Mục Lục
Lời mở đầu 1
CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA KẾ HOẠCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU 2
I. Vai trò của KH 5 năm trong hệ thống KHH: 2
1. Công tác dự báo: 2
1.1. Khái niệm: 2
1.2.Chức năng 2
2. Chiến lược phát triển 3
2.1. Khái niệm 3
2.2. Chức năng 3
3. Quy hoạch phát triển 4
3.1.Khái niệm 4
3.2.Chức năng 4
4. Chương trình dự án phát triển kinh tế-xã hội 4
4.1.Khái niệm 4
4.2.Chức năng 5
5. Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội 5
5.1.Vị trí trung tâm của KH 5 năm 5
5.2. Phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm 6
II. Sự cần thiết phải thực hiện kế hoạch 5 năm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 7
1. Nhiệm vụ của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 7
1.1.Cơ cấu kinh tế 7
1.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 8
1.3. Nhiệm vụ của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 9
2. Nội dung kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 10
2.1. Xác định cơ cấu kinh tế 10
2.2. Các yếu tố tác động đến cơ cấu ngành 11
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM 2001-2005 VỀ CHUYỂN CHỊCH CƠ CẤU KINH TẾ 13
I. Mục tiêu của kế hoạch đề ra 2001-2005 về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 13
1.Mục tiêu chung 13
2. Các chỉ tiêu về chuyển dịch cơ cấu ngành 13
2.1. Chỉ tiêu về tốc độ tăng trưởng các ngành 13
2.2. Chỉ tiêu về thay đổi tỉ trọng của các ngành trong GDP 13
3. Những yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 14
3.1. Công nghệ 14
3.2. Cơ cấu đầu tư 14
3.3. Xu hướng chung của các nước trên thế giới 14
3.4. Chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước 15
II. Đánh giá thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005 về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 16
1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2005 16
1.1Những thành tựu 16
1.2Hạn chế 17
2. Đánh giá chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2005 19
2.1. Tốc độ tăng trưởng các ngành 19
2.2. Thay đổi tỷ trọng các ngành trong GDP 20
2.3. So sánh quốc tế về cơ cấu nền kinh tế 21
CHƯƠNG III: KẾ HOẠCH VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KẾ HOẠCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 2006-2010 22
I. Quan điểm và nội dung chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2006-2010 22
1. Quan điểm cơ bản chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 22
1.1.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn liền với tiến trình hộp nhập quốc tế 22
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên hiệu quả và lợi ích của toàn bộ nền kinh tế quốc dân 22
1.3. Chuyển dịch cơ cấu ngành phải tiến hành từng bước với sự nỗ lực đồng bộ của các ngành các cấp và người lao động 23
1.4 Chuyển dịch cơ cấu ngành cần kết hợp với cơ cấu thành phần và cơ cấu vùng-lãnh thổ. 23
2. Nội dung chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2006-2010 24
2.1 Mục tiêu chung 24
2.2. Các chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành thời kỳ 2006-2010 24
II. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam thời kỳ 2006-2010 24
Tài liệu tham khảo 29
31 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2187 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành và phân bố dân cư trên lãnh thổ để phát triển tổng hợp hay ưu tiên một vài ngành kinh tế nào đó. Việc chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ phải đảm bảo sự hình thành và phát triển có hiệu quả của các ngành kinh tế trên lãnh thổ và trên pham vi cả nước.
Cơ cấu thành phần kinh tế biểu hiện hệ thống tổ chức kinh tế với các chế độ sở hữu khác nhau có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội. Cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu vùng, lãnh thổ trong quá trình phát triển.
Ba loại hình cơ cấu trên đặc trưng cho cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quôc dân. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cơ cấu ngành kinh tế có vai trò quan trọng hơn cả. Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể được hình thành và phát triển trên pham vi vùng lãnh thổ và trên phạm vi cả nước. Đồng thời, việc phân bổ sản xuất trên pham vi vùng lãnh thổ một cách hợp lý có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển các ngành và các thành phần kinh tế trên vùng lãnh thổ.
