MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 2
Phần 1: Khái quát chung về kiểm toán Nhà nước 3
1.1. Khái quát chung về Kiểm toán nhà nước. 3
1.1.1. Khái niệm kiểm toán. 3
1.1.2. Kiểm toán Nhà nước. 3
1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước. 4
1.2.1. Chức năng của Kiểm toán Nhà nước 4
1.2.2. Nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước 5
1.3. Đặc điểm hoạt động của Kiểm toán nhà nước 6
1.4. Yêu cầu quản lý tài chính vĩ mô 9
1.4.1. Khái niệm quản lý 9
1.4.2. Quan điểm của Nhà nước về quản lý tài chính vĩ mô. 9
1.5. Vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong quản lý tài chính vĩ mô. 10
Phần 2: Thực trạng của hoạt động Kiểm toán Nhà nước 18
2.1. Thành tựu đạt được của Kiểm toán Nhà nước 18
2.2. Những điểm hạn chế của Kiểm toán Nhà nước. 22
2.3. Hướng hoàn thiện hệ thống Kiểm toán Nhà nước . 25
Kết luận 27
Tài liệu tham khảo 28
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hoạt động Kiểm toán Nhà nước với quản lý tài chính vĩ mô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó những dự báo về nguồn lực và mục tiêu cần và có thể đạt tới, kiểm tra lại các thông tin về nguồn lực và mục tiêu, xây dựng các chương trình, kế hoạch…Sau khi các chương trình, kế hoạch đã được kiểm tra có thể đưa ra các quyết định cụ thể để tổ chức thực hiện. Trong giai đoạn tổ chức thực hiện, cần kết hợp các nguồn lực theo phương án tối ưu, đồng thời thường xuyên kiểm tra diễn biến và kết quả của các quá trình để điều hòa các mối quan hệ, điều chỉnh các định mức và mục tiêu trên quan điểm tối ưu hoá kết quả hoạt động…
Trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì vấn đề quản lý tài chính vĩ mô là vô cùng quan trọng. Hoạt động tài chính bao gồm nhiều mối quan hệ về đầu tư, về kinh doanh, về phân phối, về thanh toán. Tính phức tạp của hoạt động này càng tăng lên bởi mối quan hệ chặt chẽ giữa các quan hệ tàI chính với lợi ích con người. Các cơ quan nhà nước cần có thông tin trung thực điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật hay chính sách kinh tế nói chung của mình với mọi thành phần kinh tế, với mọi hoạt động xã hội. Đặc biệt, các khoản thu chi của NSNN, các khoản vốn liếng và kinh phí nhà nước đầu tư cho các đơn vị kinh doanh hoặc sự nghiệp và tài sản, tài nguyên quốc gia… càng cần được giám sát chặt chẽ theo hướng đúng pháp luật và có hiệu quả. Chính vì thế cần phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước phối hợp với các cơ quan chức năng khác.
1.4.2. Quan điểm của Nhà nước về quản lý tài chính vĩ mô.
Quản lý nhà nước về tài chính là quản lý vĩ mô.Quản lý về tài chính được thể hiện như sau:
Nhà nước định hướng cho hoạt động và phát triển tài chính thông qua hoạch định chính sách tài chính quốc gia và chính sách tiền tệ quốc gia.
Nhà nước sử dụng pháp luật và các chính sách tài chính đối với từng khâu của hệ thống tài chính như: luật ngân sách, luật ngân hàng, luật tổ chức tín dụng, các luật thuế, luật kế toán, luật kế toán, luật kiểm toán…và các chính sách về ngân sách, về đầu tư vốn, về chi tiêu dùng, về tích lũy, tiết kiệm, tiền lương, tài chính doanh nghiệp, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm xã hội, trợ cấp, chuyển giao tài chính, chính sách vay nợ, trả nợ , hỗ trợ các nỗ lực đổi mới công nghệ, phát triển ngành nghề, phát triển các khu vực và các chương trình quốc gia…
Nhà nước tổ chức bộ máy tài chính, chỉ đạo, điều hòa, phối hợp giữa các cơ quan tài chính, ngân hàng, giữa các cơ quan tài chính các cấp, ngân hàng các cấp, giữa cơ quan tài chính ngân hàngvới các bộ , ngành, các địa phương.
