Có thể nói rào cản lớn nhất đối với người lao động Việt Nam đó là trình độ lao động. người đi xuất khẩu lao động thường là những người nông dân nghéo, trình độ văn hóa thấp, tay nghề chuyên môn không có. Do đó, họ chỉ có thể tìm được các công việc phổ thông, với mức lương thấp và điều kiện làm việc vất vả. trong khi đó, lao động VN rất khó tiếp cận các thị trường lao động thu nhập cao như Mỹ, Canada, Ôxtrâylia, Ba Lan
Rào cản thứ hai khi làm việc tại nước ngoài nói chungn và Malaysia nói riêng đó là khả năng ngoại ngữ. Người lao động trình độ đã thấp, lại không thể giao tiếp được với chủ của mình, do đó bị thiệt thòi về nhiều mặt.
Mặt khác, chi phí để đi xuất khẩu lao động là quá cao so với khả năng của những người dân nghèo muốn đi tìm một vùng đất mới. Để đi làm việc tại Nhật Bản phải tốn khoảng 2.000 USD và khoảng 6.000-10.000 USD đặt cọc. Đi Hàn Quốc chi phí từ 6.000-7.500 USD. Làm công nhân tại Đài Loan nếu như năm 2002 chỉ tốn khoảng 1.500 USD, thì nay đã lên đến 4.800- 5.600 USD. Ngay cả thị trường Malaysia, mỗi LĐ cũng phải chi khoảng 17 triệu đồng.
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3046 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Khóa luận Xuất khẩu lao động Việt Nam sang thị trường Malaysia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ượng xuất khẩu lao động đang sút giảm rõ rệt từng tháng một. Đầu năm nay cả nước đưa được gần 13.000 người đi nước ngoài làm việc, thì qua tháng 2 số lao động xuất khẩu hạ xuống còn 5.300, đến tháng 3 vừa qua, chỉ còn 3.700 lên đường xuất ngoại. Một số thị trường quốc tế lâu nay tiếp nhận lao động Việt Nam , nay quyết định ngưng nhận thêm người nước ngoài để bảo vệ công ăn việc làm cho người bản xứ như Malaysia hay cộng hòa Czek. Bi kịch hơn nữa đó là những người xuất khẩu lao động chủ yếu là người nông dân nghèo, để có tiền đặt cọc cho các công ty để được đi nước ngoài họ phải cầm cố, bán đất, vay lãi. Thế nhưng khi đã sang nước ngoài, lại bị trả về nước, bị hủy hợp đồng do công ty cắt giảm nhân công hoặc vi phạm kỉ luật lao động. Như vậy, toàn bộ thiệt hại người lao động phải gánh chịu và hầu như chưa có một tổ chức cũng như bộ luật hoàn chỉnh nào để bảo vệ quyền lợi của họ.
Ø Bên cạnh đó, việc xuất khẩu lao động nước ta gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ các nước xuất khẩu lao động trong khu vực, trong khi chất lượng lao động xuất khẩu của ta còn nhiều hạn chế, thể hiện ở khả năng ngoại ngữ, ý thức chấp hành kỷ luật lao động yếu; tình trạng lao động tự ý bỏ hợp đồng ra ngoài làm việc, cư trú bất hợp pháp ngày một gia tăng ở một số thị trường trọng điểm, ảnh hưởng xấu đến việc giữ vững và phát triển thị trường, thậm chí dẫn đến nguy cơ mất thị trường.
Ø Một hạn chế nữa đó là thiếu biện pháp thẩm tra chặt chẽ thực lực của các đơn vị xin cấp phép xuất khẩu lao động, chưa chú trọng quản lý hoạt động của các doanh nghiệp đã được cấp phép và thẩm định các hợp đồng cung ứng lao động do các doanh nghiệp đăng ký. Số liệu của Cục quản lý lao động ngoài nước cho thấy trong số 164 doanh nghiệp được cấp phép hoạt động xuất khẩu lao động, chỉ có 30% số doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Nhiều doanh nghiệp chủ yếu tìm hợp đồng thông qua lực lượng môi giới, thiếu trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động ở nước ngoài, giá dịch vụ thiếu minh bạch. Về phía người lao động, do ít tìm hiểu pháp luật, lại thêm tâm lý cần việc làm chi phối, nên dễ bị nhà môi giới lợi dụng.
