Đề án Hoạt động xuất khẩu cà phê đối với tăng trường và phát triển kinh tế Việt Nam

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 2

Chương I : Những vấn đề chung về xuất khẩu hàng hoá 2

I- Lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá 2

1, Khái quát chung về xuất khẩu hàng hóa Việt Nam. 2

2-Vai trò của xuất khẩu. 5

3- Nhiệm vụ - phương hướng phát triển xuất khẩu. 6

II- Một số lý thuyết bàn về lợi ích của ngoại thương đối với phát triển kinh tế 8

2- Lý thuyết “ Lợi thế so sánh” của David Ricacdo 9

3- Lý thuyết “ Tỷ lệ các yếu tố” của Hecksher - Ohlin 10

III- Chiến lược xuất khẩu hàng hóa 11

1- Tác động tích cực của chiến lược đối với phát triển kinh tế 11

2- Những hạn chế của nền kinh tế khi áp dụng chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô. 12

IV-Bài học kinh nghiệm đối với xuất khẩu cà phê Việt Nam 13

Chương II: Thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam 14

I- Thực trạng sản xuất, chế biến và xuất khẩu cà phê 14

1, Thực trạng sản xuất cà phê 14

2- Thực trạng chế biến cà phê. 17

3- Thực trạng xuất khẩu cà phê 18

II- Thực trạng tiêu thụ cà phê Việt Nam 24

Chương III: Tác động của hoạt động xuất khẩu cà phê tới tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam 28

I- Tác động kinh tế của hoạt động xuất khẩu cà phê 28

II- Tác động chính trị - xã hội của hoạt động xuất khẩu cà phê 31

Chương IV: Dự báo - định hướng - giải pháp thúc đẩy thị trường xuất 33

I- Dự báo về thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam 33

II- Định hướng nâng cao giá trị cà phê xuất khẩu 33

III- Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê Việt Nam 35

1, Giải pháp về tổ chức chỉ đạo, quản lý Nhà nước, đầu tư, tài chính, tín dụng 35

2, Giải pháp về đất trồng 36

3, Giải pháp về thị trường 36

4, Giải pháp về nguồn nhân lực 37

5, Giải pháp về phát triển các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh cà phê xuất khẩu 37

6, Giải pháp về khoa học kỹ thuật và công nghệ 37

KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ 39

I- Kết luận 39

II- Kiến nghị 39

Tài liệu tham khảo 41

 

 

