MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 3
I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN: 3
1. Khái niệm: 3
2. Phân loại: 4
2.1. Phân loại tài sản 4
2.1.1. Tài sản vô hình 5
2.1.2. Tài sản hữu hình 5
2.2. Phân loại lại tài sản E&E: 6
2.2.1. Nhận dạng E& E tài sản: 6
2.2.2. Không thể nhận dạng tài sản E&E: 7
II. XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ: 8
1. Ghi nhận và đo lường ban đầu: 8
1.1. Ghi nhận giá gốc: 8
1.2. Các chi phí hành chính và chi phí chung khác: 9
1.3. Các chi phí đi vay: 9
1.4.Nợ phải trả: 10
2. Đo lường sau khi ghi nhận: 11
2.1.Các mô hình chi phí 11
2.2.Mô hình đánh giá 11
2.2.1. Mô hình đánh giá E & E tài sản vô hình. 12
2.2.2. Mô hình đánh giá E & E tài sản hữu hình. 12
III. CHI PHÍ PHÁT TRIỂN: 13
1. Xác định chi phí phát triển: 13
2. Kế toán chi phí phát triển: 14
IV. TỔN THẤT 14
1. Biểu hiện của tổn thất: 14
2. Đánh giá mức tổn thất: 15
3. Đánh giá giá trị thu hồi: 17
3.1. Giá trị sử dụng: 17
3.2. Chi phí vốn trong tương lai: 17
V. CHÍNH SÁCH KẾ TOÁN: 17
1.Lựa chọn chính sách kế toán để thăm dò và đánh giá tài sản. 18
2.Thay đổi chính sách kế toán: 18
VI. TRÌNH BÀY: 18
TÓM TẮT 21
KẾT LUẬN 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
MỤC LỤC 24
23 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2254 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án IFRS 6: Thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cần xem xét đến IFRSs khác (về sự tương đồng) và không cần đề cập đến định nghĩa có trong IASB Framework (nói riêng về tài sản và chi phí).
IFRS 6 chứa các yêu cầu xác định gắn liền với những thay đổi của chính sách KT đối với chi phí E&E
Chi phí E&E:
Chi phí E&E không được ghi nhận là E&E tài sản mà được xem là chi phí phải chịu
Các loại chi phí E&E không có họ gần với nhau thỏa mãn là tài nguyên khoáng sản nhất định để hỗ trợ vốn được xem là chi phí phải chịu.Ví dụ, chi phí thu thập dữ liệu về động đất nói chung không có họ gần với nhau, thỏa mãn là một tài nguyên khoáng sản xác định, được vốn hóa như là E&E tài sản.
1. Ghi nhận và đo lường ban đầu:
Trong một chừng mực nào đó,một đơn vị quy định vốn hóa chi phí E&E như một E&E tài sản, tài sản đó được đo lường theo chi phí ban đầu.
1.1. Ghi nhận giá gốc:
Để phù hợp với các chính sách kế toán, một doanh nghiệp có thể ghi nhận giấy phép thăm dò như là E&E tài sản. Theo chúng tôi chi phí cho giấy phép đó bao gồm chi phí mua trực tiếp. Theo sự hướng dẫn về chi phí trực tiếp được trình bày trong IAS 38. Ví dụ như chi phí có thể bao gồm thuế không hoàn lại và chi phí hợp lí phải chịu khi tiến hành làm các giấy phép.
1.2. Các chi phí hành chính và chi phí chung khác:
IFRS6 yêu cầu một đơn vị lựa chọn một chính sách kế toán về các chi phí hành chính và chi phí chung khác hoặc vốn hóa chúng trong quá trình đo lường và ghi nhận ban đầu của E&E tài sản.Theo quan điểm của chúng tôi,lựa chọn chính sách kế toán nên phù hợp với phương thức tiếp cận trong IFRSs như những chi phí phải chịu liên quan đến hàng tồn kho (IAS 2 hàng tồn kho),tài sản vô hình (IAS 38),hoặc bất động sản,nhà máy,phân xưởng, máy móc thiết bị.
Nếu một đơn vị lựa chọn chính sách kế toán về các chi phí hành chính và chi phí sản xuất chung khác nhất quán với sự nghiên cứu bất động sản, nhà máy, phân xưởng và máy móc thiết bị,thì chi phí hành chính và chi phí sản xuất chung khác sẽ không đủ điều kiện ghi nhận ban đầu như E&E tài sản; thay vào đó chúng được xem như chi phí phải chịu.