1.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế lại có thể xét thấy trên nhiều góc độ. Với việc xem xét các các yếu tố đầu vào là cơ cấu lao động, cơ cấu kỹ thuật. Thông thường cơ cấu đầu ra tính theo giá trị sản xuất được sử dụng để phản ánh cơ cấu ngành. Sự chuyển dịch cơ cấu này mang tính quy luật, đó là khi thu nhập đầu người tăng lên thì tỷ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm sẽ giảm xuống, còn tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn tỷ trọng của công nghiệp.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành đã được hai nhà kinh tế học là E. Engel và A. Fisher ngiên cứu khi đề cập đến sự thay đổi về nhu cầu chỉ tiêu và sự thay đổi cơ cấu lao động. Ngay từ cuối thế kỷ 19, E. Engel đã nhận thấy rằng, khi thu nhập các gia đình tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho lương thực, thực phẩm giảm đi nên tất yếu dẫn đến tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên. Quy luật E.Engel được nghiên cứu cho sự tiêu dùng lương thực, thực phẩm, nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu tiêu dùng cho các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm là sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và việc cung cấp dịch vụ là hàng tiêu dùng cao cấp. Thực tế phát triển của các nước đã chỉ ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tốc độ tăng thu nhập, còn chi tiêu cho hàng tiêu dùng cao cấp có tốc độ tăng nhanh hơn.
Cùng với quy luật tiêu thụ sản phẩm E.Engel, quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher cũng làm rõ xu hướng chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế qua việc phân bố lao động. Trong quá trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và các phương thức canh tác mới đã tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động. Kết quả là, để đảm bảo lương thực, thực phẩm cho xã hội sẽ không cần đến lực lượng lao động như cũ, có nghĩa là tỉ lệ lao động trong nông nghiệp sẽ giảm đi. Ngược lại, tỉ lệ lao động thu hút vào công nghiệp sẽ ngày càng tăng do tính co giãn về nhu cầu sản phẩm của hai khu vực và khả năng hạn chế hơn trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật để thay thế lao động, đặc biệt là hoạt động dịch vụ.
1.3. Nhiệm vụ của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Mặc dù xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành là mang tính quy luật, nhưng trong thực tế không có một mô hình chuyển dịch chung cho tất cả các nước. Trong công tác kế hoạch những vấn đề thường phải đặt ra như cần ưu tiên cho nông nghiệp đến mức độ nào đó so với công nghiệp trong thời kỳ đầu phát triển, các mối liên kết kinh tế được phát huy thế nào qua các thời kỳ. Do đó, nhiệm vụ đặt ra cho kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là:
Xác định các điều kiện, yếu tố và các quan điểm chi phối sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây chính là cơ sở để đưa ra các hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nó bao hàm các vấn đề kinh tế-xã hội, khoa học, công nghệ, các mối quan hệ kinh tế quốc tế và các nguồn lực của đất nước.
Xác định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cụ thể hoá bằng các quan hệ tỉ lệ giữa các ngành sao cho đảm bảo phù hợp với xu thế biến đổi chung và phản ánh được đặc điểm của nền kinh tế trong những điều kiện cụ thể.
Xác định hướng huy động và sử dụng các yếu tố đầu vào đặc biệt là cơ cấu vốn đầu tư và cơ cấu lao động nhằm đảm bảo cơ cấu đầu ra theo hướng đã định.
Đề xuất các chính sách, biện pháp kinh tế-xã hội cần thiết để hướng dẫn hoạt động nền kinh tế sao cho đáp ứng được các yêu cầu của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
2. Nội dung kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
2.1. Xác định cơ cấu kinh tế
Để xác định cơ cấu ngành trong kỳ kế hoạch, phương pháp được sử dụng phổ biến là dựa vào mô hình Vào-Ra. Mô hình này nghiên cứu những mối liên hệ tỉ lệ cân đối đặc trưng cho việc phân phối sản phẩm giữa các ngành và mối quan hệ giữa khối lượng sản phẩm và chi phí để sản xuất ra những sản phẩm này.