2.5. Tình hình xuất khẩu lao động sang Malaysia và một số nước khác
2.5.1. Malaysia
Malaysia là nước nhập khẩu lao động hàng đầu châu Á với hơn 2 triệu lao động nước ngoài, chủ yếu đến từ Indonesia, Ấn Độ, Sri Lanka, Bangladesh và Việt Nam, chiếm 20% lực lượng lao động nước này.
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu lao động sang Malaysia từ nằm 2003, tính đến nay đã có hơn 100.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại Malaysia. Thị trường Malaysia là một thị trường dễ tính, cần nhiều lao động phổ thông, không cần tay nghề cao. Các ngành chủ yếu là điện, điện tử, dệt may, dịch vụ…
Vì là thị trường dễ tính, không đòi hỏi tay nghề nên thu nhập của người lao động cũng không cao, trung bình từ 3-7 triệu đồng/tháng trong điều kiện làm việc hết sức vất vả.
Thời gian gần đây xảy ra nhiều vụ việc không hay cho người lao động tại Malaysia như xô xát với chủ, lao động bị trả về trước thời hạn do bị sa thải, lao động quá vất vả….
Đầu năm 2009, do khủng hoảng kinh tế, các doanh nghiệp Malaysia sa thải hàng loạt công nhân, đồng thời chính phủ ban hành lệnh cấm tuyển lao động nước ngoài để ưu tiên việc làm cho người dân trong nước. Điều này khiến không ít doanh nghiệp XKLĐ Việt nam sang Malaysia lao đao. Tuy nhiên vào những tháng cuối năm, thị trường này đã ấm trở lại. Rất nhiều nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất, dịch vụ có nhu cầu tuyển dụng lao động nước ngoài nói chung và lao động Việt Nam nói riêng đến làm việc. Số liệu thống kê của cơ quan này cho biết, nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài đang gia tăng ở hầu hết các ngành nghề tại Malaysia. Hiện có khoảng 28.000 chỗ làm đang chờ lực lượng lao động nước ngoài. Đây vẫn là thị trường lớn của lao động xuất khẩu Việt Nam.
2.5.2. Một số thị trường châu Á khác
Thị trường trọng điểm của xuất khẩu lao động Việt nam ngoài Malaysia còn có Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Đông.
Ø Đài Loan
Đài Loan là nơi tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam với khoảng 30.000 người, theo số liệu của Bộ LĐ–TB&XH. Tuy nhiên, thị trường này thời gian gần đây đã cắt giảm đến 70% nhu cầu tiếp nhận lao động. Không chỉ vậy, đến giờ đã có khoảng 1.500 lao động làm việc phải về nước trước thời hạn vì không có việc làm. Với tình hình trên, hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam sang vùng lãnh thổ Đài Loan chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng khá mạnh do đây là thị trường hàng đầu mà các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt nam nhắm tới. Mặc dù có thu nhập không cao như Hàn Quốc, và một số nước Đông Âu nhưng đây là thị trường khá ổn định và có nhu cầu lớn lao động nhập cư. Môi trường làm việc, khí hậu dễ chịu, phong tục, tập quán khá gần gũi với người Việt Nam cũng là thế mạnh của thị trường Đài Loan.
Ø Nhật Bản
Ðến nay, đã có hơn 40.000 tu nghiệp sinh (TNS) được đưa sang tu nghiệp tại các xí nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản. Hiện nay, số TNS đang tu nghiệp tại Nhật Bản là gần 10.000 người, số thực tập sinh là 6.740 người. TNS Việt Nam tại Nhật Bản tu nghiệp, làm việc chủ yếu trong các lĩnh vực dệt, may, điện tử, cơ khí, chế biến, xây dựng, thủy sản. Số lượng TNS Việt Nam tăng qua các năm, nhưng cuối năm 2008 và đầu năm 2009 do khủng hoảng kinh tế toàn cầu và Nhật Bản cũng bị ảnh hưởng nặng vì 40% GDP của Nhật Bản phụ thuộc vào xuất khẩu, do vậy số lượng TNS sang Nhật năm 2008 chỉ tăng 5% và sáu tháng đầu năm 2009 giảm 13,4% so với cùng kỳ năm trước. TNS Việt Nam được phía Nhật Bản đánh giá cao về tay nghề, tính cần cù, chịu khó và khả năng tiếp thu nhanh về kỹ năng, kỹ thuật. Thu nhập bình quân của TNS Việt Nam khoảng từ 700 đến 1.100 USD/tháng. Cá biệt, có trường hợp thu nhập đến hơn 1.700 USD/tháng.