Một chính sách dựa vào sự nghiên cứu hàng tồn kho hoặc chi phí vô hình sẽ đòi hỏi một số vốn cho các chi phí hành chính và chi phí sản xuất chung khác mà khoản chi phí này trực tiếp ảnh hưởng đến tài sản.
IFRSs có thể áp dụng với hàng tồn kho bao gồm sự tư vấn thêm về phân bổ chi phí chung và năng lực sản xuất mà nói chung sẽ không có liên quan đến E&E tài sản khi việc sản xuất không được tiến hành.
Nếu một đơn vị lựa chọn chi phí vốn trực tiếp,thì tôi cho các chi phí hành chính và chi phí chung khác có thể đủ điều kiện như là E&E tài sản bao gồm:
Chi phí về tổng tiền lương phải trả cho nhân viên làm việc trực tiếp trên mỗi dự án, bao gồm chi phí về tiền trợ cấp cho mỗi nhân viên.
Chi phí quản lí phải trả nếu một mình họ thực hiện một dự án xác định.
Kí kết các khoản tiền thưởng phải trả cho nhà thầu liên quan quan đến dự án.
Những khoản chi phí hợp pháp hoặc chi phí chuyên môn khác liên quan đến dự án, ví dụ như: những chi phí cụ thể để đạt được giấy phép và giấy chứng nhận
Danh sách trên đây không thể hiện hết mọi khía cạnh. Trong một chừng mực nào đó, một đơn vị mong muốn vốn bỏ ra là thích hợp cho các chi phí hành chính và chi phí chung khác. Sau khi xem xét kĩ lưỡng nên đưa ra hệ thống thông tin cần thiết để nhận biết các chi phí trực tiếp.
Chính sách về chi phí hành chính và chi phí chung khác được áp dụng nhất quán để so sánh chi phí và báo cáo giữa các giai đoạn.Những thay đổi xảy ra sau báo cáo được đề cập trong các chính sách kế toán.
1.3. Các chi phí đi vay:
Theo tôi chi phí đi vay không phải là chi phí E&E mà có thể được ghi nhận như E&E tài sản phù hợp với chính sách kế toán. Thay vào đó ta có thể xem xét sự hướng dẫn trong IAS 23 chi phí đi vay nên được áp dụng như thế nào.
Một đơn vị có thể lựa chọn chính sách kế toán về chi phí vốn vay để phù hợp với một phần chi phí tài sản. Nếu một doanh nghiệp chọn cách sử dụng vốn đi vay thì tất cả các chi phí đi vay đủ tiêu chuẩn về tài sản hạch toán phải được vốn hóa.
Tài sản hạch toán là tài sàn có chu kì trọng yếu cần thiết được chuẩn bị cho mục đích sử dụng hoặc bán. Nói chung, tài sản hạch toán là những thứ chịu ảnh hưởng của việc mở rộng và xây dựng các dự án trọng yếu. Không có sự chỉ dẫn chính xác nào về chu kì trọng yếu là bao lâu, tuy nhiên theo chúng tôi một chu kì tốt nên kéo dài hơn 6 tháng.
Chi phí đi vay là chi phí trực tiếp phục vụ cho hoạt động mua bán,xây dựng hoặc sản xuất của tài sản hạch toán được vốn hóa, chỉ khi chúng mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai.
Chi phí đi vay cũng như E&E tài sản đủ tiêu chuẩn có thể bao gồm một phần chi phí phù hợp với chính sách kế toán tại đơn vị nếu chúng có đầy đủ tiêu chuẩn về vốn.
Nói chung không dễ dàng để trình bày các lợi ích kinh tế trong tương lai khi áp dụng chi phí thăm dò và đánh giá cũng như chi phí đi vay. Nếu theo yêu cầu của IAS 23, trong trường hợp E&E tài sản hạch toán, thì các tiêu chuẩn về vốn có thể gặp khó khăn trong trình bày các lợi ích kinh tế trong tương lai.
Chi phí đi vay được vốn hóa là chi phí phải trả. Bao gồm lãi trên số tền vay sử dụng cho mục đích dành được việc thăm dò và đánh giá tài sản theo tiêu chuẩn và những chi phí khác liên quan đến khoản tiền vay sẽ được hoàn trả lại nếu các khoản chi phí trên phần tài sản không phải chịu.