Nhà nước thực hiện sự phân phối và điều tiết các nguồn lực tài chính của đất nước thông qua chính sách tích tụ, tập trung vốn, chính sách thuế, chính sách tiết kiệm, chính sách vay nợ, phân bổ các nguồn tài chínhvào đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ, cấp tín dụng, phân phối lại dưới hình thức chuyển giao tài chính và hình thành các loại dự trữ thông qua các kế hoạch- Nhà nước thực hiện sự kiểm tra tài chính: nhà nước sử dụng các cơ quan quyền lực nhà nước ở các cấp, hệ thống cơ quan tài chính , ngân hàng, cơ quan thanh tra và cơ quan kiểm toán nhà nước, kiểm toán nội bộ các cơ quan, doanh nghiệp.
Qua đó thấy rõ kiểm tra tài chính là một bộ phận cấu thành của hoạt động quản lý nhà nước, hơn thế nữa, kiểm tra tài chính không phải là khâu cuối cùng mà là khâu gắn liền hữu cơ với tất cả các hoạt động quản lý quá trình hoạt động tài chính.
1.5. Vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong quản lý tài chính vĩ mô.
Kiểm toán là một bộ phận của hệ thống kiểm tra tài chính, nhưng là bộ phận quan trọng nhất trong kiểm tra tài chính, bởi vì nó là hoạt động kiểm tra tài chính độc lập và chuyên trách, từ bên ngoài không liên quan đến các hoạt động tài chính của bất cứ cơ quan doanh nghiệp nào; đồng thời với các hình thức khác nhau, nó là một sự kiểm tra toàn diện cả về mặt tuân thủ của các định hướng, chính sách, pháp luật quyết định của nhà nước và cả về mặt hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính.
Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên trách về kiểm toán nằm trong hệ thống tổ chức bộ máy của cơ quan quyền lực nhà nước. Cơ quan Kiểm toán ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều được coi là cơ quan cao nhất, hoạt động thường xuyên trong hệ thống các cơ quan, tổ chức kiểm tra tài chính Nhà nước và trong luật kiểm toán của cá nước đó đều gọi cơ quan Kiểm toán Nhà nước là cơ quan Kiểm toán tối cao hay cơ quan có thẩm quyền cao nhất về kiểm tra tài chính công.
Là một cơ quan trong bộ máy nhà nước, là cơ quan Kiểm toán tối cao của một nước, hoạt động của cơ quan này có vai trò quan trọng trong quản lý tài chính vĩ mô của nhà nước, góp phần không nhỏ vào hoạt động quản lý tài chính công là minh bạch tài chính_ một yêu cầu bắt buộc đối với hoạt động của cơ quan điều hành, hoạt động lập pháp và công chúng. Kiểm toán Nhà nước Việt Nam ra đời ngày 11/7/1994 giúp thủ tướng chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp; đánh gía sự tuân thủ pháp luật và hiệu quả hoạt động của các đơn vị được kiểm toán. Với tinh thần đó, hàng năm các số liệu,báo cáo quyết toán ngân sách của các địa phương trước khi trình ra Hội đồng nhân dân , tổng quyết toán NSNN trước khi trình ra Quốc hội, báo cáo quyết toán của các cơ quan, đơn vị tiêu thụ hưởng ngân sách, các chương trình , dự án , công trình đầu tư của nhà nước, các DNNN cần phải được Kiểm toán Nhà nước tiến hành kiểm toán và xác nhận.
