thanh toán
nhanh.
=
Tiền mặt + khoản phải thu.
Nợ ngắn hạn.
Hệ số này cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu đồng vốn bằng tiền và các khoản phải thu để thanh toán ngay cho một đồng nợ ngắn hạn. Tỷ lệ thanh toán nhanh càng cao thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Thông thường, hệ số thanh toán nhanh được chấp nhận ở mức xấp xỉ là 1.0
2.4. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh thường đặt ra nhiều mục tiêu và tuỳ thuộc vào giai đoạn hay điều kiện cụ thể mà có mục tiêu ưu tiên thực hiện, nhưng tất cả đều nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được.
Một doanh nghiệp muốn thực hiện tốt mục tiêu của mình thì phải hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Trong đó yếu tố tác động có tính quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp cần phải có những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt trong điều kiện hiện nay.
Trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, DNNN coi nguồn vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với “cho không”, nên khi sử dụng nhiều doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả, kinh doanh thua lỗ đã có nhà nước bù đắp. Điều đó gây ra tình trạng vô chủ trong quản trị và sử dụng vốn dẫn đến lãng phí vốn và hiệu quả kinh doanh thấp.
Khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp buộc phải chuyển mình theo cơ chế mới, mới có thể tồn tại và phát triển. Cạnh tranh giữa các DNNN với các thành phần kinh tế khác ngày càng trở nên gay gắt. Bởi vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có vị trí quan trọng hàng đầu của doanh nghiệp .
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp. Hoạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải đề cao tính an toàn, đặc biệt là an toàn tài chính. Đây là vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn có hiệu qủa giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng huy động vốn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được đảm bảo …
Nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh. Để đáp ứng yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm … doanh nghiệp phải có vốn, trong khi đó vốn của doanh nghiệp chỉ có hạn, vì vậy nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn là cần thiết.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng giá trị tài sản chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp như nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, nâng cao đời sống của người lao động. Vì khi hoạt động kinh doanh có hiệu qủa thì doanh nghiệp có thể mở rộng qui mô sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và mức sống của người lao động ngày càng được cải thiện. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp cho ngân sách nhà nước.
Như vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không những đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và người lao động mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển của cả nền kinh tế và toàn xã hội. Do đó, các doanh nghiệp phải luôn tìm ra các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
II. THỰC TRẠNG VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DNNN Ở NƯỚC TA.
1.Thực trạng về vốn trong các DNNN ở nước ta hiện nay.
Trong đường lối cải cách và phát triển của nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước đã khẳng định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần trong đó khu vực kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, và do đó các DNNN là lực lượng kinh tế chủ lực, là xương sống cho nền kinh tế quốc dân. DNNN là bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, đóng góp nguồn lực tài chính cho Nhà nước. Trong những năm gần đây, quy mô vốn ở các DNNN đang ngày càng được mở rộng.
Bảng 1: Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các DNNN.
Đơn vị: tỷ đồng.
2002
2003
2004
2005
2006
DNNN
858.560
932.942
1.128.831
1.333.935
1.575.959
TW
734.004
798.163
968.795
1.161.581
1.388.768
ĐP
124.556
134.779
160.036
172.354
187.190
( trích biểu 69: vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các doanh nghiệp phân theo loại hình doanh nghiệp. trang 146, niên giám thống kê 2007)
Có thể thấy rằng, vốn sản xuất kinh doanh bình quân của các DNNN tăng lên qua từng năm. Năm 2002, vốn bình quân là 858.560 tỷ đồng, đến năm 2006, số vốn bình quân đã đạt tới 1.575.959 tỷ đồng. Trong đó, vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các DNNN ở cấp Trung ương chiếm tỷ trọng lớn hơn rất nhiều so với cấp địa phương. Xét trong năm 2006, vốn ở các DNNN ở cấp Trung ương là 1.388.768 tỷ đồng, chiếm tới 45,75% tổng số vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong cả nước.
DNNN có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, chính vì vậy, vốn sản xuất kinh doanh bình quân của các DNNN cũng giữ một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn sản xuất kinh doanh bình quân của cả nước. Năm 2000, số vốn này chiếm 67,13%, nhưng đến năm 2006, số vốn này chỉ chiếm 51,92%. Tỷ trọng này tuy có xu hướng giảm qua từng năm, nhưng vẫn có thể thấy rằng, lượng vốn bình quân trong các DNNN vẫn giữ một vai trò quan trọng.
Bảng 2: Số DNNN đang hoạt động tại thời điểm 31/12/2006 phân theo quy mô vốn.