Ø Hàn Quốc
Hiện có khoảng trên 27.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại Hàn Quốc theo chương trình EPS. Nếu tính cả số tu nghiệp sinh sau khi kết thúc hợp đồng tu nghiệp ở lại thì tổng số lao động Việt Nam ở Hàn Quốc hiện là 48.000 người. Theo tính toán, thu nhập bình quân của người lao động Việt Nam kể cả làm thêm giờ khoảng 1.100- 1.300 USD/tháng. Tuy nhiên, do tỷ lệ thất nghiệp trong nước tăng cao nên hiện nay chỉ tiêu của Hàn Quốc giành cho lao động nước ngoài đã giảm đi đáng kể.
Ø Trung Đông
Trung Đông gồm 6 nước vùng vịnh: Oman, Bahrain, Qatar, Saudi Arabia, UAE, Kuwait là thị trường xuất khẩu lao động duy nhất không bị ảnh hưởng mấy trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Trong khi nhiều quốc gia trên thế giới đều lên kế hoạch giảm nhu cầu tiếp nhận lao động nhập cư và ban hành một số chính sách hỗ trợ lao động nước ngoài về nước trước hạn, thì tại các nước Trung Đông, nhiều chủ sử dụng lao động vẫn có nhu cầu lớn nhận lao động nước ngoài vào làm việc. So với nhiều thị trường khác, thu nhập của thị trường này không cao nhưng ổn định, từ 5 – 7 triệu đồng tháng, và không đóng bất kỳ khoản phí hay thuế nào. Các nước Trung Đông đều có nhu cầu lao động nước ngoài lớn, trung bình mỗi nước cần khoảng 100.000 LĐ/năm. Hiện, chỉ tính riêng tại UAE đãcó khoảng 10.000 LĐVN đang làm việc. Con số này vẫn quá khiêm tốn so với nhu cầu của UAE. Tuy nhiên trở ngại lớn nhất đối với lao động VN là khó thích nghi với điều kiện sống tại đây khi khí hậu quá nóng, toàn bộ dân số theo đạo Hồi nên phong tục tập quán của họ khác VN rất nhiều.
3. Thị trường lao động Malaysia
3.1. Khái quát
3.1.1. Dân số
Theo số liệu tính đến tháng 7/2007, Malaysia có hơn 24 triệu người, tỉ lệ tăng dân số hằng năm làkhoảng 1.8%, trong đó lực lượng lao động là 11 triệu người, chiến gầm 50% tổng số dân. Malaysia là một rong những nước đang phát triển có nền kinh tế tăng trưởng mạnh ở khu vực Đông Nam Á.
3.1.2. Nhu cầu về lao động tại Malaysia
Malaysia là một quốc gia Á châu giàu có. Với thu nhập bình quân 13 ngàn đôla/người/ năm, Malaysia là nước công nghiệp hóa mới, và đang có mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2020. Nền kinh tế của Malaysia, với tốc độ phát triển cao trên 5% mỗi năm suốt thập niên qua, đòi hỏi một lượng nhân công lớn mà trong nước không thể thỏa mãn nổi. Vì vậy, nước này phải nhập khẩu lao động nước ngoài. Thành công kinh tế của Malaysia không thể thiếu một phần đóng góp vô cùng to lớn của lao động nước ngoài. Có thể nói không ngoa rằng kinh tế Malaysia phụ thuộc rất nhiều vào công nhân nhập ngoại.
Nước này đang thiếu khoảng ba triệu nhân công và theo thống kê của Công đoàn Malaysia, con số lao động nhập cư hợp pháp ở đây là khoảng hai triệu. Tuy nhiên, cũng có một lượng lớn không có thống kê lao động bất hợp pháp, những người không có giấy tờ chính thức. Nếu tính cả số người này, thì từ 30%-50% lực lượng lao động ở Malaysia là người nước ngoài, chủ yếu hoạt động trong ngành gia công sản xuất, xây dựng và dịch vụ.