Trong quá trình hoạt động, vai trò của Kiểm toán Nhà nước không ngừng được củng cố và tăng cường, đáp ứng một phần yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn trong việc quản lý, điều hành đất nước, thể hịên trên một số mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, góp phần kiểm tra việc chấp hành về nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước, thực hiện nộp đúng, nộp đủ theo quy định của pháp luật. Kiểm toán Nhà nước góp phần làm lành mạnh hóa tình hình ngân sách Nhà nước, tạo môi trường tài chính vĩ mô ổn định có lợi cho phát triển kinh tế và đời sống nhân dân. Trong những năm qua cùng với quá trình cải cách bước hai hệ thống thuế, công tác tổ chức và quản lý thu NSNN có nhiều chuyển biến rõ rệt ; Thông qua kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện kiến nghị tăng thu, tiết kiệm chi cho NSNN nhiều tỷ đồng, số thu NSNN qua từng năm đều tăng, đáp ứng phần lớn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Tuy nhiên tình trạng thất thu thuế, ẩn lậu thuế ở nhiều đơn vị, địa phương khá phổ biến, việc chấp hành các quy định của Nhà nước về nộp NSNN không nghiêm. Điều này không chỉ làm tổn hại đến lợi ích của Nhà nước mà còn làm vẩn đục môi trường kinh doanh lành mạnh, tạo ra sự cạnh tranh bất bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế.
Qua kết quả kiểm toán ở các đơn vị, địa phương cho thấy, một số DNNN đã được kiểm toán thì số thuế phải nộp NSNN đều tăng so với số báo cáo nộp thuế của đơn vị; còn ở khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh thì tình trạng thất thu về hộ và doanh thu tính thuế khá lớn, cá biệt có nơi thất thu tới 30- 40%… Với sự ra đời và hoạt động có hiệu quả của Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện và kiến nghị truy thu cho NSNN hàng ngàn tỷ đồng
Thứ hai, kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng NSNN, chống thất thoát, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản nhà nước.
Quốc hội giám sát chính phủ và hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước trong việc thực hiện quyết toán NSNN. Điều này đã được Hiến pháp và luật NS nhà nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới quy định. Trong việc giám sát này, Quốc hội các nước sử dụng cơ quan Kiểm toán Nhà nước để cung cấp cho mình những thông tin xác thực, khách quan từ kết quả của các cuộc kiểm toán hoặc qua các công việc thẩm định mà cơ quan này đã tiến hành. Quốc hội sử dụng cơ quan Kiểm toán tối cao để cung cấp cho mình những thông tin cần thiết để phán quyết về dự toán NSNN và quyết toán NSNN do Chính phủ trình ra Quốc hội. Kiểm toán Nhà nước phục vụ Quốc hội giám sát NSNN từ khâu dự toán đến việc thực hiện NSNN và các quyết toán NSNN đồng thời tư vấn cho Quốc hội.
+ Đối với dự toán NSNN: Kiểm toán Nhà nước có thể và cần phải giúp Quốc hội trong việc quyết định dự toán NSNN trên hai phương diện:
Giúp quốc hội thẩm định dự toán NSNN và đưa ra các kiến nghị về dự toán NSNN để Quốc hội xem xét.
Làm phản biện theo yêu cầu của Quốc hội về các dự án, chương trình quốc gia, các dự án đầu tư các công trình quy mô lớn. Phải nói rằng, lâu nay việc chuẩn bị các dự án, chương trình quốc gia có nhiều tiến bộ hơn trước, tuy nhiên trên thực tế vẫn chỉ ra là còn nhiều tính toán trong các dự án, chương trình do chưa có căn cứ vững chắc. Do vậy, kinh phí ngân sách bỏ ra lớn, nhưng hiệu quả sử dụng chưa cao. Từ lâu nay vẫn thiếu đi một người phản biện có khả năng đưa ra những ý kiến và thông tin xác thực hơn, khách quan hơn, từ thực tiễn kiểm toán mang lại để bổ sung và hoàn thiện các dự án, chương trình quốc gia mà quốc hội quyết định.