docx45 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1738 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hoạt động xuất khẩu cà phê đối với tăng trường và phát triển kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tây Nguyên với giống cà phê vối là chủ yếu .Đồng thời, các vườn cà phê cũ ở miền Bắc cũng được củng cố. Lúc này, ở Tây Nguyên, một mặt ta tổ chức trưng thu, trưng mua đồn điền cũ, một mặt mở rộng diện tích trồng mới trên cơ sở thành lập các nông trường quốc doanh. Trong thời kỳ này, cả nước đã trồng thêm được 12.000 ha, nhưng năng suất cà phê vẫn chưa cao, trung bình vẫn chỉ đạt mức 4-5 tạ/ha. * Thời kỳ 1985 - 1994: Đây là thời kỳ cây cà phê phát triển mạnh gắn liền với sự ra đời của Công ty cà phê - ca cao Việt Nam ( nay là Tổng công ty cà phê Việt Nam). Do cơ chế mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã tiến hành hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa cũ như: Liên Xô cũ , Ba Lan, Cộng hòa dân chủ Đức, Bungari, Tiệp Khắc nhằm tăng cường nguồn vốn đầu tư vào ngành cà phê. Nhờ vậy, diện tích, sản lượng và năng suất cà phê đã có bước tăng trưởng đáng kể.Cà phê Việt Nam bắt đầu góp mặt vào thị trường cà phê thế giới. Trong 10 năm qua, diện tích tăng gần 100.000 ha, năng suất tăng từ 4-5 tạ/ha lên 18 tạ/ha năm 1994. Sản lượng cà phê năm 1994 đạt 180.000 tấn, trong đó xuất khẩu được 165.000 tấn thu được 227 triệu USD. * Thời kỳ 1995 đến nay: Đây là thời kỳ cây cà phê phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, tăng nhanh về diện tích, nâng cao năng suất và sản lượng cà phê, đặc biệt khối lượng cà phê xuất khẩu gia tăng mạnh mẽ. Sự tăng trưởng không ngừng sản lượng xuất khẩu đã đưa xuất khẩu cà phê Việt Nam lên vị trí thứ 2 thế giới. Số liệu cụ thể như sau: Bảng 5: Diện tích, năng suất, sản lượng cà phê nước ta Năm Diện tích (ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn) 1994 123,900 18.0 180,000 1995 186,400 21.8 218,000 1996 254,200 20.3 316,900 1997 340,300 24.1 420,500 1998 370,600 20.7 427,400 1999 477,700 22,8 553,200 2000 561,900 16.8 802,500 2001 565,300 20.0 840,600 2002 522,200 14.5 699,500 2003 513,700 15.8 793,700 2004 503,200 16.6 834,600 2005 497,400 15.1 752,100 2006 488,600 17.5 853,500 Nguồn:Tổng cục Thống kê Từ bảng số liệu và thực tiễn phát triển của sản xuất cà phê nước ta trong hơn chục năm qua có thể thấy rằng: - Về diện tích: Diện tích cà phê tăng nhanh, hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung, có giá trị kinh tế cao và trở thành nước xuất khẩu cà phê vối hàng đầu thế giới + Diện tích cà phê tăng nhanh từ 123.900 ha (1994) lên tới mức cao nhất là 565.300 ha (2001) rồi giảm xuống mức 488.600 ha (2006). Như vậy, diện tích cà phê năm 2001 gấp 4,56 lần năm 1994, và năm 2006 gấp 3,94 lần năm 1994.Tốc độ tăng diện tích bình quân năm là 17,12%/năm. Sở dĩ, diện tích tăng nhanh như vậy là do một số nguyên nhân cơ bản sau: Trước hết là những năm giữa của thời kỳ 1985-1994 là thời kỳ bội thu của cây cà phê. Hiệu quả sản xuất cà phê rất cao tới 38-40 chỉ vàng/tấn cà phê nhân (1986) tuy sau đó có giảm xuống nhưng vẫn tác động lớn đến việc mở rộng diện tích trồng cà phê. Thứ hai, do các chủ trương chính sách về cà phê đã tác động đến phong trào cà phê trong dân. Người dân tự bỏ vốn ra để phát triển cà phê. Thứ ba, do cây cà phê vối hoàn toàn phù hợp với điều kiện sinh thái của Tây Nguyên, đảm bảo năng suất cao, ổn định và không bị sâu bệnh.Tây Nguyên là vùng đất có đủ điều kiện để mở rộng diện tích do có diện tích lớn và dân cư thưa thớt. Cà phê phát triển cũng thu hút được người dân từ các nơi khác đến. Do vậy, diện tích cà phê không ngừng tăng lên đẩy sản lượng và năng suất không ngừng tăng. + Cây