3.2. Yêu cầu về trình độ lao động
Có thể nói rằng Malaysia là một thị trường rất dễ xâm nhập. họ không đòi lao động phải có trình độ chuyên môn cao, thậm chí sẵn sàng đào tạo khi người lao động không có bất cứ tay nghề gì. Những công việc cần tuyển lao động nước ngoài tại Malaysia chủ yếu là các công việc phổ thông, đòi hỏi cơ bắp. Người lao động nhập cư ở Malaysia thường làm những công việc được gọi là 3D, tức dirty, dangerous and difficult - bẩn thỉu, nguy hiểm và khó khăn. Vì vậy, mức lương tại thị trường này khá thấp.
3.3. Tình hình nhập cư lao động nước ngoài của Malaysia:
Malaysia là nước có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài lớn, hiện có khoảng 2,3 triệu lao động nước ngoài, trong đó 1,9 triệu lao động hợp pháp, chiếm 21% trong lực lượng lao động hùng hậu gần 11 triệu người của nước này, chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực nhà máy, nông nghiệp, giúp việc gia đình, xây dựng và dịch vụ. Lĩnh vực sản xuất và dịch vụ chiếm hơn 50% số lao động nước ngoài tại Malaysia.
Lao động nước ngoài tập trung chủ yếu vùng Penusular đặc biệt ở vùng thành thị và các khu công nghiệp ở thung lũng Kelang, thủ đô Kuala Lumpur, trung tâm công nghiệp, thương mại và hành chính là mục tiêu chủ yếu của lao động nhập cư. Số lao động nước ngoài ở đây chiếm gần 70% tổng số lao động nước ngoài trên toàn lãnh thổ Malaysia.
Lao động nước ngoài ở Malaysia chủ yếu là từ Indonesia, Ấn Độ, Sri Lanka, Bangladesh và Việt Nam. Trong đó, người Indonexia chiếm tỉ lệ lớn nhất, 2 triệu lao động trên tổng số 2.3 triệu lao động nước ngoài tại đây, chủ yếu làm nghề giúp việc gia đình.
Đầu năm 2009, kinh tế suy thoái khiến tỉ lệ thất nghiệp hiện nay ở Malaysia là 3.5%. Để giải quyết tình trạng này, từ tháng 1-2009, chính quyền Malaysia cấm các doanh nghiệp ngành sản xuất và dịch vụ thuê thêm nhân công nước ngoài sau khi các chuyên gia lao động dự báo 45.000 người tại Malaysia sẽ mất việc. Năm 2008, khoảng 2,2 triệu người nước ngoài, chủ yếu từ Indonesia, Bangladesh, Nepal, Ấn Độ, Myanmar và Việt Nam, làm việc hợp pháp tại Malaysia. Đến tháng 3-2009, số lượng lao động nước ngoài có giấy phép đã giảm xuống còn 1,9 triệu. Chính quyền Malaysia còn muốn giảm con số này xuống còn 1,5 triệu vào năm 2015. Nhiều người cho rằng giảm số lượng lao động nước ngoài sẽ giúp tăng mức lương cơ bản của lao động trong nước.
3.4. Rào cản khi xuất khẩu lao động sang Malaysia
Có thể nói rào cản lớn nhất đối với người lao động Việt Nam đó là trình độ lao động. người đi xuất khẩu lao động thường là những người nông dân nghéo, trình độ văn hóa thấp, tay nghề chuyên môn không có. Do đó, họ chỉ có thể tìm được các công việc phổ thông, với mức lương thấp và điều kiện làm việc vất vả. trong khi đó, lao động VN rất khó tiếp cận các thị trường lao động thu nhập cao như Mỹ, Canada, Ôxtrâylia, Ba Lan…
Rào cản thứ hai khi làm việc tại nước ngoài nói chungn và Malaysia nói riêng đó là khả năng ngoại ngữ. Người lao động trình độ đã thấp, lại không thể giao tiếp được với chủ của mình, do đó bị thiệt thòi về nhiều mặt.