( trích biểu 81: số doanh nghiệp đang hoạt động tại thời điểm 31/12/2006 phân theo quy mô vốn và loại hình doanh nghiệp, trang 185, niên giám thống kê 2007)
Lượng vốn phân bổ cho các DNNN tương đối nhỏ bé và không đồng đều, có 31 doanh nghiệp mà quy mô vốn chưa đạt tới 0,5 tỷ đồng. Các DNNN ở Việt Nam hiện nay chủ yếu có quy mô vốn ở mức vừa, từ 10 tỷ đồng đến 200 tỷ đồng, chiếm khoảng 60,95% tổng số DNNN. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại khá nhiều doanh nghiệp có quy mô vốn tương đối nhỏ, số doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 5 tỷ đồng là 375 doanh nghiệp, chiếm khoảng 10% tổng số DNNN tại thời điểm cuối năm 2006. Tại thời điểm năm 1999, số lượng DNNN có số vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 65,45%. Như vậy, chỉ trong vòng 7 năm, quy mô vốn của các DNNN đã tăng lên nhanh chóng, số lượng doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ ngày càng giảm. Trong khi đó, số lượng DNNN có quy mô vốn lớn đang có xu hướng gia tăng. Tại thời điểm năm 1999, số doanh nghiệp có số vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm tới 20,89%, nhưng đến năm 2006, con số này đã lên tới xấp xỉ 80%. Có thể đi đến kết luận rằng, quy mô vốn của các DNNN ở nước ta hiện nay có xu hướng gia tăng, nâng cao rõ rệt trình độ tích tụ và tập trung điều này là hoàn phù hợp với vai trò của DNNN trong quá trình Công nghiệp hóa- Hiện đại hoá đất nước theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
2.Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN ở nước ta hiện nay.
Trước thời kỳ đổi mới, DNNN tồn tại dưới hình thức các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước đã hình thành một mạng lưới thống nhất trên khắp địa bàn cả nước. từ trung ương đến cơ sở. Trong thời kỳ này, vốn của các xí nghiệp đều do ngân sách nhà nước cấp. Thực hiện nguyên tắc cấp phát, giao nộp ngân sách, các xí nghiệp không tự khai thác và huy động vốn để đảm bảo vốn kinh doanh, dẫn đến tình trạng các xí nghiệp không quan tâm đến việc bảo toàn và phát triển vốn. Vốn của các xí nghiệp thất thoát nghiêm trọng, nhiều xí nghiệp lãi giả, lỗ thật và báo cáo sai lệch trong hạch toán kinh doanh. Từ năm 1986 đến nay, nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sụ điều tiết của Nhà nước, các DNNN được tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Từ đây, vốn trở thành vấn đề sống còn của các doanh nghiệp và việc sử dụng vốn có hiệu quả tất yếu sẽ làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả. Nhìn chung, từ sau khi đổi mới đến nay, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng của các DNNN đã tăng lên.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN có xu hướng tăng lên, điều này còn có thể nhận thấy qua một số chỉ tiêu về doanh thu thuần, đóng góp vào tổng sản phẩm trong nước, đóng góp vào ngân sách nhà nước.
Bảng 3: Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế của các DNNN.
Đơn vị: tỷ đồng.
2003
2004
2005
2006
2007
(sơ bộ).
Tổng số
613.443
715.307
839.211
974.266
1.144.015
DNNN
239.736
279.704
322.241
364.250
416.794
(trích biểu 29: tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế, trang 74, niên giám thống kê 2007)
Từ bảng số liệu có thể kết luận rằng, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng của các DNNN đang ngày càng tăng lên. Tổng sản phẩm trong nước mà DNNN đóng góp tăng lên gần gấp đôi trong vòng năm năm, từ 239.736 tỷ đồng (2003) lên đến 416.794 tỷ (2007). Tuy nhiên, tỷ trọng đóng góp của thành phần kinh tế này lại giảm, từ 39,08% (2003) xuống còn 36,43% (2007). Điều này cho thấy các thành phần kinh tế khác đang hoạt động có hiệu quả và có xu hướng lấn át khu vực kinh tế Nhà nước.
Xét về chỉ tiêu doanh thu thuần, do các doanh nghiệp ngày càng hoạt động có hiệu quả nên doanh thu thuần cũng tăng lên nhanh chóng qua các năm.
Bảng 4: Doanh thu thuần sản xuất kinh doanh của DNNN.
Đơn vị: tỷ đồng.