Bao gồm các Chi phí vay vốn hợp lí, nhưng không giới hạn về lãi suất, những khoản chiết khấu giảm dần, hoặc phí bảo hiểm và phí giao dịch đang sử dụng theo hệ thống lãi suất thực tế, phí tài chính đặc biệt về sự cho thuê tài chính và sự thay đổi trong các phạm vi khác nhau, chúng được coi như là sự điều chỉnh các khoản phí tổn trả lãi. Tuy nhiên, việc chiết khấu để tu sửa sản xuất định kì sẽ không được tài trợ vốn.
1.4.Nợ phải trả:
Một doanh nghiệp áp dụng IAS 37 “dự phòng, các khoản nợ phát sinh, tài sản”, những chi phí phát sinh dịch chuyển và sửa chữa là các khoản nợ phải trả khi đưa ra kết quả của việc thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản. Nhiều doanh nghiệp trong công nghiệp khai khoáng chịu trách nhiệm tu sửa liên quan đến kết quả công việc kinh doanh của những hoạt động thăm dò và đánh giá.
Những khoản nợ có kết quả từ quá trình sản xuất (ví dụ trữ lượng khai khoáng) được ghi nhận chỉ khi việc khai khoáng được thực hiện.
Quan hệ nợ có thể dựa trên pháp luật (ví dụ: luật hoặc các điều khoản về giấy phép thăm dò) hoặc ngầm định. Các khoản nợ hình thành phát sinh - trình bày chi tiết, tỉ mỉ trên báo cáo tài chính khi công bố ra bên ngoài - khi một đơn vị lập các dự án hợp lệ trong kế hoạch của họ và tiến hành các hoạt động trong kế hoạch đó. Ví dụ: một doanh nghiệp hoạt động trong công nghiệp dầu khí, tại đất nước không có luật về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên tại đơn vị lại ban hành chính sách môi trường, chính sách này thể hiện ở khía cạnh làm sạch các chất bẩn. Do vậy, tại đơn vị sẽ hình thành trách nhiệm, nghĩa vụ khi chính sách dự tính sẽ làm sạch các chất bẩn được đưa ra.
Một nhà quản lí thường sẽ tối đa hóa lợi nhuận, do đó họ sẽ không đưa ra các quyết định làm gia tăng các khoản nợ, và không đưa ra các dự toán hợp pháp cho đến khi hội đồng gửi các quyết định đến họ. Dù vậy, quyết định của hội đồng không phát sinh các ghi nhận dự phòng.
2. Đo lường sau khi ghi nhận:
Sau khi ghi nhận đơn vị áp dụng các mô hình chi phí hoặc các mô hình đánh giá lại, phù hợp với E&E chi phí.
2.1.Các mô hình chi phí
E&E tài sản hữu hình (và E&E tài sản vô hình hạn chế về thời gian hoạt động) được khấu hao trên phần thời gian sử dụng. Lượng khấu hao của E&E tài sản hữu hình (hoặc E&E tài sản vô hình hạn chế về thời gian hoạt động) chính là khoản phí tổn của phần giá trị còn lại. Giá trị còn lại của E & E tài sản hữu hình là lượng mà đơn vị có thể nhận được từ tài sản vào ngày lập bảng cân đối kế toán nếu tài sản phù hợp với điều kiện thì tài sản đó sẽ thích hợp khi đơn vị mong muốn, bố trí, sắp xếp nó. Giá trị trị còn lại của tài sản vô hình bị hạn chế về thời gian sử dụng được giả định là thấp nhất nếu không thỏa mãn các tiêu chuẩn.
E&E tài sản vô hình không giới hạn thời gian sử dụng không được khấu hao. Tuy nhiên, do bản chất của tài sản, sẽ hiếm khi có một E&E tài sản vô hình nào được đánh giá là thời gian sử dụng không rõ ràng.
Sự khấu hao hay sự khấu hao dần của tài sản hữu hình hoặc vô hình chỉ được thực hiện khi tài sản có hiệu lực để sử dụng. Tất nhiên những E&E tài sản không xác định rõ thời gian (giấy phếp thăm dò, xe cộ hay các dàn khoan) có thể có hiệu lực để sử dụng ngay lập tức.Những E&E tài sản khác không có hiệu lực để sử dụng sau thời gian đó,ví dụ khi việc phát triển các tài nguyên khoáng sản bắt đầu.