+ Đối với tình hình thực hiện NSNN: Quốc hội và các đại biểu Quốc hội có chức năng giám sát việc chấp hành NSNN của Chính phủ, các Bộ, UBND các cấp. Việc giám sát chấp hành NSNN là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn. Nhưng vấn đề là làm sao khi phát hiện vấn đề có thể giúp chính phủ, các Bộ, UBND khắc phục sớm mà không chờ đến lúc thảo luận, phê chuẩn quyết toán hoặc đến kỳ họp Quốc hội mới nêu ra. Về mặt này, Quốc hội có thể và cần thiết sử dụng cơ quan Kiểm toán Nhà nước để tiến hành kiểm tra ngay và báo cáo kịp thời cho Quốc hội để Quốc hội ra các quyết định cần thiết: Chấp hành NSNN là quá trình thực hiện các đường lối, chính sách, pháp luật trên tất cả các lĩnh vực và là quá trình huy động và sử dụng vốn nhà nước. Do đó, việc giám sát phải có các thông tin đưa ra và thông tin phản hồi về kết quả giám sát. Có thể có rất nhiều những cơ quan khác nhau đưa ra thông tin nhưng không thể thiếu được thông tin vô tư, khách quan của cơ quan Kiểm toán Nhà nước .
+ Đối với quyết toán NSNN: Quốc hội là cơ quan cao nhất của Nhà nước có quyền phê chuẩn quyết toán NSNN hoặc bác bỏ quyết toán NSNN do Chính phủ trình. Nhưng phê chuẩn, sửa đổi hay bác bỏ đều phải có thông tin xác thực, khách quan làm căn cứ. Một trong những lí do chủ yếu để thiết lập cơ quan Kiểm toán Nhà nước là cơ quan này phải kiểm toán quyết toán NSNN, cung cấp cho Quốc hội và Chính phủ những thông tin chính xác, khách quan về thu, chi NSNN để Quốc hội phán quyết quyết toán và Chính phủ phải có căn cứ để đưa ra các quyết định về quản lý NSNN.Do đó, Quốc hội hoàn toàn có quyền yêu cầu cơ quan Kiểm toán Nhà nước phục vụ mình trong kiểm toán nội dung quyết toán NSNN, báo cáo lên Quốc hội kết quả kiểm toán và đưa ra các kiến nghị về quyết toán NSNN để Quốc hội xem xét.
Trong điều kiện nhu cầu chi ngân sách quá lớn, khả năng đáp ứng những nhu cầu này còn hết sức hạn hẹp thì việc tăng cường quản lý NSNN, hạn chế thất thoát, lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN có ý nghĩa cực kì quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội đã được hoạch định. Mặt khác, việc sử dụng NSNN phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục, trình tự ; thực hiện chi đúng mục đích, đúng đối tượng, đúng định mức theo dự toán được duyệt.