Việc phân phối sản phẩm trong nền kinh tế được đặc trưng bằng quan hệ tỉ lệ:
Xi = Xi1 +Xi2 +...+Xin + Yi (i = 1,2,...,n) (1)
trong đó:
Xi: tổng sản phẩm của ngành i
Xij: khối lượng sản phẩm ngành i tiêu dùng cho sản phẩm ngành j với tư cách là chi phí trung gian.
Yi: khối lượng sản phẩm cuối cùng của ngành i.
Tổng số ij phản ánh khối lượng sản phẩm ngành i sẽ tiếp tục chế biến trong các ngành sản xuất, lượng sản phẩm này được gọi là sản phẩm trung gian. Sản phẩm cuối cùng (Yi) là những sản phẩm được đưa ra khỏi sản xuất hàng năm được dùng để bù đắp hao mòn, sử dụng cho tiêu dùng, tích luỹ và khối lượng chênh lệch xuất-nhập khẩu.
Khi xây dựng mô hình Vào-Ra người ta thường giả thiết rằng khối lượng sản phẩm của ngành i tiêu dùng cho ngành j tỉ lệ thuận với khối lượng sản phẩm của ngành j:
Xị = aij Xj (i,j = 1,2,...,n) (2)
trong đó aij là hao phí trực tiếp sản phẩm ngành i để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm ngành j - được gọi là hệ số hao phí trực tiếp. Hợp nhất phương trình (1) và (2) sẽ có:
Xi = aij Xj + Yi (i=1,2,...,n)
Như vậy, để xác định cơ cấu ngành của nền kinh tế người ta thường dựa vào kế hoạch của sản phẩm cuối cùng của các ngành với hệ số hao phí trực tiếp phù hợp với trình độ kỹ thuật của từng ngành.
2.2. Các yếu tố tác động đến cơ cấu ngành
Sự hình thành cơ cấu ngành thực chất là kết quả của việc phân phối các yếu tố đầu vào và cách thức tổ chức sản xuất. Nói chung, trong mỗi ngành càng có nhiều vốn, nhiều lao động, kỹ thuật tiên tiến, tổ chức sản xuất ngày càng khoa học thì năng lực sản xuất ngày càng tăng. Do vậy, cơ cấu ngành cũng là mô hình phân bố các yếu tố sản xuất các ngành. Nó vừa là sự phân phối tài nguyên, lao động, vừa là sự phân phối máy móc, thiết bị, các yếu tố trung gian và kỹ thuật. Trong mô hình trên, hệ số chi phí trực tiếp aij phản ánh hao phí sản phẩm cần thiết của ngành i để trực tiếp sản xuất ra một đơn vị sản phẩm ngành j.