Trong trường hợp những tài sản vô hình có hiệu lực sử dụng, nói chung rất hiếm khi có bằng chứng thuyết phục để chấp nhận một phương thức khấu hao mà kết quả của việc khấu hao dần thấp hơn so với phương pháp đường thẳng. Tuy nhiên, dùng các đơn vị của các phương thức xản xuất cho E&E tài sản vô hình có hiệu lực sử dụng có thể là thích hợp nhất.
Cả E&E tài sản hữu hình và vô hình đều được nghiên cứu về các yếu điểm trong các tình huống cụ thể.
2.2.Mô hình đánh giá
Trong thực tế, việc đánh giá E & E tài sản vô hình hiếm khi xảy ra khi những tài sản này không đồng nhất. Một vài GAAPs quốc tế cho phép đánh giá E & E tài sản, chúng tôi cho rằng sẽ có một vài yêu cầu áp dụng phương pháp đánh giá E & E tài sản khi có sự phân loại thành vật hữu hình hoặc vô hình.
Nếu đơn vị lựa chọn áp dụng mô hình đánh giá thì mô hình được áp dụng nên nhất quán với việc phân loại tài sản thuộc loại vô hình hoặc hữu hình. Như vậy, E & E tài sản hữu hình sẽ được đánh giá khi sử dụng mô hình trong ISA 16 và E&E tài sản vô hình dùng mô hình trong ISA 38. Có một vài sự khác nhau về mô hình đánh giá tài sản vô hình và hữu hình dưới IFRSs. Những mô hình đánh giá này chỉ cho phép đánh giá tài sản khi có những yêu cầu xác định được thỏa mãn.
IFRS 6 chú ý rằng E&E tài sản nên được xem xét khi từng lớp tài sản riêng lẻ được trình bày có mục đích. Nói chung IFRSs định nghĩa phân lớp tài sản là một nhóm các khoản mà có trạng thái tự nhiên giống nhau và dùng trong hoạt động kinh doanh của đơn vị. Ban đầu một chính sách đánh giá phải được áp dụng cho tất cả các tài sản trong cùng một phân lớp. E & E tài sản vô hình và hữu hình có thể được xem là hai phân lớp tồn tại riêng biệt. Nói chung tất cả E & E tài sản hữu hình sẽ có hình thức một lớp đơn và một chính sách chi phí hoặc đánh giá nên áp dụng nhất quán với tất cả các tài sản trong phân lớp đó. Chúng tôi cho rằng rất đáng hoan nghênh trong việc lập mô hình đánh giá cho E & E tài sản hữu hình và mô hình các chi phí trong E & E tài sản vô hình.
2.2.1. Mô hình đánh giá E & E tài sản vô hình.
E&E tài sản vô hình có thể được đánh giá lại để phù hợp với giá trị thực chỉ khi các hoạt động thị trường mua bán náo nhiệt tồn tại. Các hoạt động thị trường mau bán náo nhiệt tồn tại khi thỏa mãn các điều kiện:
Các điều khoản kinh doanh được áp dụng đồng nhất.
Những người mua và người bán bình thường sẵn có có thể được thiết lập theo thời điểm.
Công khai giá sẵn có.
Sẽ rất hiếm có những E & E tài sản vô hình thỏa mãn các tiêu chuẩn này.
2.2.2. Mô hình đánh giá E & E tài sản hữu hình.
E&E tài sản hữu hình có thể đánh giá theo giá trị thực, cung cấp các giá trị thực có thể được đo lường một cách đáng tin cậy.