Qua hoạt động của Kiểm toán Nhà nước ngoài việc phát hiện và xuất toán, bồi hoàn NSNN hàng ngàn tỷ đồng do chi sai chế độ, lập quỹ trái phép…đã phát hiện và xử lý những sai phạm về quản lý kinh tế – tài chính góp phần tăng cường kỉ luật tài chính, nâng cao hiệu quả sủ dụng vốn và tài sản của nhà nước. Cụ thể như việc bố trí vốn đầu tư xây dựng cơ bản dàn trải, dẫn đến tình trạng thi công kéo dài, phát sinh nhiều khoản chi phí gây lãng phí, thất thoát lớn ; tình trạng làm vượt kế hoạch vốn hàng năm, vượt dự toán, triển khai thực hiện không tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và đầu tư làm gia tăng tình trạng nợ thanh toán trong xây dựng cơ bản ngày càng lớn ; việc sử dụng NSNN trong xây dựng trụ sở làm việc, mua ô tô con, chi quản lý có nơi vượt tử 3- 4 lần so với dự toán đã được duyệt. Nhiều sai phạm trong việc quản lý chi, điều hành, quyết toán NSNN ; Các vi phạm về chế độ hạch toán vốn, tài sản, kết quả sản xuất kinh doanh và các sai phạm trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản…làm thất thoát tiền của nhà nước cũng khá phổ biến. Nếu tính về hiệu quả kinh tế thì chỉ riêng số phát hiện kiến nghị truy thu về thuế các loại cho NSNN cũng đã gấp vài chục lần chi phí mà nhà nước chi cho hoạt động kiểm toán. Nhưng quan trọng hơn cả là những phát hiện và kiến nghị của đoàn Kiểm toán Nhà nước đã giúp các đơn vị được kiểm toán thấy được những yếu kém, sơ hở trong quản lý kinh tế và sản xuất kinh doanh, chỉ ra việc quản lý sử dụng các nguồn lực NSNN trong từng ngành, từng địa phương, từng lĩnh vực và các yếu tố tiêu cực cản trở tính kinh tế, tính hiệu quả của các hoạt động kinh tế, đặc biệt là đã uốn nắn giúp đỡ sửa chữa và kiến nghị các biện pháp hữu hiệu để khắc phục chúng.
Thứ ba, Kiểm toán Nhà nước còn cung cấp những thông tin, cơ sở dữ liệu để thực hiện việc quyết định và quản lý NSNN sát thực và có hiệu quả hơn. Một trong những vấn đề quan trọng để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của việc sử dụng NSNN và công quỹ quốc gia trong việc quản lý, điều tiết nền kinh tế là dự toán NSNN phải dựa trên căn cứ khoa học và thực tiễn; phải cụ thể, chi tiết, mang tính chất pháp lý và tính khả thi cao. Trong những năm qua, nhiều chi tiêu thu chi NSNN đối với một số ngành, lĩnh vực, địa phương chưa thật phù hợp, gây khó khăn cho việc thực hiện dự toán NSNN và ảnh hưởng đến tính chủ động, tích cực trong việc quản lý và điều hành NSNN.
Thông qua việc kiểm tra tài chính, Kiểm toán Nhà nước đã chỉ ra những điểm bất hợp lý trong việc xác định những chỉ tiêu thu, nhiệm vụ chi NSNN, góp phần tạo lập cơ sở, căn cứ để xây dựng dự toán NSNN cho những năm sau nhằm thu đúng, thu đủ, chống thất thu cho NSNN ; đồng thời tiến hành việc phân bổ NSNN cho các ngành, các lĩnh vực, địa phương một cách hợp lý, thực hành tiết kiệm và nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực tài chính.
Ngoài ra, Kiểm toán Nhà nước đã góp phần đánh giá một cách sát thực tình hình tài chính của các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế nhà nước, làm căn cứ cho việc cải tiến quản lý doanh nghiệp, điều chỉnh các chính sách kinh tế, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước cùng với việc huy động vốn cho đầu tư phát triển. Trong quá trình kinh doanh, các nhà quản lý doanh nghiệp phần thì bận rộn trong công việc phát triển sản phẩm, mở rộng thị trường ; phần thì thiếu thông tin về các tác nghiệp tài chính, kế toán nên họ không thể kiểm soát chặt chẽ hàng nghìn, hàng vạn các nghiệp vụ tài chính kế toán phát sinh hàng ngày, hàng giờ tại đơn vị. Song các nhà quản lý doanh nghiệp buộc phải có quyết định hợp lý, kịp thời cho những công việc phát sinh sao cho đạt kết quả mong muốn theo ý chủ quan. Điều đó chỉ có thể thực hiện được thông qua và dựa trên những thông tin do những người có chuyên môn trong lĩnh vực kế toán tài chính cung cấp. Cơ quan kiểm toán , kiểm tra xác nhận tính trung thực, chính xác và hợp pháp của các số liệu kế toán và báo cáo tài chính là hết sức cần thiết và đáp ứng đúng đòi hỏi nhu cầu của doanh nghiệp. Việc thực hiện kiểm toán DNNN, xét từng doanh nghiệp là vấn đề tàI chính vĩ mô, nhưng bằng kết quả kiểm toán của nhiều doanh nghiệp dể đánh giá chính xác tình hình tài chính các doanh nghiệp, rút ra những chỗ mạnh, chỗ yếu và những ách trong quản lý tài chính và vận động tài chính để có những căn cứ đưa ra các chính sách, các giải pháp nhằm thúc ép và hỗ trợ, giúp các doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn lại là những vấn đề tài chính vĩ mô.