Trong thời kỳ kế hoạch, hệ số này phụ thuộc trình độ công nghệ sản xuất, cho nên cũng được gọi là hệ số kỹ thuật. Để xem xét sự tác động của hệ số kỹ thuật đối với cơ cấu ngành chúng ta giả đình rằng cơ cấu các yếu tố trung gian đầu vào không thay đổi. Trong điều kiện đó, nếu tình hình kỹ thuật của các ngành công nghiệp không thay đổi, hoặc thay đổi theo cùng một hướng, với cùng một tỉ lệ tốc độ thì hệ số hiệu suất đầu ra của các yếu tố đầu vào giữa các ngành cũng không thay đổi. Nếu kỹ thuật của một số ngành thay đổi, còn ở những ngành khác vẫn như cũ, hoặc tốc độ thay đổi, còn ở những ngành khác vẫn như cũ, hoặc tốc độ thay đổi kỹ thuật của các ngành không giống nhau thì hế số hiệu suất đầu ra của các ngành cũng thay đổi. Xét trong thời ngắn hạn, có thể có trường hợp thứ nhất, nhưng trong dài hạn thì chỉ có thể xảy ra trong trường hợp sau:
Như vậy tiến bộ kỹ thuật là yếu tố thúc đẩy hệ số kỹ thuật thay đổi và sự thay đổi này lại là yếu tố quyết định thay đổi cơ cấu ngành được thể hiện ở chỗ: Tiến bộ kỹ thuật thúc đẩy ngành mới ra đời. Tiến bộ kỹ thuật, nâng cao sức mạnh cạnh tranh quốc tế của sản phẩm, thúc đẩy việc hợp lý cơ cấu ngành. Trong trường hợp hệ số kỹ thuật của các ngành không thay đổi, nếu thay đổi cơ cấu tài sản cố định và tỉ lệ các yếu tố trung gian đầu vào thì năng lực sản xuất của tài sản cố định gia tăng và theo đó gia tăng các sản phẩm trung gian thì các ngành này cũng sẽ gia tăng sản phẩm đầu ra. Sự thay đổi cơ cấu tài sản cố định và các yếu tố trung gian đầu vào chính là kết quả của sự thay đổi cơ cấu đầu tư. Cơ cấu đầu tư là tỉ lệ phân phối vốn đầu tư vào các ngành khác nhau. Do đó, có thể nói cơ cấu đầu tư là yếu tố quyết định đối với cơ cấu ngành.
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM 2001-2005 VỀ CHUYỂN CHỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
I. Mục tiêu của kế hoạch đề ra 2001-2005 về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1.Mục tiêu chung
Đại hội Đảng lần thứ IX đã đặt ra mức phấn đấu cao trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 là: “Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững: ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công ngiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo việc làm, cơ bản xoá đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội; hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia”.
2. Các chỉ tiêu về chuyển dịch cơ cấu ngành
2.1. Chỉ tiêu về tốc độ tăng trưởng các ngành
Tổng GDP năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995. Nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 7.5%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,0-4.3%, công nghiệp và xây dựng tăng 10.4%-10.8%, dịch vụ tăng 6.2%-6.8%. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4.8%/năm; giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 13%/năm; giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 7.5%. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm.
2.2. Chỉ tiêu về thay đổi tỉ trọng của các ngành trong GDP
Đến năm 2005:
-Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP khoảng 20-21%
-Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP khoảng 38-39%
-Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP khoảng 41-42%
3. Những yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
3.1. Công nghệ
Công nghệ là yếu tố thúc đẩy hệ số kỹ thuật thay đổi và sự thay đổi này lại là yếu tố quyết định thay đổi cơ cấu ngành. Thực tế cho ta thấy sự tác động của tiến bộ kỹ thuật đến cơ cấu ngành được thể hiện ở chỗ: Tiến bộ kỹ thuật làm nâng cao năng suất lao động, tác động đến cơ cấu lao động và tiến bộ kỹ thuật, nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của sản phẩm, thúc đẩy việc hợp lý cơ cấu ngành. Trong trường hợp hệ số kỹ thuật của các ngành không thay đổi, nếu năng lực sản xuất của tài sản cố định gia tăng và theo đó gia tăng các sản phẩm trung gian thì các ngành này cũng sẽ tăng sản phẩm đầu ra.
3.2. Cơ cấu đầu tư
Cơ cấu đầu tư là tỉ lệ phân phối vốn đầu tư vào các ngành khác nhau. Vì thế, xác định tỷ lệ, cơ cấu vốn đầu tư theo ngành, theo các lĩnh vực, đối tượng, khu vực đầu tư là một công việc rất quan trọng bởi vì điều đó đặt ra mối quan hệ chặt chẽ giữa kế hoạch vốn đầu tư với các kế hoạch về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các đặc trưng đầu tư của từng ngành, vùng, các thành phần kinh tế. Do đó, có thể nói cơ cấu đầu tư là yếu tố quyết định đối với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
3.3. Xu hướng chung của các nước trên thế giới
Xu hướng chuyển mạnh sang các ngành kinh tế tri thức, các ngành công nghiệp cao sẽ làm giảm lợi thế cạnh tranh của các nguồn tài nguyên và lao động ở nước ta.