cà phê được phá triển ở 6 vùng (trừ Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long) và trên 28 tỉnh trong cả nước trong đó các vùng cà phê chính: Tây Nguyên chiếm 86,31%, Đông Nam Bộ (10,28%)... + Vùng sản xuất cà phê vối tập trung có điều kiện sinh thái phù hợp cho năng suất cao. Năm 2003, với diện tích trồng cà phê lớn, Tây Nguyên có sản lượng cà phê chiếm tới 45,43% về diện tích và 53,62% sản lượng cà phê cả nước. - Về năng suất: Đây là thời kỳ có năng suất cao nhất đạt từ 15 đến 20 tạ/ha, cao nhất là năm 1999, đạt 22,8 tạ/ha. So với các nước có ngành cà phê phát triển mạnh như Brazil, Colombia, Indonesia ... Những thành tựu trên có được là do: + Việc lựa chọn phát triển giống cà phê vối ở các vùng phía Nam là hoàn toàn đúng đắn, đặc biệt là vùng Tây Nguyên có khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ thích hợp, diện tích đất chưa sử dụng còn lớn. + Việc chọn và tạo giống cà phê tốt cho sản xuất đại trà như các dòng cà phê vối chọn lọc: 4/55; 1/20; 13/8 ... cho năng suất cao, cỡ hạt to. Ngoài ra chúng ta cũng chọn lọc ra được giống cà phê chè có năng suất cao và chống được bệnh gỉ sét như: cà phê Catimor, TN1, TN2... + Áp dụng phương pháp đốn tạo hình đơn thân trên cà phê vối, hãm ngọn nhiều lần, duy trì chiều cao vừa phải, sử dụng lượng phân bón thích hợp. Kết hợp dự trữ nước cho mùa khô, giảm lượng cây tán rộng nhằm tăng hấp thụ ánh sáng cho cây, góp phần nâng cao năng suất cà phê. + Áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật trong phòng trừ sâu bệnh cho cây, thâm canh, xen canh... - Về sản lượng: Sản lượng cà phê không ngừng tăng cao trong những năm 2000, 2001 (sản lượng năm 2001 gấp 4,76 lần so với năm 1994) chủ yếu do diện tích trồng cà phê tăng lên trong giai đoạn này. Phần lớn cà phê Việt Nam được sử dụng vào mục đích xuất khẩu. Như vậy, cây cà phê trở thành cây công nghiệp dài ngày chủ lực có giá trị kinh tế cao. Nó đã khẳng định được chỗ đứng và lợi thế so sánh so với các loại cây trồng khác. Sở dĩ vậy là do ngành đã thu hút được nhiều nguồn lực tham gia phát triển cây cà phê : từ Chính phủ, từ vốn đầu tư hợp tác của 5 nước XHCN cũ, từ địa phương, từ dân... 2- Thực trạng chế biến cà phê. Do cà phê là được thu hoạch ở dạng quả tươi, nên sau khi thu hoạch cần tiến hành quy trình chế biến tạo ra cà phê nhân khô là sản phẩm chủ lực trong giao dịch. * Tổ chức chế biến Hiện nay, nước ta vẫn sử dụng hai phương pháp chế biến cà phê là chế biến ướt và chế biến khô. Chế biến nước là phương pháp chế biến dùng đến nước qua 3 cấp: Cấp quy mô hộ gia đình, cấp quy mô xã, cấp xưởng chế biến tập trung công suất lớn do các công ty nhà nước quản lý. Chế biến khô là phương pháp đơn giản hơn, cà phê đem phơi khô sau đó, xát vỏ và đánh bóng. Trên thực tế, do tích lũy vốn trong dân đặc biệt là nông dân rất thấp nên ít hộ có đủ điều kiện để đầu tư tự chế biến. Theo khảo sát tháng 6/2003 ở Đắc Lắc, khoảng 26,7% hộ trung bình và 35,3% hộ giàu tự chế biến, hầu hết đều đi thuê. Ở những vùng cà phê phát triển nhất thì 74,1% hộ trung bình và 84% hộ giàu tự chế biến. * Trang thiết bị chế biến Sau năm 1975, trang thiết bị chế biến cà phê còn cũ kĩ, lạc hậu, chắp vá. Ở miền Bắc chỉ có một số xưởng chế biến của nông trường Đồng Giao, Phủ Quỳ với thiết bị được lắp đặt từ những năm 1960-1962 của Đức. Ở miền Nam cũng có một số đồn điền cà phê cũ với công suất nhỏ. Khi quy mô sản xuất cà phê được mở rộng, sản lượng tăng lên thúc đẩy quá trình đổi mới quy trình chế biến. Ta tiến hành đầu tư vào cơ sở , trang thiết bị, máy móc, dây chuyến phục vụ cho hoạt động chế biến sông vẫn mang tính sao chép. Trong những năm gần đây, nhiều công ty, nông trường đã tiến hành xây dựng các cơ sở chế