Thứ tư, thông qua hoạt động kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước đã đề xuất, kiến nghị nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách về kinh tế – tài chính. Những tồn tại trong quản lý kinh tế – tài chính và NSNN ở các cơ quan đơn vị trung ương và địa phương vừa do nguyên nhân chủ quan, vừa do cơ chế, chính sách chưa thật phù hợp với tình hình thực tiễn. Qua hoạt động của mình, nhiều đề xuất, kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước như trong việc thiết lập cơ chế quản lý, cấp phát và thanh quyết toán đối với ngân sách địa phương, đối với các khoản hỗ trợ từ ngân sách địa phương cho các cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn; trong việc cần rà soát, sửa đổi, bổ sung các định mức kinh tế – tài chính và định mức chi tiêu NSNN; trong công tác hạch toán kế toán, tăng cường kỉ luật trong quản lý NSNN, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm… Những đề xuất và kiến nghị đó chẳng những có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn góp phần đóng góp tích cực trong việc tổ chức thực hiện NSNN và quản lý tài sản của Nhà nước.
Trong các báo cáo của mình , Kiểm toán Nhà nước đều có những kiến nghị của mình đối với đơn vị được kiểm toán và đối với các cơ quan chức năng của nhà nước về những sai phạm trong quản lý kinh tế, vi phạm chính sách chế độ nhà nước và các biện pháp khắc phục, sửa chữa cần thiết. Những vi phạm nghiêm trọng có dấu hiệu tham nhũng được chuyển hồ sơ cho cơ quan điểu tra tiếp tục làm rõ. Kiểm toán Nhà nước còn phát hiện những bất cập, kẽ hở trong chính sách, chế độ của nhà nước để đề nghị sửa đổi cho phù hợp và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế chính sách, chế độ tài chính, lập và giao kế hoạch NSNN. Mục đích mà các kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước hướng tới là cải thiện công tác quản lý ngân sách, công quỹ và tài sản quốc gia; đưa ra những giải pháp khắc phục sửa chữa cần thiết mà theo quan điểm của Kiểm toán Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan liên quan áp dụng.
Hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước mang lại tính độc lập, chỉ tuân thủ theo pháp luật. Các hoạt động đó do một đội ngũ các chuyên gia lành nghề thực hiện, các vấn đề được đánh giá, xem xét theo một hệ thống chuẩn mực và tuân thủ một quy trình nghiêm ngặt. Do vậy, các kiến nghị do Kiểm toán Nhà nước đưa ra mang tính xác thực và xây dựng, các biện pháp đưa ra đều mang tính khả thi, có thể áp dụng và tiết kiệm chi phí khi thực hiện.
Qua kiểm tra, hơn 80% các kiến nghị về kinh tế, gần 80% kiến nghị về các giải pháp quản lý kinh tế và các kiến nghị khác của Kiểm toán Nhà nước đã được các đơn vị thực hiện và được đánh giá là có hiệu quả thiết thực. Một số ý kiến, kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước với nhà nước về quản lý kinh tế, ngân sách ở tầm vĩ mô dần dần đã được áp dụng.
Từ những vấn đề trên cho thấy vị trí và vai trò của cơ quan Kiểm toán Nhà nước trong kiểm tra tài chính để góp phần quản lý vĩ mô nền tài chính quốc gia.