Sự chuyển đổi và giao lưu công nghệ quốc tế sẽ tạo ra các điều kiện thuận lợi để nước ta có thể lựa chọn và tiếp nhận các công nghệ thích hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, phát triển những ngành và sản phẩm mới có triển vọng và phù hợp với trình độ phát triển và lợi thế so sánh của nước ta.
Cạnh tranh quốc tế sẽ quyết liệt hơn về mặt mở rộng thị trường cũng như tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài. Do vậy, nước ta phải đẩy mạnh đổi mới và chủ động hộp nhập hơn nữa nhằm phát huy nội lực và tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài. Mặt khác, xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá phát triển nhanh chóng và tác động mạnh mẽ đến kinh tế nước ta. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, không một quốc gia nào có thể đứng ngoài cuộc chơi này được. Cốt lõi của vấn đề là trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích dân tộc, chủ động hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, khai thác tối đa mặt tích cực và hạn chế tối đa mặt hạn chế tối thiểu của mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá đối với đất nước, để thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của từng giai đoạn.
Rõ ràng là bối cảnh quốc tế tạo cho nước ta nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế là phải vượt qua các thách thức đó, tranh thủ được các cơ hội để tạo lập một cơ cấu kinh tế mới phù hợp, tiến bộ và hiệu quả hơn.
3.4. Chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu, trước mắt có ngành cần bảo hộ. Nhưng việc bảo hộ phải bảo đảm nguyên tắc. Bảo hộ có thợi hạn, có điều kiện, có định hướng,; Cần yêu cầu các ngành hàng, các doanh nghiệp được bảo hộ phải có chương trình, biện pháp cụ thể để từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh và có thể đứng vững trên thị trường khi chấm dứt bảo hộ. Nhà nước giữ vai trò là người điều hoà các nguồn lợi có được trong quá trình hội nhập để có những hỗ trợ cần thiết cho các ngành, các doanh nghiệp phải điều chỉnh cơ cấu. Ngày nay, với xu thế toàn cầu hoá, tăng cường hợp tác quốc tế thì sự can thiệp của Nhà nước là rất cần thiết để chuyển dịch cơ cấu kinh tế đi theo đúng quỹ đạo mà Đảng và Nhà nước đã vạch ra. Đó là: Chủ động hội nhập quốc tế phải đặt trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi ích dân tộc, bản sắc văn hoá và định hướng xã hội chủ nghĩa., không bỏ lỡ thời cơ song phải chủ động về lộ trình, khắc phục các mặt bất lợi. Do vây, các chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước cần phải có tác động tích cực, hỗ trợ và giúp cho quá trình chuyển dịch cơ cấu nghành kinh tế diễn ra nhanh hơn, hiệu quả hơn đạt được mục tiêu đã đề ra.
II. Đánh giá thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005 về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2005
1.1Những thành tựu
Tỷ trọng nông, lâm và thuỷ sản giảm xuống khoảng 20.5% năm 2005. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng lên khoảng 41% năm 2005. Tỷ trọng các ngành dịch vụ khoảng 38.5% trong giai đoạn 2001-2005, tốc độ tăng trưởng còn thấp. Tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp tăng lên, tạo ra sự thay đổi đáng kể cơ cấu kinh tế. Bước đầu đã hình thành mốt số ngành, lĩnh vực, sản phẩm quan trọng tạo động lực cho phát triển như: công nghiệp dầu khí, luyện thép, xi măng, cơ khí đóng tàu, lắp ráp ô tô xe máy...
Sự nỗ lực cao của các ngành và các chủ thể kinh tế trong việc vượt qua những trở ngại thách thức, mở rộng quy mô sản xuất đáp ứng yêu cầu thị trường trong và ngoài nước. Điều này được thể hiện rất rõ trong sự phát triển nông nghiệp (vượt qua khó khăn của thiên tai và dịch bệnh) và của nhiều ngành công nghiệp (vượt qua thách thức của “cơn bão giá nguyên liệu” và cạnh tranh quốc tế).