Giá trị thực thường được xác định bởi đánh giá dựa trên nền tảng các bằng chứng thị trường vốn có, dựa vào vị trí (vị trí địa lí) và điều kiện hiện tại của tài sản (chúng ta giả sử rằng người mua phải chịu các phí tổn vận tải). Sẽ có những khó khăn trong việc xác định giá trị thực của E & E tài sản hữu hình và vô hình. Ví dụ không thể tìm bằng chứng về giá trị thị trường khi tài sản nói chung được thiết kế chuyên dụng và rất hiếm khi việc nhượng bán hàng hóa bị loại trừ khi doanh nghiệp hoạt động liên tục hoặc khi thiết kế máy móc thiết bị riêng biệt để thích ứng với đặc tính của các giếng dầu. Thêm vào đó, có thể rất khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường dịch vụ khi dựa trên nền tảng giá trị thị trường
Khi không có bằng chứng thị trường về giá trị thực, khấu hao các chi phí thay thế hoặc phương pháp thu nhập có thể dùng để ước lượng giá trị thực,điều này có thể xảy ra khi tài sản được chuyên dụng và nhượng bán hàng hóa bị loại trừ trong quá trình hoạt động liên tục của doanh nghiệp. Thu nhập (những lưu lượng tiền mặt) có thể phát sinh trong tương lai mặc dù việc thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản không được chắc chắn lắm, phương pháp thu nhập có thể cung cấp các ước lượng đáng tin cậy về giá trị thực của E & E tài sản hữu hình.
Do những khó khăn trong việc xác định giá trị thực của E & E tài sản hữu hình nên chúng ta cần cẩn thận trong việc đánh giá những tài sản khan hiếm.
III. CHI PHÍ PHÁT TRIỂN:
Có sự khác biệt giữa IFRSs và thực hành ngành công nghiệp vì nó liên quan đến sự phát triển lâu dài.
IFRS 6 không có một định nghĩa về hoạt động phát triển hoặc chi phí phát triển. IAS 38 định nghĩa, (Kế toán) phát triển trong bối cảnh nghiên cứu và phát triển như là "việc ứng dụng các phát minh nghiên cứu hoặc kiến thức khác để có kế hoạch, thiết kế phù hợp cho sản xuất mới hoặc cải thiện đáng kể vật liệu, thiết bị, sản phẩm, quy trình, hệ thống, dịch vụ trước khi bắt đầu thương mạị sản xuất, sử dụng. Ví dụ về các chi phí phát triển (kế toán) bao gồm các chi phí liên quan đến việc " thiết kế, xây dựng và hoạt động của một nhà máy thí điểm đó không phải là quy mô một kinh tế khả thi cho thương mại sản xuất.
Trong bối cảnh phát triển ngành công nghiệp thực hành đề cập đến giai đoạn khi một khoáng chất được xác định dự trữ để chuẩn bị cho sản xuất (ví dụ, xây dựng các truy cập vào các tài nguyên khoáng sản).
IFRS 6 ngụ ý rằng các hoạt động phát triển mà các tiêu chuẩn này không bắt đầu áp dụng khi tính khả thi kỹ thuật và khả năng thương mại của việc chiết xuất một nguồn tài nguyên khoáng sản có thể chứng minh được.
Trong các ngành công nghiệp khai khoáng, khi xác định tính khả thi kỹ thuật và tính khả thi thương mại, một doanh nghiệp nói chung sẽ xuất phát từ hoạt động phát triển trực tiếp (ví dụ, xây dựng.1 giai đoạn), và do đó có thể không phải những chịu chi phí, được xem xét trong (kế toán) chi phí phát triển.
1. Xác định chi phí phát triển:
IFRS 6 không quy định khi tính khả thi kỹ thuật và khả năng thương mại của tài nguyên khoáng sản có thể chứng minh, các doanh nghiệp cần thiết lập một chính sách có thể được áp dụng thống nhất. Trong trường hợp không có hướng dẫn cụ thể trong IFRS 6, nhà quản lý phải đưa ra các phán quyết để phát triển chính sách kế toán phù hợp theo quy định của IFRSs. Các hệ thống phân cấp thiết lập trong IAS 8 được sử dụng làm cơ sở. Hệ thống phân cấp này đòi hỏi tham chiếu đến IFRSs khác (bao gồm cả giải thích), các vấn đề tương tự và các định nghĩa, tiêu chuẩn, công nhận và các khái niệm đo lường trong khung IASB. Hệ thống phân cấp giấy phép tham chiếu đến GAAPs khác và ngành công nghiệp, cung cấp các chính sách được thông qua phù hợp với khung IASB.
Một yếu tố quan trọng trong việc xác định tính khả thi kỹ thuật và khả năng thương mại kiểm chứng sự tồn tại và khả năng dự trữ. Trong đánh giá khả năng tồn tại, một doanh nghiệp thương mại sẽ cần phải xem xét liệu họ có đủ nguồn lực để tiến hành các hoạt động phát triển.