Phần 2: Thực trạng của hoạt động
Kiểm toán Nhà nước
2.1. Thành tựu đạt được của Kiểm toán Nhà nước
Thực tế và kết quả hoạt động của Kiểm toán Nhà nước từ khi thành lập cho đến nay, thời gian tuy chưa dài, kết quả còn khiêm tốn nhưng đã thể hiện sự nỗ lực và những đóng góp thiết thực của ngành Kiểm toán Nhà nước. Thông qua kết quả của kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước giúp các đơn vị được kiểm toán đánh giá đúng đắn thực trạng tình hình tài chính và những yếu kém sơ hở trong quản lý kinh tế và sản xuất kinh doanh; cung cấp cho cơ quan quản lý Nhà nước tình hình quản lý và sử dụng các nguồn lực trong từng lĩnh vực, địa phương và đơn vị và đề xuất các biện pháp cải thiện tình hình. Kiểm toán Nhà nước bước đầu đã cung cấp được một số thông tin dữ liệu tin cậy cho Chính phủ, Quốc hội, phục vụ cho việc phân bổ, điều hành NSNN. Hoạt động của Kiểm toán Nhà nước đã góp phần đấu tranh chống nạn tham nhũng, tệ lãng phí, thất thoát công quỹ và tài sản quốc gia, xác lập trật tự kỉ cương trong quản lý kinh tế- tài chính, củng cố lòng tin của nhân dân đối với các cấp uỷ Đảng, chính quyền và cơ quan quản lý Nhà nước.
Kết quả lớn nhất mà Kiểm toán Nhà nước thu được không phảit là hàng ngàn tỉ đồng tiết kiệm được cho NSNN mà đã giúp cho các cơ quan nhà nước biết đến một công cụ kiểm soát tài chính mới rất quan trọng và hình thành ý thức mới trong quản lý, sử dụng NSNN. Thực trạng hoạt động của Kiểm toán Nhà nước cùng với các công cụ tài chính khác, tự các cơ quan, tổ chức nhà nước đã phải chấn chỉnh công tác quản lý tài chính, củng cố và tăng cường hệ thống kiểm soát nội bộ và công tác kiểm toán nội bộ. Kết quả hoạt động Kiểm toán Nhà nước đã khẳng định vị thế của Kiểm toán Nhà nước trong bộ máy nhà nước, khẳng định sự cần thiết phải củng cố và phát triển cơ quan Kiểm toán Nhà nước như một công cụ kiểm tra, kiểm soát tài chính công không thể thiếu của Nhà nước pháp quyền.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta đã ghi rõ: “ Toàn bộ tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHVN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã chỉ rõ: “ Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân …”. Xây dựng và thực hiện nền dân chủ XHCN không chỉ là mục tiêu lâu dài mà còn là phương thức và phương pháp rất cơ bản và cấp thiết làm trong sạch bộ máy nhà nước, lành mạnh hoá các quan hệ xã hội. Dân chủ XHCN là dân chủ của đa số, thực hiện quyền lực của nhân dân, trong đó vấn đề mấu chốt là kiểm kê, kiểm soát. Rõ ràng, ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quyền lực của nhân dân phải được thực hiện bằng kiểm kê, kiểm soát. Do đó Kiểm toán Nhà nước phải thực sự là một cơ quan công quyền sử dụng triệt để tính độc lập, tính khách quan để giúp Quốc hội thực hiện tốt chức năng kiểm soát và giám sát quá trình quản lý NSNN.