Sự chuyển dịch cơ cấu nội tại các ngành kinh tế thể hiện rõ nét hơn động thái chuyển từ khai thác những yếu tố sẵn có sang sản xuất hàng hoá theo yêu cầu của thị trường; tính định hướng thị trường của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế biểu hiện ngày càng rõ hơn không chỉ với sản xuất công nghiệp mà còn cả với nhiều ngành sản xuất nông ngiệp. Sự tăng lên đột biến của một số ngành nông nghiệp (chẳng hạn đồ gỗ, đóng tàu...) thể hiện sự năng động trong việc nắm bắt cơ hội do thị trường mang lại...
Các ngành dịch vụ truyền thống như thương nghiệp, vận tải, bưu chính viễn thông, khách sạn, nhà hàng phát triển khá. Đặc biệt một số ngành có chi phí trung gian thấp như ngân hàng, bảo hiểm... đã phát triển khá nhanh, góp phần làm cho giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ tăng cao và làm cho cơ cấu các lĩnh vực dịch vụ trong gía trị tăng thêm của ngành dịch vụ đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng của ngành dịch vụ có chất lượng cao.
Trong động thái chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế sự tác động trực tiếp của Nhà nước đang chuyển dần sang sự tác động qua vai trò định hướng, qua các cơ chế chính sách khuyến khích và hỗ trợ; sự tác động của thị trường đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ngày càng tăng lên... Nói cách khác, việc sử dụng các quan hệ thị trường trong điều kiện sản xuất và phân bổ các nguồn lực đã có những chuyển biến nhất định.
1.2Hạn chế
Tỷ trọng dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế, về cơ bản chưa có sự chuyển biến đáng kể. Ở nước ta, nhiều năm gần đây phát triển của khu vực dịch vụ hầu như chưa đạt được mục tiêu đề ra. Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đề ra mục tiêu đến năm 2005 tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong GDP phải đạt 41-42% và đến năm 2010 phải đạt 42-43%. So với các nước trong khu vực đây không phải là mục tiêu cao, nếu không nói là thấp, nhưng sau khi đạt mức cao nhất (đạt 44.06% vào năm 1995) tỷ trọng khu vực này trong GDP liên tục bị giảm sút: năm 1996 còn 42.51%, năm 2001 còn 38.63%, năm 2002 còn 38.46% và năm 2003 chỉ còn 38.22%. Tốc độ tăng GDP do khu vực dịch vụ tạo ra cũng liên tục bị sút giảm và thường xuyên thấp hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế: năm 2002 là 6.54% so với 7,08% , năm 2003 là 6.57% so với 7.26%. Điều đó chứng tỏ dịch vụ chưa thực sự là một động lực quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ quan trọng vẫn chiếm tỷ lệ thấp và đang có xu hướng giảm dần: tài chính ngân hàng năm 1995 chiếm 2.01% thì đến năm 2003 chỉ còn 1.08% ... Nhiều loại dịch vụ như nhà khách, bảo vệ, vệ sinh tạp vụ, kế toán, y tế... hiện đang được các cơ quan, đơn vị kiêm nhiệm, chưa được tách ra để các đơn vị khác kinh doanh tập trung, nên một mặt đã làm hạn chế đến việc tập trung vào nhiệm vụ chính, mặt khác dẫn đến hiệu quả hoạt động của các hoạt động kiêm nhiệm này còn thấp.