Khi một thực thể đã xây dựng chính sách để xác định những gì tạo nên chi phí phát triển, thì chính sách này nên được áp dụng thống nhất.
2. Kế toán chi phí phát triển:
Theo IFRS, một khi tính khả thi kỹ thuật và khả năng thương mại của các tài nguyên khoáng sản có thể chứng minh được, chi phí liên quan đến sự phát triển của tài nguyên khoáng sản mà không được công nhận là tài sản E & E.
Khi chi tiêu vào việc phát triển và khai thác tài nguyên khoáng sản nằm ngoài phạm vi IAS 16, IAS 38 và IFRS 6, doanh nghiệp sẽ cần phải xác định chính sách kế toán liên quan đến các chi phí bằng cách sử dụng các hướng dẫn có sẵn.
Các IASB lưu ý rằng sự phát triển của một nguồn tài nguyên khoáng sản hoạt động thăm dò à đánh giá một lần sẽ bao gồm ví dụ về các giai đoạn phát triển (kế toán) của dự án nội bộ. Theo IAS 38, trong giai đoạn phát triển của một dự án nội bộ, doanh nghiệp thường có thể xác định một tài sản vô hình và chứng minh rằng các tài sản sẽ tạo ra lợi ích kinh tế trong tương lai.
Ngoài ra, một doanh nghiệp có thể kết luận rằng không có giai đoạn phát triển (kế toán) giữa việc xác định tính khả thi kỹ thuật, khả năng thương mại và các hoạt động được chuẩn bị để sản xuất, khai thác tài nguyên khoáng sản cụ thể (hoạt động phát triển). Trong trường hợp này, nó có thể thích hợp để tận dụng chi tiêu phát triển như một phần của chi phí của một khoản mục tài sản, với điều kiện là những chi phí khác đủ điều kiện như là một phần của chi phí.
IV. TỔN THẤT
IFRS 6 yêu cầu đơn vị áp dụng IAS 38 “tổn thất tài sản” để đo lường và trình bày các tổn thất về việc thăm dò và đánh giá tài sản.
Khi đo lường các tổn thất, việc vận chuyển tài sản được so sánh với lượng tài sản có thể thu hồi được và lượng dôi ra được ghi nhận như là một khoản lỗ. Tài sản thu hồi cao hơn giá trị thực bỏ ra và giá trị sử dụng. Bất cứ khi nào có thể, thì mỗi loại tài sản nên được nghiên cứu một cách tách biệt nhau. Khi tài sản không thể theo dõi tách biệt, thì tài sản nói chung được nghiên cứu theo nhóm tổn thất được gọi là cash-generating units (CGUs).
Bản chất của các hoạt động khai khoáng là đòi hỏi vốn lớn, với lượng hàng tồn kho đáng kể trong chu trình sống của tài sản. Hầu hết ở những đơn vị thực hiện hoạt động khai khoáng, máy móc thiết bị áp dụng IAS 36 phù hợp với những thay đổi trong thực tế, đặc biệt về khía cạnh đánh giá các tổn thất trong quá trình thăm dò và đánh giá tài sản.
1. Biểu hiện của tổn thất:
Theo IFRS 6, việc thăm dò và đánh giá tài sản được đánh giá là tổn thất chỉ khi thực tế và tình hình tài chính thể hiện rằng quá trình thăm dò và đánh giá tài sản vượt quá khả năng thu hồi vốn. Không giống với những tài sản khác, tài sản này không có các yêu cầu đánh giá các tổn thất tồn tại vào ngày lập báo cáo, cho đến khi doanh nghiệp có đủ thông tin để đi đến kết quả cuối cùng về khả năng sinh lời kinh tế và tính khả thi của việc khai khoáng.
IFRS 6 bao gồm ví dụ thực tế và tình hình tài chính của các khu công nghiệp riêng biệt, nó thể hiện việc các doanh nghiệp nên nghiên cứu các tổn thất của E&E tài sản, đồng thời thể hiện quyền thăm dò của doanh nghiệp trong một khu vực xác định đã hết hiệu lực hay còn hiệu lực trong tương lai gần, và mong muốn phục hồi lại quyền thăm dò.