2003
2004
2005
2006
DNNN
666.022
708.898
838.380
961.461
Trung ương
504.577
533.072
663.378
771.765
Địa phương
161.445
175.826
175.002
189.693
( trích biểu 75, doanh thu thuần sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp phân theo loại hình doanh nghiệp, trang 160, niên giám thống kê 2007)
Doanh thu thuần của các doanh nghiệp chỉ trong vòng bốn năm đã tăng gần gấp rưỡi, từ 666.022 tỷ (2003) lên đến 961.461 tỷ (2006). Cũng từ bảng số liệu ta có thể thấy rằng, các DNNN ở trung ương hoạt động có hiệu quả hơn các doanh nghiệp ở địa phương. Điều này có thể lý giải là do quy mô vốn, trình độ khoa hoc, trình độ quản lý, trình độ lao động... ở trung ương cao hơn ở địa phương. Từ đây có thể nhận thấy sự phát triển chưa thực sự đồng đều giữa các DNNN.
Ngân sách nhà nước cũng được gia tăng nhờ khoản thu từ các DNNN do các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả hơn trước.Năm 2003, Nhà nước chỉ thu được từ các DNNN là 78.687 tỷ đồng thì đến năm 2006, con số này đã lên tới 145.504 tỷ, tăng gần gấp đôi chỉ trong vòng bốn năm. Tuy nhiên, cũng do các thành phần kinh tế khác đang hoạt động rất hiệu quả nên mặc dù mức nộp ngân sách có tăng nhưng trong cơ cấu thu ngân sách, tỷ trọng đóng góp của các DNNN lại có xu hướng giảm. Tỷ trọng này giảm từ 18,88% (2003) xuống còn 16,58% (2006), mặc dù cũng có một số biến động trong các năm.
Nhìn chung, trong những năm gần đây, các DNNN sử dụng vốn tương đối có hiệu quả, điều này kéo theo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng theo xu hướng tăng dần lên. Bên cạnh đó, dù đạt được một số kết quả nhất định, song các DNNN vẫn gặp phải những khó khăn cần phải khắc phục.
3.Những hạn chế trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
Một là: Quy mô DNNN vẫn chưa lớn, còn nhiều doanh nghiệp hoạt động trong một số ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần chi phối. Không ít tỉnh, thành phố chưa kiên quyết trong cổ phần hoá, còn để nhiều DNNN hoạt động kinh doanh; một số nơi chưa sắp xếp thu gọn đầu mối các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thủy nông. Số lượng doanh nghiệp tham gia nhiệm vụ cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích còn nhiều, đặc biệt là khối an ninh, quốc phòng. Nhiều đơn vị tỷ trọng cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thấp, tỷ trọng hoạt động sản xuất, kinh doanh lớn nhưng vẫn tiếp tục duy trì DNNN. Việc sắp xếp các nông, lâm trường còn chậm và lúng túng.
Trình độ công nghệ của DNNN còn lạc hậu; một số doanh nghiệp còn sử dụng công nghệ cũ, tiêu hao nhiên liệu, năng lượng cao. Nhiều DNNN năng suất lao động và hiệu quả hoạt động còn thấp, sức cạnh tranh chưa đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế; còn khoảng 15% số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.
Hai là: Tỷ lệ nợ trên vốn của DNNN còn quá cao, một số công ty có số nợ phải trả gấp năm lần vốn nhà nước tại công ty, có công ty vay gấp hơn 20 lần vốn, dẫn đến độ rủi ro cao, khả năng thanh toán nợ thấp.
Việc xử lý các tồn tại về tài chính còn chậm do nhiều nguyên nhân nhưng chưa được khắc phục.
Ba là: Cơ chế quản lý DNNN còn nhiều bất cập từ quyền tự chủ tuyển chọn nhân sự, điều hành doanh nghiệp, đến tài chính, giá cả, tiền lương... Tổ chức quản lý trong DNNN chuyển biến còn chậm. Nhiều DNNN và doanh nghiệp cổ phần hóa chưa có điều kiện thay đổi cơ bản quản trị công ty một phần do Nhà nước vẫn tiếp tục nắm giữ tỷ lệ cổ phần lớn trong các doanh nghiệp cổ phần hoá. Một số tổng công ty nhà nước chưa phát huy được vai trò chi phối trong ngành, lĩnh vực hoạt động. Một số công ty hoạt động còn kém hiệu quả. Ở nhiều tổng công ty giữa Chủ tịch hội đồng quản trị và Tổng giám đốc chưa có sự thống nhất trong quản lý, điều hành doanh nghiệp.