Tính tự phát của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn khá đậm nét, điển hình là trong sản xuất nông nghiệp. Trong điều kiện quyền tự chủ của các hộ nông dân được đề cao, họ có quyền chủ động được sử dụng ruộng đất được giao vào mục đích kinh doanh, nhưng năng lực thị trường lại hết sức hạn chế nên dễ bị sự điều tiết tự phát của thị trường và do đó gặp rủi ro trong quá trình kinh doanh trên thị trường. Việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt nuôi tôm rộng rãi ỡ nhiều vùng, phát triển cá bè ở đồng bằng sông Cửu Long... là ví dụ điển hình. Khó khăn về thị trường tiêu thụ, tình trạng được mùa rớt giá... có nguyên nhân từ chính người nông dân và hiệu quả công tác định hướng của Nhà nước trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tính kém hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và cơ cấu nội tại từng ngành kinh tế. Trong công nghiệp, công nghiệp khai thác tài nguyên (than và dầu khí) , công nghiệp gia công cho nước ngoài (giày dép, dệt may, điện tử) chiếm tỷ trọng cao đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nước ngoài (dệt may, da giầy, đồ gỗ, đồ nhựa...). Trong nông nghiệp, chăn nuôi còn chiếm tỷ trọng khá khiêm tốn trong gía trị sản xuất của ngành (trong nhiều năm chưa vượt ngưỡng 21% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp và ở nhiều vùng chưa thoát khỏi địa vị ngành sản xuất phụ). Trong dịch vụ, chủ yếu mới chỉ tập trung vào những dịch vụ phổ thông (thương mại, dich vụ) thiếu vắng hoặc phát triển ở trình độ thấp những dịch vụ cao cấp và những dịch vụ thiết yếu của thị trường.
Chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra hết sức chậm chạp, trong khi cơ cấu kinh tế lại có những động thái tích cức thì cơ cấu lao động lại chưa có sự chuyển biến rõ nét: lao đông nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế, nhưng Việt Nam chưa thoát khỏi trạng thái của một nước nông nghiệp. Tuy năm 2004 đã giải quyết việc làm cho hơn 1.5 triệu lao động, nhưng định hướng giải quyết việc làm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá vẫn còn hết sức bế tắc. Nói cách khác, lao động và việc làm vẫn là một “nút thắt” cản trở quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi những giải pháp đồng bộ từ nhiều phía, trong đó nâng cao chất lượng toàn diện cho đội ngũ lao động được coi là biện pháp then chốt nhất. Song trên thực tế , công tác giáo dục và đào tạo lại có quá nhiều vấn đề quá bức xúc chưa được giải quyết.
2. Đánh giá chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2005
2.1. Tốc độ tăng trưởng các ngành
Trong nông nghiệp, các phương thức canh tác tiên tiến chậm được áp dụng trên diện rộng. Năng suất nhiều cây trồng, vật nuôi và chất lượng sản phẩm nông nghiệp còn thấp, còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và nông thôn còn chậm, nhiều nơi mang tính tự phát, chưa bền vững. Công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn chưa được triển khai một cách bài bản. Nhiều sản phẩm chủ yếu của nông nghiệp chưa được xây dựng được thương hiệu nên hiệu quả kinh tế còn thấp. Mặc dù giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản, tăng cao và vượt mục tiêu đề ra nhưng chi phí sản xuất cao, nên giá trị tăng thêm của toàn ngành không đạt mục tiêu, chỉ tăng 3.6% so với mục tiêu đề ra là 4-4.3%.
Cơ sở hạ tầng nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Vấn đề việc làm ở nông thôn vẫn còn nhiều bức xúc. Tình trạng ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước, nhất là các làng nghề chưa được giải quyết. Hình thức sản xuất theo hợp đồng tiêu thụ sản phẩm chưa được áp dụng rộng rãi, dịch vụ cung cấp đầu vào, đầu ra của sản xuất chưa được tổ chưc tốt.