“Tương lai gần” không được định nghĩa rõ ràng trong IFRSs. Chúng tôi nghĩ rằng nó được xem là một chu kì thăm dò ngắn hạn, không có nghi ngờ về sự tồn tại của việc các khu vực có thể được phát triển và dự trữ lượng khai khoáng hay không với mục đích để dành lại quá trình thăm dò và đánh giá tài sản trước khi quyền thăm dò mất hiệu lực. Những khu vực được quyền thăm dò trong thời gian còn hiệu lực là trong vòng 12 tháng từ ngày lập bảng cân đối tài khoản sẽ được xem xét lại trong danh sách chỉ thị.Nó phù hợp với những ví dụ chỉ thị khác trong IFRS 6 đang tồn tại trước thời điểm có hiệu lực. Những chỉ thị này là:
Chi phí trọng yếu trong tương lai liên quan đến hoạt động thăm dò và đánh giá trong khu vực xác định không có trong ngân sách mà cũng không có trong kế hoạch.
Đơn vị không phát hiện ra khả năng sinh lời kinh tế của các tài nguyên khoáng sản khi có kết quả hoạt động thăm dò trong khu vực đó và quyết định đình chỉ hoạt động trong khu vực đó.
Mặc dù việc phát triển diễn ra một cách thích hợp, đơn vị có đầy đủ dữ liệu thể hiện lượng tài sản không chắc chắn thu hồi được đầy đủ trong giai đoạn phát triển thành công hoặc bán ra.
Những chỉ thị này dựa trên thông tin quản lí hoặc dự định và quyết định đối với khía cạnh thăm dò và có thể dễ dàng giám sát.
Việc định nghĩa các khu vực xác định được giám sát là nhân tố quan trọng thường xuất hiện trong các chỉ thị, vì vậy cần xem xét lại khả năng thu hồi vốn của E & E tài sản. Trong thực tế, để phù hợp hơn thì quá trình giám sát và quá trình thu hồi của E&E tài sản phải được tiến hành nhất quán với nhau.
Danh sách biểu hiện tổn thất không thể hiện hết mọi khía cạnh tốn thất, có thể thực tế và tình hình tài chính sẽ thể hiện rằng đơn vị nên xem xét lại tổn thất của E &E tài sản. Một vài biểu hiện khác của tổn thất, ví dụ: những bất lợi trong việc thay đổi giá cả hàng hóa, vật liệu trao đổi thương mại và giá thị trường và thay đổi của luật thuế hoặc các luật định về môi trường.
2. Đánh giá mức tổn thất:
IFRS 6 yêu cầu đơn vị xác định chính sách kế toán về việc phân bổ E & E tài sản theo CGUs hoặc theo các nhóm của CGUs với mục đích đánh giá tổn thất tài sản. IFS 6 khác với các chuẩn mực trình bày được cho phép trong ISA 36 mà áp dụng một cách “đặc biệt” UGCs cho E & E tài sản. IFRS 6 yêu cầu đơn vị phân bổ tổn thất của E & E tài sản có tiềm năng trong giai đoạn sản xuất sản phẩm theo UGCs hoặc phân đoạn và kết hợp với việc nghiên cứu khối lượng tổn thất.
Một doanh nghiệp có thể nhận định E&E tài sản với mục đích quản lí nội bộ ở mức độ thấp, ví dụ: Các mức xác đinh cấu trúc địa chất có chứa hydrôcacbon hoặc các lớp quặng kề nhau. Doanh nghiệp có thể chọn phương pháp đánh giá tổn thất dựa vào các mức này, hoặc có thể kết hợp một hoặc nhiều CGUs trong mục đích nghiên cứu của E&E tài sản bị lỗ vốn.
Tuy nhiên, tiếp tục để tổng hợp các khoản chi phí trong khu vực mà sẽ không phát triển ở UGCs, có thể mang lại kết quả trong việc có dụng ý gia tăng chi phí và tài sản khi quyết định không đầu tư vào tài sản này. Doanh nghiệp phải xem xét việc đánh giá mức độ tổn thất để tránh việc gia tăng tài sản mà nếu các tài sản này không kết hợp với tài sản khác sẽ bị tổn thất. Một chính sách tốn nhiều chi phí vốn thăm dò và đánh gía tài sản liên quan đến khu vực thăm dò, khi không có khả năng phát triển tài sản sản xuất phù hợp vớikhuyến khích xem xét các chỉ số bổ sung của suy giảm (trong đoạn 20), và do đó có thể thích hợp.