Mặt khác, chi phí để đi xuất khẩu lao động là quá cao so với khả năng của những người dân nghèo muốn đi tìm một vùng đất mới. Để đi làm việc tại Nhật Bản phải tốn khoảng 2.000 USD và khoảng 6.000-10.000 USD đặt cọc. Đi Hàn Quốc chi phí từ 6.000-7.500 USD. Làm công nhân tại Đài Loan nếu như năm 2002 chỉ tốn khoảng 1.500 USD, thì nay đã lên đến 4.800- 5.600 USD. Ngay cả thị trường Malaysia, mỗi LĐ cũng phải chi khoảng 17 triệu đồng.
Và thêm một vấn đề nữa đó là thủ tục giấy tờ. nhiều nước đang cố gắng cắt giảm lao động nước ngoài bằng cách đưa ra nhiều thủ tục xuất cảnh rườm rà, phức tạp cho người lao động. tại Malaysia, từ tháng 4, các doanh nghiệp phải quảng cáo tuyển dụng nhân lực trong nước trong vòng hai tháng, trước khi xin được giấy phép tuyển lao động nước ngoài. Các doanh nghiệp phải trả thuế thường niên 1.800 ringgit (510 USD) với mỗi lao động nước ngoài họ thuê.
4. Phân tích lợi thế cạnh tranh của Việt Nam
4.1 Giới thiệu mô hình Kim cương của Michael Porter
Khi phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành XK lao động Việt Nam bằng mô hình kim cương của Michael Porter, chúng ta lưu tâm đến 4 biến số chính và 2 biến số phụ.
Ø 4 biến số chính là :
Yếu tố thâm dụng
Điều kiện nhu cầu
Các ngành liên quan bổ trợ
Cấu trúc, chiến lược của công ty và cạnh tranh của ngành.
Ø 2 biến số phụ là
Cơ hội,may rủi
Chính phủ
4.2. Ứng dụng vào dịch vụ xuất khẩu lao động của Việt Nam
4.2.1.Yếu tố thâm dụng: Các nhân tố chính ngành xuất khẩu lao động cần:Nguồn nhân lực, địa điểm
Ø Nguồn nhân lực:
Số dân của cả nước là 84,156 triệu người(trong đó, nông dân chiếm khoảng hơn 73% dân số của cả nước(9/2009). Số liệu trên đây phản ánh một thực tế là nông dân nước ta chiếm tỷ lệ cao về lực lượng lao động xã hội.
Lao động Việt Nam cần cù, khéo léo nhưng chất lượng làm việc còn chưa cao. Ngay cả lao động làm các công việc phổ thông như thợ điện, thợ sửa ống nước, nhân viên phục vụ... để tìm ra người lành nghề không hề dễ. Lao động xuất khẩu đa phần có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hoặc mới chỉ qua giáo dục ngắn hạn,cấp tốc.Tính chung, lực lượng lao động xuất khẩu đã qua đào tạo mới đạt 24%; trong số này, lao động được đào tạo nghề chỉ khoảng 17%.
Nguồn lao động xuất khẩu nước ta phần lớn xuất thân là nông dân, họ được gọi là những lao động “3 không” ( không nghề, không ngoại ngữ, không ý thức và tác phong công nghiệp). Sau khi đăng ký đi XKLĐ, họ mới được học một khóa nghề và ngoại ngữ cấp tốc. Trên thực tế, không phải doanh nghiệp XKLĐ nào cũng có thể đầu tư cho việc đào tạo một cách bài bản.. Ngoài ra, một số doanh nghiệp không tạo được đủ nguồn, tự ý “nới lỏng” điều kiện cho người lao động, đã bị “tắc” ở khâu làm visa. Điều đó không những gây thiệt hại về kinh tế cho người lao động, bản thân doanh nghiệp mà còn làm ảnh hưởng đến uy tín lao động quốc gia.
Là một nước xuất khẩu lao động lớn trong khu vực nhưng tỷ lệ vi phạm hợp đồng của lao động Việt Nam ở nước ngoài cao. Dù quy định hiện hành về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực XKLĐ là rất rõ ràng nhưng việc xử lý vi phạm của cơ quan chức năng còn nhẹ tay, dẫn đến doanh nghiệp bị “lờn thuốc”. Theo quy định, trường hợp đưa lao động ra nước ngoài làm việc mà không đăng ký hợp đồng cung ứng lao động theo quy định, doanh nghiệp sẽ bị phạt từ 10 triệu đến 15 triệu đồng, bị đình chỉ hoạt động từ 6 đến 12 tháng hoặc thu hồi giấy phép, buộc bồi thường thiệt hại và mọi chi phí phát sinh nếu gây rủi ro cho người lao động. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua, chưa có doanh nghiệp XKLĐ nào bị rút giấy phép dù sai phạm đã rành rành.