Sản xuất công nghiệp tuy có tốc độ tăng trưởng cao nhưng chất lượng và hiệu quả toàn ngành chưa được cải thiện. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp 5 năm 2001-2005 tăng bình quân 15.7%/năm, nhưng giá trị tăng chưa tương xứng (bình quân 5 năm chỉ tăng 10.3%/năm). Ngành công nghiệp chế tác đóng góp vào tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp, khoảng 50-60%, nhưng lại là ngành có chi phí nguyên vật liệu cao nên giá trị gia tăng thấp, đặc biệt là các ngành công nghiệp gia công như: may mặc, da giày, chế biến gỗ xuất khẩu … có giá trị sản xuất cao, nhưng phần lớn chi phí lại là vật tư nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Hàm lượng quốc gia trong sản phẩm thấp.
Tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ tuy đạt mục tiêu kế hoạch, nhưng còn thấp so với tiềm năng; chất lượng và hiệu quả hoạt động dịch vụ chưa cao; nhiều loại phí dịch vụ còn bất hợp lý và cao hơn nhiều nước trong khu vực. Năng lực tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp còn yếu. Các ngành dịch vụ có giá trị tăng thêm cao như dịch vụ tài chính, tiền tệ, dịch vụ giao dịch bất động sản… gần đây có chuyển biến, nhưng nhìn chung phát triển chậm. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ còn yếu thể hiện ở việc giá thành cao và chất lượng dịch vụ thấp. Năng lực tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp còn yếu kém.
2.2. Thay đổi tỷ trọng các ngành trong GDP
Xét theo 3 khu vực lớn là nông, lâm nghiệp-thuỷ sản, công nghiệp-xây dựng và dịch vụ, thì cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng: Tỷ trọng của khu vực nông, lâm-ngư nghiệp đã giảm nhanh, còn tỷ trọng của khu vực công nghiệp-xây dưng đã tăng nhanh.
Tỷ trọng của khu vực nông, lâm nghiệp-thuỷ sản đã giảm từ 38.74% năm 1990 xuống 22.54% năm 2003 và xuống còn 21.76% năm 2004, tức là giảm gần 17% trong 15 năm, hay giảm trên 1.1%/năm. Riêng tỷ trọng nông, lâm nghiệp-thuỷ sản trong GDP đã giảm mạnh, chỉ còn 20.5% vượt so với mục tiêu đề ra cho năm 2005 (giảm xuống còn 20-21%)
Tỷ trọng khu vực công nghiệp-xây dựng đã tăng nhanh từ 22.67% năm 1990 lên 39.46% năm 2003 và lên 40.09% năm 2004. Đến năm 2005 tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng lên đạt 41% vượt so với kế hoạch đặt ra (năm 2005 đạt 38-39%).
Tỷ trọng khu vực dịch vụ đạt đỉnh cao nhất vào năm 1995 là 44.0%, nhưng đã giảm 8 năm liền: năm 2003 chỉ còn 38% và đến năm 2005 vẫn chỉ đạt 38.5% không đạt được mục tiêu đề ra.
2.3. So sánh quốc tế về cơ cấu nền kinh tế
Đ ơn v ị: %
Tên nước
Cơ cấu kinh tế
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
Việt Nam
23.0
39.0
38.0
Trung Quốc
15.0
53.0
32.0
Philippine
14.0
32.5
53.0
Inđônêxia
17.0
44.0
40.0
Malaixia
9.0
49.0
42.0
Thái Lan
9.0
41.0
50.0
Hàn Quốc
3.0
35.0
62.0
Xingapo
0.0
35.0
65.0
Nguồn số liệu: Báo cáo phát triển thế giới năm 2005 của Ngân hàng thế giới, ESCAP
Nếu lấy cơ cấu nền kinh tế làm thước đo cho trình độ phát triển , thì cơ cấu kinh tế của Việt Nam năm 2003 chỉ tương đương với cơ cấu kinh tế của những nước trong khu vực vào những năm 80 của thế kỷ trước.Tìm hiểu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước trong khu vực cho thấy, họ rất coi trọng phát triển dịch vụ và tìm cách nâng cao tỉ trọng của khu vực này trong GDP.
CHƯƠNG III: KẾ HOẠCH VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KẾ HOẠCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU N
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2006-2010.DOC