biến tiên tiến với công nghệ kỹ thuật hiện đại nhập từ bên ngoài (Đức , Brazil..). Tuy giá thành của chúng đắt nhưng lại mang lại hiệu quả sản xuất cao, nâng cao chất lượng cà phê Việt Nam. Bên cạnh đó, việc xây dựng các cơ sở tái chế được quan tâm, chú ý bảo đảm sử dụng hiệu quả nguồn lực, cho năng suất cao, chất lượng cao hơn. Vấn đề chú trọng vào vấn đề giảm số lượng nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa, đặc biệt trong điều kiện cung vượt quá cầu. Do vậy cần hết sức chú trọng vào khâu chế biến, nâng cao tiêu chuẩn chất lượng của cà phê và loại bỏ cà phê có chất lượng thấp. 3- Thực trạng xuất khẩu cà phê Cà phê là mặt hàng có giá trị giao dịch quốc tế lớn thứ hai sau dầu mỏ. Ở nước ta, cà phê là loại nông sản xuất khẩu có giá trị lớn thứ hai sau gạo. Giá trị cà phê xuất khẩu thường chiếm khoảng gần 1/10 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Niên vụ 2005-2006, cà phê Việt Nam đã được xuất khẩu sang 71 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có 10 nước đứng đầu cụ thể theo bảng sau: Bảng 6: 10 nước nhập khẩu cà phê VN hàng đầu niên vụ 2005-2006 STT Nước nhập khẩu Khối lượng Trị giá Giá bình quân Thị phần (kg) (USD) (USD/kg) (%) 1 Đức 114,382,986 123,556,217.57 1.08 14.57 2 TBN 88,526,631 95,978,804.50 1.08 11.28 3 Hoa Kỳ 87,931,685 86,829,730.95 0.99 11.2 4 Italia 56,123,382 62,641,146.08 1.12 7.15 5 Ba lan 40,495,644 45,027,200.04 1.11 5.16 6 Hàn Quốc 38,491,394 41,282,412.76 1.07 4.9 7 Nhật 31,133,034 36,638,648.12 1.18 3.97 8 Anh 25,865,756 26,627,078.49 1.03 3.29 9 Bỉ 21,667,934 24,141,153.20 1.11 2.76 10 Pháp 18,720,491 20,249,119.82 1.08 2.38 Nguồn: Báo cáo “ Ngành cà phê Việt Nam- hiện trạng& triển vọng” ( Tình hình xuất khẩu cà phê nước ta trong những năm gần đây được thể hiện qua bảng sau: Bảng 7: Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam Năm Khối lượng xuất khẩu (tấn) Kim ngạch xuất khẩu (1000 USD) Giá xuất khẩu TB (USD/tấn) 1994 165,000 227,000 1376 1995 212,000 560,000 2642 1996 233,000 423,000 1815 1997 346,000 414,000 1197 1998 385,000 602,000 1564 1999 404,000 555,000 1374 2000 654,000 538,000 823 2001 875,000 382,000 437 2002 714,000 263,000 368 2003 691,000 428,000 619 2004 974,500 641,000 632 Nguồn: VIFACO, Bộ Công Thương Hình 2: Biến động kim ngạch và giá xuất khẩu cà phê giai đoạn 1994-2004 Nguồn:VIFACO, Bộ Công Thương Xuất khẩu cà phê nước ta tăng nhanh từ 165.000 tấn năm 1994 đến 875.000 tấn năm 2001 và sau đó giảm xuống đến năm 2003 chỉ còn 691.000 tấn; đến năm 2004 lại tăng lên đến 974.500 tấn.Như vậy, khối lượng cà phê xuất khẩu so với năm 1994, gấp 5,3 lần, năm 2004 so với năm 1994 gấp 5,91 lần. Tốc độ tăng sản lượng cà phê xuất khẩu bình quân giai đoạn 1994 -2004 là 19,43%/năm. Cho đến năm 2006, khối lượng cà phê xuất khẩu là 981.000 tấn, tăng 9,9% về lượng và trị giá là 1,22 tỷ USD, tăng 65% so với cùng kỳ năm 2005, tăng 0,7% so với năm 2004. Bảng 8: Sản lượng cà phê xuất khẩu trong thời kỳ 1986-2005 1986-1990 1991-1995 1996-2000 2001-2005 Sản lượng(nghìn tấn) 230 757 2273 4270 Giá trị (triệu USD) 343 1207 2598 2594 Nguồn:Tổng cục thống kê Qua số liệu cho thấy sản lượng cà phê xuất khẩu ngày một tăng lên qua các giai đoạn .Sản lượng giai đoạn 2001-2005 gấp 18,57 lần sản lựong giai đoạn 1986-2000. Về giá trị xuất khẩu, giá trị này không ngừng tăng lên qua các thời kỳ và có xu hướng ổn định ở hai thời kỳ cuối.Như vậy, trong tương lai, xuất khẩu cà phê sẽ còn tăng lên do được đầu tư nhiều hơn vào quy trình sản xuất - chế biến cà phê Kim ngạch xuất khẩu cà phê cũng tăng mạnh, nhưng không theo tốc độ tăng của sản lượng vì sự biến động của giá xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu cao nhất là 602 triệu USD năm 2004, gấp 2,65 lần năm 1994. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cà phê giai đoạn 1994-2004 là 10,94%/năm. Đến năm 2006, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1,1 tỷ USD, gấp 1,7 lần so với năm 2004. Điều đó cho thấy giá trị cà phê xuất khẩu ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu cà phê tăng mạnh, đồng thời, giá cà phê cũng nhích lên chút ít so với năm trước. Chính do sự biến động giảm mạnh giá xuất khẩu trong giai đoạn 1994-2004 là nguyên nhân khiến cho tốc độ tăng của kim ngạch xuất khẩu thấp hơn tốc độ tăng của lượng cà phê xuất khẩu, bằng 56% tốc độ tăng sản lượng xuất khẩu. Cụ thể, giá cà phê giảm mạnh từ 1377 USD/tấn năm 1994 xuống còn 619 USD/tấn năm 2003 và 623 USD/tấn năm 2004; tức là tốc độ giảm giá bình quân giai đoạn 1994-2004 là 7,49%/năm. Đến năm 2006, giá cà phê xuất khẩu là 1183,7 USD/tấn, gấp 1,9 lần năm 2004. Điều đó cho phép chúng ta kỳ vọng vào giá cà phê của Việt Nam trong tương lai đặc biệt là trong điều kiên hội nhập kinh tế Việt Nam - thế giới hiện nay. Song, thực tế giá xuất khẩu cà phê Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào sự biến động của giá cà phê thế giới theo xu hướng ngày càng thu hẹp khoảng cách với giá thế giới. Đến niên vụ 2006/2007 bắt đầu từ tháng 10/2006 đến tháng 9/2007, sản lượng cà phê xuất khẩu đã tăng vượt bậc với 1,28 triệu tấn với trị giá xuất khẩu gần 1,9 tỷ USD đã đưa cà phê là mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam. Tuy nhiên, sự tăng mạnh về kim ngạch xuất khẩu không phải do chất lượng cà phê xuất khẩu tăng lên mà chủ yếu là do sự tăng lên của giá cà phê thế giới. Bên cạnh đó, giá cà phê xuất khẩu còn chịu tác động bởi: + Cơ cấu sản phẩm cà phê xuất khẩu của ta chủ yếu là cà phê Robusta. Đây là loại cà phê có giá trị thấp hơn cà phê Abirica rất nhiều nên làm cho giá thành xuất khẩu giảm + Chất lượng cà phê nhân của nước ta chưa đồng đều , không cao do khâu chăm sóc chưa thực sự hiệu quả. Nhiều người dân trồng cà phê không đủ vốn đầu tư chăm sóc, nên chất lượng quả không cao, khi thu hoạch lại hái lẫn nhiều quả xanh, sau khi thu hoạch, chủ yếu chế biến theo phương thức thủ công nên độ khô của cà phê chưa được đồng đều và chưa đạt tiêu chuẩn. Và cũng do hạn chế về trình độ và vốn nên vấn đề bảo quản, đóng gói, vận chuyển còn chưa được chú trọng nhiều dẫn đến chất lượng cà phê Việt Nam khi đến thị trường nhập khẩu sẽ giảm rất nhiều về chất lượng, do đó giá thành bị giảm nhiều. + Công tác xúc tiến thương mại , quảng bá thương hiệu, khai thác bạn hàng ... còn hạn chế. Tuy hai năm gần đây, chúng ta đã có những chuyển biến trong giao dịch thương mại nhất là thương mại điện tử theo các hợp đồng kỳ hạn. Nhờ vậy, cà phê Việt Nam càng có nhiều cơ hội vươn xa hơn nữa . Theo các nhà phân tích, giá xuất khẩu cà phê ở Việt Nam luôn thấp hơn giá thế giới và bám sát với biến động giá thế giới .Điều đó cho thấy rằng ngành cà phê Việt Nam luôn gắn chặt với thương mại cà phê quốc tế . Bảng 9: Giá xuất khẩu cà phê của một số nước trên thê giới năm 2001 Quốc gia Cent/lb Loại cà phê Hệ số giá so với VN Inđonêxia 41,94 Vối 1,01 Việt Nam 41,39 Vối 1,00 Ấn Độ 53,01 Vối 1,28 Thái Lan 38,2 Vối 0,92 Uganda 60,38 Vối 1,46 Braxin 96,71 Chè 2,34 Mêxico 91,97 Chè 2,22 Ethiôpia 83,62 Chè 2,02 Columbia 96,73 Chè 2,34 Nguồn: Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO) Quy trình chọn giống- trồng trọt - chăm sóc - thu hoạch - chế biến - xuất khẩu là một quy trình dài đòi hỏi tính hiệu quả, nhất quán với nhau. Song thực tế Việt Nam, quy trình này còn rất nhiều bất cập nên giá cà phê xuất khẩu thường thấp và chất lượng cà phê xuất khẩu cũng chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế. Một