Ø Địa điểm:
Việc làm thời vụ tại nước ngoài chỉ phù hợp với lao động các vùng lân cận, đi lại dễ dàng, không mất phí visa và vận chuyển.Với vị trí địa lý của mình,Việt Nam sẽ rất thuận tiện cho việc xuất khẩu lao động ra các nước trong khu vực đang cần lưc lượng lao động lớn như:Malaysia,Đài Loan,Hàn Quốc…
4.2.2. Những điều kiện về nhu cầu
Ø Đối với thị trường nội địa:
Tình hình chung sau khủng hoảng kinh tế,nhu cầu về lao động của các doanh nghiệp Việt Nam đều tăng. Chẳng hạn như tại TPHCM, các doanh nghiệp cần phải tuyển thêm khoảng 100.000 lao động. Qua tính toán sơ bộ(8/2009), cơ cấu lao động cần tuyển dụng sẽ bao gồm: lao động phổ thông chiếm ít nhất là 50%, lao động có trình độ đại học - cao đẳng khoảng 30%, còn lại 20% là công nhân lành nghề, thợ bậc cao. Tuy nhiên,đối với các ngành thâm dụng lao động, khó có thể nói rằng nhu cầu sử dụng nhân lực của các doanh nghiệp tăng lên, mà chủ yếu là chỉ nhằm bù đắp vào những thiếu hụt do lao động nghỉ việc và dòng luân chuyển lao động giữa các doanh nghiệp đang diễn ra khá mạnh mẽ.
Nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt lao động hiện nay là do hạn chế về kỹ năng của người lao động, cùng với tình trạng giá nhân công chưa tương xứng. Rất nhiều doanh nghiệp đã phải “chữa cháy” bằng cách tuyển lao động “trắng”, tức hoàn toàn chưa có tay nghề, đưa về đào tạo.
Và theo đánh giá chung, tồn tại nhiều tình trạng, người tuyển dụng thì tìm lao động “đỏ mắt” còn người lao động tìm việc lại ra về tay không. Có nhiều lý giải cho vấn đề nay, song một thực tế cần phải nhìn nhận, dù có nhu cầu tuyển dụng nhiều nhưng chính sách ưu đãi tại các doanh nghiệp dành cho người lao động, đặc biệt là lao động phổ thông vẫn thiếu hấp dẫn. Với mức thu nhập trung bình được phổ biến tại các bàn tuyển dụng là 1,8 – 2 triệu đồng/tháng, tính cả tăng ca thì với một người lao động trong thời điểm hiện nay, họ chỉ đủ để trang trải tiền trọ và những chi tiêu tối thiểu chứ không thể dành cho tích lũy. Vì vậy, người lao động vẫn không mặn mà với những băng rôn, biểu ngữ mà các nhà tuyển dụng đưa ra.
Nhu cầu nhân lực đang đứng trước khả năng tăng “nóng” . Một vấn đề mang tính chất cốt yếu là tương quan giữa tiền lương thực tế với chỉ số giá cả. Đang tồn tại một sự chênh lệch đáng kể giữa giá tiêu dùng với giá trị nhân lực.:thời gian trước có không ít người lao động chấp nhận mức lương thấp để có việc làm. Nhưng bây giờ, khi hầu hết các doanh nghiệp đều “chào” mức lương ngang với mức trước khủng hoảng kinh tế, thì nhiều người lại tỏ ra không mặn mà. Tình hình giá cả tăng đột biến trong thời gian gần đây đã khiến không ít người phải cân nhắc, tính toán. Các doanh nghiệp đứng trước nguy cơ khan hiếm lao động càng trầm trọng hơn.
Ø Thị trường MALAYSIA
Đặc biệt, thị trường này đang “sốt” lao động nữ làm việc trong các lĩnh vực may mặc, điện tử và chế biến thủy sản. Với một số ưu điểm nổi trội, đa số chủ sử dụng lao động tại Malaysia đều muốn nhận lao động Việt Nam, nhất là nữ vào làm việc bởi sự khéo tay, nhận thức nhanh, “thuần” hơn nam giới và lợi thế ngoại hình. Ngoài ra, hiện nay, Malaysia có nhu cầu cao tiếp nhận lao động nước ngoài trong các lĩnh vực sản xuất chế tạo, giúp việc gia đình.