Bốn là: Hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng có xu hướng tăng nhưng chưa tương xứng với tiềm năng vốn có. Các DNNN được sự hỗ trợ rất nhiều từ phía Nhà nước. Trong khi ngân sách luôn thiếu hụt thì Nhà nước vẫn phải giành một tỷ lệ đáng kể để hỗ trợ cho một số DNNN. Từ năm 1996 đến nay, Nhà nước miễn giảm 2288 tỷ đồng, xoá nợ 1088,5 tỷ đồng, cho vay tín dụng ưu đãi 8685 tỷ đồng. Thực tế, số nộp vào ngân sách của các DNNN này còn ít hơn phần mà Nhà nước đã hỗ trợ. Như vậy, hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN tuy tăng nhưng chưa thực sự cao, các DNNN vẫn tạo một gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
4. Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN.
Thứ nhất: hầu hết các DNNN khi chuyển sang cơ chế kinh tế mới, vẫn còn giữ những cơ chế quản lý cũ, lạc hậu, chậm thay đổi so với sự biến động của thị trường. Các DNNN chưa thực sự năng động và thích ứng nhanh với thời cuộc, một số còn dựa dẫm, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Cơ chế quản lý tài chính còn quá cứng nhắc, sửa đổi, chắp vá một cách bị động, thiếu quan điểm hệ thống. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc các doanh nghiệp có trình độ quản lý yếu, kém hay lạc hậu như thụ động trong việc lựa chọn chiến lược kinh doanh, lĩnh vực đầu tư làm cho hiệu quả sử dụng vốn chưa cao.
Thứ hai: Trình độ khoa học công nghệ của các DNNN rất lạc hậu, năng lực cạnh tranh kém. Hầu hết các DNNN được trang bị máy móc,thiết bị từ nhiều nước khác nhau và thuộc nhiều thế hệ, chủng loại. Theo kết quả khảo sát của bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường tại nhiều DNNN thuộc 7 ngành thì dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị của ta lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20 năm, mức độ hao mòn hữu hình từ 30 – 50%, có tới 38% ở dạng phải thanh lý. Thiết bị cũ kỹ, lạc hậu đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng, giá cả và hạn chế năng lực cạnh tranh của các sản phẩm được tạo ra. Điều này cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN hiện nay chưa cao.
Thứ ba: Cơ chế quản lý của Nhà nước hiện nay chưa đồng bộ, còn có sự chồng chéo giữa các ban, ngành. Mặc dù, Nhà nước đã thay đổi cơ chế quản lý các DNNN theo hướng tích cực như: xóa bỏ bao cấp; khuyến khích tự hạch toán lỗ lãi; sát nhập, giải thể các DNNN làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả nhưng các DNNN hiện nay vẫn gặp rất nhiều khó khăn về mặt pháp lý. Nhiều thủ tục rườm rà, phức tạp và đôi lúc là không cần thiết đã làm cản trở hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG CÁC DNNN.
1. Một số giải pháp tổng quát.
Một là: Trong xu thế toàn cầu hoá, doanh nghiệp có nhu cầu rất lớn về công nghệ mới, hiện đại và về vốn đầu tư để nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh. DNNN thường không đủ khả năng để giải quyết những nhu cầu này, từ đó phải thực hiện liên doanh, liên kết, tham gia góp vốn với các doanh nghiệp khác, tiến hành hợp nhất, sát nhập dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhờ đó có thể thu hút được các nguồn lực như: tài lực, vật lực, nhân lực..., tận dụng được công nghệ, học hỏi được trình độ quản lý, sản xuất...
Hai là: Tiếp tục sắp xếp lại DNNN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường. Cần tiếp tục đẩy nhanh việc chuyển đổi một số DNNN không thiết yếu hay hoạt động không hiệu quả sang hình thức kinh tế khác như: doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp liên doanh, mô hình công ty mẹ - công ty con... Đặc biệt là cần tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN, nhất là các tổng công ty nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Kinh nghiệm cho thấy, chỉ có cổ phần hoá thì vồn mới được quản lý chặt chẽ hơn.
Ba là: Đối với các DNNN đã, đang và sẽ sắp xếp lại để cổ phần hoá, các ngân hàng thương mại chủ động tham gia xây dựng và quyết định phương án sắp xếp lại DNNN với vai trò là chủ nợ, phù hợp với các chính sách và giải pháp tiếp tục đổi mới DNNN. Đồng thời tiếp tục mở rộng đầu tư vốn tín dụng để giúp cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ bằng nguồn vốn trung, dài hạn để mua sắm các loại máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và xây dựng nhà xưởng để doanh nghiệp có đủ sức cạnh tranh cao, phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững trong quá trình hội nhập quốc tế.
Bốn là: Nhà nước cần kiên quyết xoá bỏ những bảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21306.doc