nguyên nhân nữa làm cho chất lượng cà phê Việt Nam thấp hơn thế giới là do tiêu chuẩn cà phê Việt Nam còn thấp hơn tiêu chuẩn của thế giới Bảng 10: Tiêu chuẩn chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam STT Tiêu chuẩn Nội dung 1- TCVN 6929:2001 (ISO 9116-1992) Cà phê nhân - Hướng dẫn phương pháp mô tả các quy định 2- TCVN 6928:2001 (ISO 6673-1983) Cà phê nhân - Xác định sự hao hụt khối lượng ở 105oC 3- TCVN 4807:2001 (ISO 4150-1991) Cà phê nhân- Phương pháp xác định cỡ hạt bằng sàng tay (Soát xét lần 2- Thay thế TCVN 4807-89) 4- TCVN 4334-2001 (ISO 3509-1989) Cà phê & các sản phẩm của cà phê - Thuật ngữ và định nghĩa (Soát xét lần 1- Thay thế TCVN 4334-86) 5- TCVN 4193:2001 Cà phê nhân - Yêu cầu kỹ thuật (Soát xét lần 3 - Thay thế TCVN 4193:1993) Nguồn: VIFACO Người dân trồng cà phê thường có thói quen thu hái tổng hợp hạt xanh lẫn hạt chín, phơi và cất giữ thủ công khiến chất lượng giảm. Tuy nhiên, hiện nay việc áp dụng tiêu chuẩn cho cà phê xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Là thành viên của Tổ chức Cà phê thế giới (ICO) gồm 25 nước, chiếm 73,1% lượng cà phê xuất khẩu toàn cầu phải tuân thủ những tiêu chuẩn về cà phê XK, nhưng Việt Nam hiện lại nằm trong số 26,9% lượng cà phê không tuân thủ tiêu chuẩn nào của Tổ chức Cà phê thế giới. Điều này khiến cho “Việt Nam trở thành nước chuyên xuất khẩu “xô” cà phê” ( Theo Bộ Tài Chính). Bởi hàng xấu, hàng tốt trộn lẫn rồi bán với giá thấp. Do vậy, cà phê Việt Nam bị thải loại ở các cảng châu Âu là trên 1 triệu bao, chiếm 73,32% lượng cà phê bị thải loại của thế giới. Niên vụ 2006/2007 vừa qua tuy kim ngạch đạt tới con số kỷ lục 1,9 tỷ USD, song, chúng ta không thể không nhắc đến hàng trăm triệu USD mất đi do hàng kém chất lượng. Theo Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam phân tích, nguyên nhân chủ yếu là cũng do việc thu hoạch cà phê không đúng tiêu chuẩn. Do chúng ta thu hoạch theo kiểu hái sạch , hái hết quả trên cây, nên rất nhiều quả cà phê xanh chưa đủ độ chín đã được thu hoạch, làm giảm chất lượng chung của cà phê. Khi cà phê được giá, các nơi trồng cà phê vội vàng bán tống, bán tháo mà không cần quan tâm đến chất lượng hàng bán ra. Không chỉ hạn chế chất lượng do thu hoạch không chọn lọc, việc chế biến cà phê cũng gặp rất nhiều khó khăn. Do diện tích phơi không đủ nên cà phê sau khi thu hoạch thường chất đống, mặt khác cà phê được phơi tiếp xúc với mặt đất nên độ khô của hạt cà phê không đều. Với cà phê thu hoạch sớm, sau khi phơi khô sẽ bị teo nhỏ, nhăn nheo. Hơn nữa, cà phê Việt Nam thường chế biến theo phương pháp gia công nên màu sắc hạt cà phê không bóng, không đều , dễ bị vỡ vụn. Chính vì vậy, chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam rất thấp , mỗi năm việc thu hoạch cà phê non đã làm giảm tới gần 30% sản lượng cà phê xuất khẩu, tức đã giảm mất hàng trăm triệu USD từ giá trị cà phê xuất khẩu thu về. Tuy nhiên, cà phê Việt Nam vẫn giữ vững được mức sản lượng xuất khẩu cao thứ hai trên thê giới. Điều đó cho thấy tiềm năng cạnh tranh của cà phê Việt Nam so với các nước khác trên thế giới là cao. Những thuận lợi tạo nên khả năng cạnh tranh cho hoạt động xuất khẩu cà phê Việt Nam là: + Với nguồn lao động dồi dào, đặc biệt là người lao động ở nông thôn, nên giá lao động của Việt Nam rẻ hơn nhiều so với các nước khác trên thế giới. Điều này đã góp phần làm giảm chi phí sản xuất cà phê, giảm giá thành sản phẩm đồng thời đem lại năng suất lao động cao. + Năng suất cà phê cao nhờ được thiên nhiên ban tặng một vùng đất đai rộng lớn, khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp cho cây cà phê phát triển. Kết hợp với việc sử dụng nhiều phân bón và nước tưới đã