Theo Ban quản lý lao động Việt Nam tại Malaysia, bên cạnh những ưu thế vượt trội về sự khéo tay, thông minh - nhận thức nhanh thì lao động nam người Việt còn nhiều tồn tại: khả năng ngoại ngữ giao tiếp yếu; tổ chức uống rượu, đánh bạc dẫn đến đánh nhau không chỉ giữa lao động Việt Nam với nhau mà với cả với lao động nước ngoài khác.
Ngoài ra, thái độ ứng xử đôi khi gây cho người quản lý và những người cùng làm hiểu lầm. Đặc biệt, thay vì thương lượng, một số lao động, chủ yếu là lao động nam coi đình công là biện pháp duy nhất đòi quyền lợi.
4.2.3 Những ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan:
Bên cạnh hỗ trợ về vay vốn, ngành LÐ-TB và XH cần tăng cường phối hợp ngành giáo dục tổ chức đào tạo những nghề khó, thợ tay nghề cao, có tính đặc thù mà thị trường đang cần, đào tạo theo địa chỉ cụ thể, đáp ứng nhu cầu thực tế của thị trường. Các cơ quan ngoại giao tăng cường phối hợp và đưa ra dự báo về biến động thị trường XKLÐ để định hướng cho các doanh nghiệp, nhất là việc mở rộng thị trường mới.
4.2.4. Cấu trúc, chiến lược của công ty và cạnh tranh trong ngành:
Ø Cấu trúc, chiến lược của công ty
Hình thức hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao đông Việt Nam hiện nay là tuyển lao động trực tiếp hoặc khoán trắng ,môi giới.Quy mô các doanh nghiệp còn nhỏ,thiếu chuyên nghiệp.
Xu thế hiện nay số lượng đơn vị khoán trắng cho chi nhánh hoặc trung tâm thực hiện hợp đồng; tuyển chọn lao động thông qua môi giới, liên kết tràn lan, công tác tuyển dụng qua môi giới, tư vấn nhiều hơn doanh nghiệp tuyển trực tiếp.
Với "mô thức" khoán trắng, nhiều Cty XKLĐ đã dựng lên các cơ sở đào tạo và cho tư nhân núp bóng, thuê biển hoạt động. Điều đáng nói là chính các công ty mẹ đôi khi cũng không "quản" được các chi nhánh con khi đã khoán, đã cho thuê giấy phép theo kiểu - mua đứt - bán đoạn.Vì thế, giá dịch vụ không thống nhất, kinh phí tuyển dụng và các khoản đóng góp thiếu minh bạch. Thậm chí, tại nhiều chi nhánh, chi phí cho đi lao động xuất khẩu gấp tăng gấp 1,5 đến 2 lần, thậm chí có thị trường gấp đến 10 lần so với thông báo của các doanh nghiệp tuyển dụng.
Ø Cạnh tranh trong ngành
Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam không chỉ cạnh tranh với nhau trong nhận hợp đồng xuất khẩu, mà còn phải cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp nước ngoài trong thị trường xuất khẩu lao động rộng lớn.
Mặc dù được nhiều thị trường đánh giá cao, nhưng sức cạnh tranh của lao động Việt Nam còn chưa cao, chủ yếu cạnh tranh do mức lương thấp, công việc nặng nhọc, lao động Việt Nam vẫn tập trung ở những thị trường mà lao động các nước khác không muốn đến.