Trong khi IFRS 6 cho phép một đơn vị tập hợp CGUs để tạo thành một nhóm các đơn vị phục vụ cho mục đích nghiên cứu các tổn thất, các CGUs hoặc nhóm các đơn vị không thể có một mức độ kết hợp cao hơn các phân đoạn theo IAS 14 Báo cáo bộ phận mà CGU phụ thuộc vào đó (trên cơ sở của một trong hai thực thể của chính hay phụ đoạn báo cáo định dạng).
Yêu cầu mà mỗi CGU (hoặc nhóm các đơn vị) không được lớn hơn so với một phân đoạn, không cần được xem xét một cách tuyệt đối như là doanh thu từng thời kì hoặc tài sản. Thay vào đó, cần giải thích rằng việc nghiên cứu không thể chỉ được thực hiện ở một cấp độ mà phải sự kết hợp kết quả của quá trình E & E tài sản hoặc CGUs thuộc các phân đoạn khác nhau (hoặc kinh doanh hoặc địa lý).
Ví dụ, một thực thể mà là một người áp dụng lần đầu IFRSs có hai địa điểm thăm dò trong cùng đất nước. Dưới IFRSs, hai có hai vị trí được báo cáo trong các phân đoạn khác nhau về địa lý vì điều kiện hoạt động địa chất khác nhau có nghĩa là mỗi vị trí có những rủi ro và trở ngại khác nhau.
Việc xác định CGUs hoặc các nhóm của các đơn vị đòi hỏi phải đưa ra sự phán quyết và có thể là một trong những khó khăn nhất trong lĩnh vực thử nghiệm tài sản E & E. tương tác của nó với các chỉ số dựa trên "khu vực của cụ thể" sẽ đặt ra các yêu cầu xem xét khác nhau.
Ở Anh, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dầu khí áp dụng phương pháp thành công nỗ lực, yêu cầu phân bổ E & E tài sản để CGUs hoặc một nhóm các đơn vị khác với hiện tại thực hành đề ra trong SORP Kế toán Thăm dò, phát triển, sản xuất và hoạt động ngừng hoạt động của dầu khí. Hướng dẫn này tương tự như khái niệm về một đơn vị tạo ra thu nhập (IGU), theo đó IGU thường sẽ được liên kết với một lĩnh vực cụ thể hay một nhóm các lĩnh vực mà mức độ kinh tế phụ thuộc lẫn nhau. Tuy nhiên, như một kết quả giới hạn dựa vào IAS 14, một doanh nghiệp nên xem xét tổng quan lại chi phí hiện hữu lãi gộp, như kết hợp một số hoạt động hiện tại không tuân thủ theo IAS 14 bị giới hạn bởi việc kết hợp các hoạt động trong một giai đoạn đơn. Điều này đặc biệt liên quan đối với các đơn vị áp dụng toàn bộ phương pháp tính chi phí.
3. Đánh giá giá trị thu hồi:
3.1. Giá trị sử dụng:
Trong ước tính giá trị sử dụng, các ước tính của các luồng tiền mặt và sự vận động của các dòng tiền trong tương lai được xuất phát từ việc sử dụng liên tục của tài sản, bằng cách sử dụng các giả định hợp lý, việc thiết lập quản lý các ước tính tốt nhất về điều kiện kinh tế sẽ tồn tại trên phần còn lại giá trị sử dụng của tài sản.
Lưu lượng tiền mặt dự đoán dựa trên ngân sách được nhà quản lí phê duyệt không vượt quá năm năm. Một thời gian dài hơn dự đoán có thể được sử dụng nếu quản lý tin tưởng rằng các luồng tiền là đáng tin cậy.
Đối với hầu hết các hoạt động khai khoáng, ngân sách chi tiết được chuẩn bị bao gồm một khoảng thời gian đáng kể không quá năm năm, thông thường thiết lập các ước tính có thể là 20 năm hoặc hơn. Theo đó, khi chúng được coi là đáng tin cậy, dự báo lưu lượng tiền mặt có thể dựa trên những lâu hơn ngân sách giai đoạn.
3.2. Chi phí vốn trong tương lai:
Khi đánh giá tổn thất theo IAS 36, các luồng tiền trong tương lai sẽ được ước tính cho tài sản trong điều ki
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- IFRS6 thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản.doc