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam lần đầu tiên được thành lập để kiểm tra tài chính công ở Việt Nam nên không khỏi có những hoài nghi cho rằng Kiểm toán Nhà nước liệu có hoạt động hiệu quả không? Rằng hoạt động kiểm toán có trùng lắp, chồng chéo với kiểm tra, thanh tra tàIichính và thanh tra nhà nước hay không? Rằng tổ chức như thế nào để thực hiện được nhiệm vụ… Nhưng được Chính phủ quan tâm, đặc biệt được sự chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ, chỉ sau 2 năm sau khi được thành lập thì những hoài nghi đã dần được giải quyết. Kiểm toán Nhà nước đã thực hiện nhiều cuộc kiểm tra với đội ngũ kiểm toán viên còn ít về số lượng và mới mẻ về nghề nghiệp, mà đã tăng thu và tiết kiệm chi cho ngân sách Nhà nước hàng trăm tỉ đồng. Quan trọng hơn là phát hiện được những sai lầm, vi phạm để chỉnh đốn, uốn nắn, răn đe… Kết quả bước đầu trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước đã được các ngành, các cấp, dư luận xã hội chấp nhận và đánh giá khả quan.
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam đến nay tuy còn non trẻ nhưng thông qua hoạt động của mình đã tự khẳng định mình trong kiểm tra tài chính công và đã chứng minh được tính tất yếu khách quan của Kiểm toán Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới về kinh tế và tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội Kiểm toán quốc tế tối cao(INTOSAI) và Hiệp hội Kiểm toán Châu á tối cao(ASOSAI), và đã có mối quan hệ với Kiểm toán Nhà nước của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Các bạn bè đều thiện cảm giúp đỡ, trao đồi kinh nghiệm tạo đIũu kiện để Kiểm toán Nhà nước Việt Nam phát triển nhanh.
Do được thành lập cho đến nay chưa được một thời gian dài nên còn nhiều vấn đề nặng nề đang đặt ra đối với Kiểm toán Nhà nước Việt Nam. Khối lượng công việc phải kiểm toán là rất lớn, với trên 20.000 đơn vị dự toán, 61 ngân sách tỉnh và trực thuộc TW, gần 600 ngân sách huyện, quận, gần 10.000 ngân sách xã, 26 ngân sách các Bộ, và 21 các ngân sách cơ quan trực thuộc Chính phủ, các Văn phòng của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các tổ chức xã hội, phải xác định tính đúng đắn của các quyết toán ngân sách nhà nước. Trên 6.100 doanh nghiệp nhà nước, hàng trăm công trình xây dựng cơ bản trọng điểm …phải xem xét báo cáo tài chính. Vấn đề không chỉ số lượng mà quan trọng hơn là từ hoạt động kiểm toán mà thúc đẩy được lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia. Sau mỗi lần thực hiện kiểm toán phải góp phần nâng cao chất lượng kế toán trong các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính công.
Để làm được như thế, cần phải có một bộ máy thống nhất từ TW đến các khu vực trong nước đủ mạnh. Đội ngũ kiểm toán viên không những đủ về số lượng mà còn phải có phẩm chất và trình độ chuyên môn cao. Công tác nghiên cứu khoa học phải được chú trọng. Sự cần thiết phải có một trung tâm nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ.
ở Việt Nam, nghành kiểm toán nói chung , Kiểm toán Nhà nước nói riêng còn rất mới mẻ mặc dù đã thành lập được 10 năm cho đến nay, do đó nhận thức về kiểm toán còn không ít người lầm lẫn cho rằng kế toán và kiểm toán làm một. Do đó cần phải tăng cường hoạt động của Kiểm toán Nhà nước để mọi người thấy rõ được sự cần thiết của hoạt động kiểm toán.
Có thể đưa ra một ví dụ điển hình về vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong quản lý tài chính ngành công nghiệp như sau:
Trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp và đơn vị HCSN( trường học, viện nghiên cứu) thuộc Bộ công nghiệp đã được Kiểm toán Nhà nước đến kiểm tra việc thực hiện chế độ thu nộp Ngân sách và sử dụng NSNN. Qua đó, Kiểm toán nhà nước đã chỉ rõ những sai sót, khuyết điểm cho các đơn vị được kiểm toán khắc phục. Đồng thời Kiểm toán Nhà nước cũng thấy được nhữ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35622.doc