càng thúc đẩy năng suất sản lượng tăng lên với năng suất bình quân là 1,3 tấn/ha, thậm chí, nhiều hộ còn đạt 4-5 tấn/ha. Trong khi ở một số nước ở Châu Phi và Indonesia chỉ đạt 0,3- 0,35 tấn/ha; Brazil và Ấn Độ đạt 0,8 tấn/ha. + Chi phí vận chuyển cà phê tới các cảng xuất khẩu ở nước ta là thấp. Do lợi thế về địa lý, chiều rộng hẹp, lại tiếp giáp với biển Đông nên khoảng cách vận chuyển từ nơi sản xuất cà phê tới các cảng đều ngắn, giảm thiểu chi phí đầu vào sản phẩm, giảm bớt được những rủi ro về chất lượng trong quá trình vận chuyển. + Hệ thống chính sách của Chính Phủ Việt Nam đối với ngành cà phê thông thoáng tạo môi trường bình đẳng cho các đơn vị tham gia sản xuất, chế biến và tiêu thụ cà phê. Theo một số nghiên cứu khác, so với các nước trồng cà phê khác, nông dân trồng cà phê ở Việt Nam là những người được nhận tỷ lệ mức giá cao nhất so với mức giá xuất khẩu. Mức giá bán cà phê tại hộ năm 2002 bằng 94% so với mức giá xuất khẩu ở Việt Nam Về chủng loại cà phê xuất khẩu; chủ yếu chúng ta vẫn xuất khẩu cà phê nhân khô, cà phê nguyên liệu. Những loại cà phê đã qua chế biến như cà phê rang xay, cà phê hòa tan chưa được chú trọng tới trong hoạt động xuất khẩu. Do vậy, cà phê Việt Nam xuất khẩu nhiều nhưng vẫn chưa được ưa chuộng. Năm 2003, xuất khẩu cà phê rang xay và cà phê hòa tan của nước ta chỉ chiếm 0,43% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê. Bên cạnh đó, cà phê Việt Nam sản xuất chủ yếu để xuất khẩu. Trên thị trường cà phê nước ta có rất nhiều loại cà phê: cà phê vỏ tươi, cà phê khô, cà phê nhân xô, cà phê nhân xuất khẩu, cà phê rang xay, cà phê hòa tan. Vậy nên, hầu hết chúng ta chỉ tập trung vào sản xuất những loại cà phê có giá trị xuất khẩu cao, vì thế, thị trường cà phê trong nước chưa được chú trọng đến nhiều, còn rất nhỏ lẻ. Do đó, sự phát triển của ngành cà phê phụ thuộc rất lớn vào hoạt động xuất khẩu cà phê có thuận lợi hay không. II- Thực trạng tiêu thụ cà phê Việt Nam Như đã phân tích ở trên, phần lớn cà phê của Việt Nam được sản xuất với mục đích xuất khẩu nên thị trường tiêu thụ cà phê Việt Nam phần lớn là ở bên ngoài. Do quá chú trọng vào việc xuất khẩu cà phê nên cầu của ngành hàng này dường như chỉ dựa vào thị trường tiêu thụ nước ngoài mà quên đi mất tầm quan trọng của thị trường tiêu thụ trong nước. Bình quân năm 2002, mỗi người Việt Nam tiêu thụ khoảng 1,25kg cà phê; giá trị tiêu thụ cà phê trung bình là 9130 đ/người/năm.Theo Vicofa, lượng cà phê tiêu thụ nội địa năm 2003 chiếm khoảng 4,4% tổng sản lượng. Theo điều tra của WB lại cho biết, tiêu thụ cà phê trong nước chiếm khoảng 10% tổng sản lượng. Còn theo VLSS 2004, lượng tiêu thụ trong gia đình các loại cà phê đã chế biến chiếm khoảng 2% tổng sản lượng xuất khẩu. Sở dĩ, có các kết quả nghiên cứu khác biệt như vậy là do chưa có nguồn số liệu thống kê thống nhất về sản lượng cà phê tiêu thụ trong nước. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đễn những khó khăn trong phân tích thị trường tiêu thụ ngành hàng này.Cho đến năm 2006, nước ta đã xuất khẩu gần 900.000 tấn cà phê nhân, đạt kim ngạch xuất khẩu là 1,5 tỷ USD, song thị trường tiêu thụ cà phê trong nước vẫn chưa có chút tiến triển đáng kể nào thể hiện rõ được tầm quan trọng của thị trường này, chỉ chiếm 5% tổng sản lượng. Dù không thống nhất về số liệu thống kê song chúng ta vẫn có thể khẳng định thị trường tiêu thụ cà phê nội địa của Việt Nam thấp hơn rất nhiều so với thế giới. Bình quân mỗi năm, các nước thuộc tổ chức cà phê thê giới (ICO) tiêu thụ nội địa được khoảng 25,16% sản lượng. Vậy nguyên nhân mất cân bằng giữa các thị trường tiêu thụ là do đâu? Thiết nghĩ, đó là do chúng ta chưa có sự quan tâm đúng mực, chưa có sự đấu tư thích