Không những Việt Nam mà còn khá nhiều quốc gia xuất khẩu lao động như Indonesia,Philipin,Trung Quốc...Thị trường càng béo bở,tiềm năng,thì càng có nhiều nước muốn ký hợp đồng,mức độ cạnh tranh khốc liệt hơn. Đòi hỏi chất lượng lao động của các nước nhập khẩu cũng cao hơn:tuyển đúng người,đúng việc,có trình đô,biết ngoại ngữ…một ví dụ điển hình là việc đưa lao động Việt Nam sang Thụy Điển thực hiện hợp đồng thời vụ hái dâu trong 2 tháng. Lao động Việt Nam xem như bị thất bại trong hợp đồng này trong khi lao động Thái Lan,Indonesia lại làm rất tốt.Nguyên nhân là: doanh nghiệp đã tuyển không đúng người, đúng việc, tuyển phần lớn là người quen, người nhà, chủ yếu là dân thành phố cho các đơn hàng này.Những hợp đồng thời vụ mặc dù đã được nhiều nước triển khai rất thành công nhưng đối với Việt Nam mới chỉ mang tính chất thí điểm nên về mặt pháp lý chưa có quy định chặt chẽ. doanh nghiệp xuất khẩu lao động trong nước chưa có nhiều kinh nghiệm đối với những đơn hàng này, đã dẫn đến việc thiếu bài bản trong khâu tạo nguồn cũng như thẩm định hợp đồng. Do thiếu năng lực, hoạt động kém hiệu quả, không chịu đầu tư mở thị trường mới, một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động VN thường áp dụng “chiêu” kinh doanh và cạnh tranh thiếu lành mạnh như giành giật đối tác nước ngoài lẫn hợp đồng bằng cách nâng mức phí môi giới cao hơn thực tế. Thực tế là có doanh nghiệp đã tuyển được người nhưng đến phút cuối lại bị doanh nghiệp khác chiếm mất vì họ sẵn sàng trả phí dịch vụ tuyển dụng cao hơn. Đó là chưa kể hiện tượng cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các tổ chức và cá nhân môi giới cũng như việc bưng bít thông tin về tuyển dụng, chi phí ban đầu đi nước ngoài làm việc… Điều này đã tạo ra kẽ hở cho những đường dây trung gian, cò mồi xuất khẩu lao động bành trướng hoạt động ngầm, nâng phí môi giới, phí tuyển dụng lên cao gấp nhiều lần so với thực tế.
4.2.5 Chính phủ:
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch 31 hướng dẫn Quyết định 71/2009/QĐ-TTg về phê duyệt đề án “Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động, góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020” với tổng kinh phí lên đến 4.715 tỷ đồng, trong đó, phần vốn hỗ trợ người lao động là 1.542 tỷ đồng, Chỉ tiêu này trong giai đoạn 2016 – 2020 được nâng lên hơn 70.000 lao động xuất khẩu, góp phần giảm khoảng 19% số hộ nghèo của 61 huyện nghèo:
Ø Theo đó, lao động thuộc hộ nghèo, dân tộc thiểu số được hỗ trợ 100% phí học nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức theo mức học phí được Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quy định. Người lao động cũng được hỗ trợ tiền ăn, sinh hoạt phí trong thời gian học với mức 40.000 đồng/người/ngày, tiền ở 200.000 đồng/người/tháng. Ngoài ra còn có tiền trang cấp đồ dùng cá nhân, tiền tàu xe và được hỗ trợ chi phí làm thủ tục trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo các mức quy định hiện hành. Riêng với người lao động thuộc hộ nghèo, dân tộc thiểu số tốt nghiệp từ bậc tiểu học trở lên nhưng trình độ văn hoá chưa đáp ứng yêu cầu sẽ được bổ túc thêm văn hoá với thời gian học tối đa không quá 12 tháng. Học phí, tài liệu học tập, sách giáo khoa, vở viết, dụng cụ học tập được hỗ trợ toàn bộ.
Ø Các chính sách hỗ trợ của đề án bao gồm: hỗ trợ người lao động học bổ túc văn hóa, học nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết để tham gia xuất khẩu lao động; cho người lao động vay tín dụng ưu đãi với lãi suất bằng 50% lãi suất cho vay hiện hành của Ngân hàng Chính sách xã hội áp dụng cho đối tượng chính sách đi xuất khẩu lao động; các cơ sở dạy nghề cho XKLĐ cũng sẽ được vay vốn tín dụng ưu đãi để đầu tư tăng quy mô đào tạo.
Ø Trường hợp người lao động có thời gian làm việc thực tế dưới 12 tháng phải về nước thì được hỗ trợ bằng 1 lượt vé máy bay khi gặp một trong các lý do: vì sức khỏe không phù hợp với yêu cầu công việc, vì chủ sử dụng lao động gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh nên người lao động bị mất việc làm, vì chủ sử
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xkld_philipin_7263.doc