đáng vào thị trường trong nước để mở rộng quy mô tiêu thụ cà phê. Thứ hai, đó là do tâm lý người dân Việt Nam , chủ yếu là ở nông thôn, ít có cơ hội để tiếp cận sự phổ biến của cà phê trong văn hóa Phương Đông, họ chưa quen với việc coi uống cà phê là một thức uống hàng ngày. Mặt khác, nhiều người không đủ điều kiện để thưởng thức cà phê hàng ngày, và thậm chí nhiều người không dùng cà phê vì họ thấy uống cà phê không tốt cho sức khỏe... Thứ ba là do chúng ta chưa có một chiến lược maketing sản phẩm đến người tiêu dùng trong nước một cách đồng bộ, hiệu quả, đầy đủ. Do vậy, ngoài vấn đề tăng kim ngạch xuất khẩu cà phê, chúng ta cần chú trọng nhiều hơn nữa tới việc tăng cầu tiêu thụ cà phê trong nước. Đó mới là nguồn tiêu thụ bền vững của mỗi quốc gia, nhất là thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam luôn có “nhạy cảm” với các cuộc khủng hoảng. Như đã phân tích, tiêu thụ cà phê trong nước giữa thành thị và nông thôn có sự khác biệt lớn. Lượng tiêu thụ bình quân đầu người của thành thị năm 2002 là 2,4kg cao gấp 2,72 lần tiêu thụ của nông thôn là 0,89 kg. Trong khi đó, giá trị tiêu thụ bình quân đầu người của thành thị đạt 20.280 đồng, cao gấp 3,5 lần mức của nông thôn Hình 3: Lượng (kg/người) và giá trị (nghìn đồng/người) tiêu thụ cà phê bình quân đầu người nông thôn và thành thị năm 2002 Nguồn: Theo Điều tra mưc sống dân cư năm 2002 Sở dĩ, có sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn là do giá cà phê ở thành thị cao hơn ở nông thôn không chỉ do mức sống thành thị cao hơn mà còn do chất lượng cà phê thành thị tốt hơn. Hơn nữa, thu nhập ở khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn nên tiêu dùng cũng cao hơn. Không chỉ có sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn trong tiêu dùng cà phê mà giữa các nhóm người có thu nhập khác nhau thì tiêu dùng cà phê cũng khác nhau.Tiêu thụ cà phê bình quân đầu người tăng dần từ nhóm có thu nhập thấp nhất đến nhóm có thu nhập cao nhất. Trong đó, lượng tiêu thụ cà phê của nhóm 5 cao hơn nhóm 1 đến gần 18 lần, tuy nhiên, giá trị tiêu thụ chỉ chênh lệch khoảng gần 9 lần. Như vậy, tiêu thụ cà phê có xu hướng thay đổi theo thu nhập thể hiện ở hình dưới đây: Hình 4: Tiêu thụ cà phê đầu người theo nhóm thu nhập năm 2002 Nguồn: Theo Điều tra mức sống dân cư 2002 Tiêu thụ cà phê trong nước còn không đồng đều giữa các vũng lãnh thổ. Cụ thể: Hình 5: Tiêu thụ cà phê đầu người theo vùng của Việt Nam năm 2002 Nguồn: Theo Điều tra mức sống dân cư 2002 Theo biểu đồ cho thấy, hầu hết các vùng trong cả nước đều tiêu thụ cà phê nhưng sản lượng và giá trị tiêu thụ rất khác biệt. Duyên hải Nam Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long là 3 vùng có lượng tiêu thụ lớn nhất cả nước. Vùng Tây Bắc, Đông Bắc và Đồng Bằng sông Hồng tiêu thụ rất ít cà phê, thậm chí khu vực Tây Bắc hầu như không tiêu thụ với mức tiêu thụ bình quân đầu người chỉ có 0,03 kg/năm. Lượng tiêu thụ cà phê ở khu vực Tây Nguyên nhiều thứ 4 trên cả nước nhưng vẫn ở mức thấp so với 3 khu vực đứng đầu. Giá trị tiêu thụ của các khu vực diễn biến không hoàn toàn giống như lượng tiêu thụ. Đặc biệt là ở khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Ở khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ, mặc dù lượng tiêu thụ đầu người rất cao (1,5kg/người/năm) nhưng giá trị tiêu thụ chỉ đạt 6.230 đ/người/năm. Trong khi ở Tây Nguyên, các con số này lần lượt là 0,28 kg và 4.150đ. Một trong những nguyên nhân giải thích hiện tượng này là ở Tây Nguyên chủ yếu tiêu thụ các loại cà phê bột, có chất lượ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxHoạt động xuất khẩu cà phê đối với tăng trường và phát triển kinh tế Việt Nam.docx
Tài liệu liên quan