LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ VÀ SỰ PHỐI HỢP VỚI KIỂM TOÁN VIÊN BÊN NGOÀI 3
1.1. Khái quát chung về KTNB 3
1.1.1 Sự hình thành và phát triển của KTNB 3
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nội dung hoạt động của kiểm toán nội bộ 4
1.1.2.1. Khái niệm kiểm toán nội bộ 4
1.1.2.2. Chức năng của kiểm toán nội bộ 5
1.1.2.3. Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ 5
1.1.2.4. Quyền hạn của kiểm toán nội bộ 6
1.1.2.5. Nội dung hoạt động của kiểm toán nội bộ 7
1.2. Sự phối hợp giữa kiểm toán nội bộ với kiểm toán viên bên ngoài 7
1.2.1. Sự cần thiết phải phối hợp 7
1.2.2. Cơ sở của sự phối hợp hiệu quả 8
1.2.2.1. Những mối quan tâm ban đầu và thứ yếu 8
1.2.2.2. Thái độ đúng đắn của mỗi nhóm kiểm toán 10
1.2.2.3. Sự hiểu biết mang tính cộng tác ở bộ máy lãnh đạo 11
1.2.2.4. Những nhân tố thúc đẩy sự phối hợp 12
1.2.2.5. Những cản trở sự phối hợp 13
1.2.3. Những yếu tố của sự phối hợp hiệu quả 13
1.2.3.1. Trao đổi tài liệu kiểm toán 14
1.2.3.2. Chia sẻ trực tiếp thông tin 15
1.2.3.3. Sử dụng những thủ tục kiểm toán phổ biến 15
1.2.3.4. Hỗ trợ công việc hợp tác 16
1.2.3.5. Hợp tác trong đào tạo cán bộ 17
1.2.3.6. Triển khai trợ giúp những tài liệu kiểm toán 17
1.2.3.7. Lập kế hoạch chung 18
1.2.3.8. Phân đoạn công việc kiểm toán 20
1.2.3.9. Tổng hợp các báo cáo kiểm toán 20
1.2.3.10. Lập báo cáo chung lên cấp cao hơn 21
1.2.3.11. Đánh giá chéo 21
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KTNB TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ SỰ PHỐI HỢP VỚI KIỂM TOÁN VIÊN BÊN NGOÀI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 23
2.1. Sự cần thiết phát triển KTNB trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay 23
2.2. Thực trạng hoạt động KTNB và sự phối hợp với KTV bên ngoài ở nước ta trong thời gian qua 24
2.3. Những khó khăn chính trong việc tổ chức hoạt động KTNB 26
CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT CẢI THIỆN VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG KTNB VÀ SỰ PHỐI HỢP GIỮA KTNB VỚI KTV BÊN NGOÀI Ở VIỆT NAM 32
3.1. Một số đề xuất cải thiện việc tổ chức hoạt động KTNB 32
3.2. Một số đề xuất cải thiện sự phối hợp giữa KTNB và KTV bên ngoài ở Việt Nam 36
KẾT LUẬN 38
43 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2458 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kiểm toán nội bộ và sự phối hợp giữa kiểm toán viên nội bộ với kiểm toán viên bên ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rình bày ở trên, việc hiểu biết đúng đắn của tất cả các cá nhân ngày càng trở nên quan trọng. Đặc biệt cần thiết là sự hiểu biết về những mối quan tâm ban đầu và thứ yếu của mỗi nhóm kiểm toán và sự cần thiết phải hoà trộn các nỗ lực kiểm toán đã được phối hợp theo cách thức cho phép có thể đạt được tất cả các mục tiêu chính. Một điều cũng đặc biệt quan trọng là các bên liên quan nhận ra sự cần thiết về trình độ nghiệp vụ cao của mỗi nhóm kiểm toán và sự cần thiết về quan hệ nghiệp vụ ở mức độ tương tự giữa KTV nội bộ và KTV bên ngoài. Điều này cũng bao gồm việc tiếp tục thừa nhận rằng chức năng của nhóm kiểm toán nội bộ không phải chỉ là trợ giúp cho KTV bên ngoài đạt được các mục tiêu kiểm toán của họ, đồng thời các nguồn lực của nhóm kiểm toán nội bộ phải được bảo vệ để có thể cung cấp một cách hợp lý các dịch vụ cho ban quản lý nhằm đạt được những mục tiêu nghiệp vụ.
1.2.2.4. Những nhân tố thúc đẩy sự phối hợp
Việc phối hợp có hiệu quả giữa KTV nội bộ và KTV bên ngoài bị tác động bởi những nhân tố mang tính thúc đẩy. Tuy nhiên, các nhân tố thúc đẩy khác nhau thường có xu hướng chòng chéo lên nhau. Các nhân tố này biến đổi từ các nhân tố ở mức độ tương đối thấp đến những nhân tố có tầm quan trọng ở mức độ cao. Chẳng hạn, việc cản trở những đại diện của hai nhóm kiểm toán này đạt được vị trí nghề nghiệp nhất định một cách đồng thời và sau đó cản trở việc theo đuổi xem xét những sổ sách giống nhau hoặc thẩm vấn người lao động của cùng một công ty. Mặt khác, những nhân tố thúc đẩy có thể là sự hỗ trợ mang tính hợp tác ở mức độ cao hơn. Ví dụ, việc trao đổi tài liệu và thông tin liên quan cùng với việc thảo luận và thảo luận chung về việc triển khai công việc hơn nữa và việc khắc phục những nhược điểm đã được chỉ ra.
1.2.2.5. Những cản trở sự phối hợp
Cũng giống như những nhân tố thúc đẩy, những cản trở ảnh hưởng tới nỗ lực phối hợp có hiệu quả có thể biến đổi từ những nhân tố ở mức độ rất thấp đến những vật cản rất lớn. Chúng có thể thay đổi từ những nhược điểm của riêng KTV nội bộ hoặc KTV bên ngoài đến những hoạt động ở mức độ cao hơn hoặc những áp lực cản trở sự phối hợp có hiệu quả có thể phát triển ở mức độ công việc. Tóm lại, chúng tạo thành những vật cản đối với sự phối hợp có hiệu quả. Những kiểu cản trở chính cần được liên tục lưu ý gồm:
Tính đầy đủ của những chuẩn mực kiểm toán nội bộ.
Những khuyết điểm có thể về mặt tổ chức của KTV bên ngoài.
Trách nhiệm pháp lý tiềm tàng của KTV bên ngoài.
1.2.3. Những yếu tố của sự phối hợp hiệu quả
Sự phối hợp giữa KTV nội bộ và KTV bên ngoài có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, những hoạt động phối hợp này có thể nhóm thành 11 loại sau:
Trao đổi tài liệu kiểm toán.
Sự chia sẻ trực tiếp về thông tin.
Sử dụng phương pháp luận phổ biến.
Hỗ trợ công việc hợp tác.
Hợp tác trong đào tạo cán bộ.
Triển khai trợ giúp những tài liệu kiểm toán.
Lập kế hoạch chung.
Phân loại công việc kiểm toán.
Tổng hợp các báo cáo kiểm toán.
Lập báo cáo chung lên các tổ chức cấp cao hơn.
Đánh giá chéo.
1.2.3.1. Trao đổi tài liệu kiểm toán
Kiểu phối hợp cơ bản xoay quanh việc trao đổi tài liệu kiểm toán. Hai tài liệu chủ yếu là hồ sơ và báo cáo kiểm toán. Những tài liệu này có thể có do KTV nội bộ và KTV bên ngoài cung cấp cho nhau.
Trao đổi hồ sơ kiểm toán. Đối với hồ sơ kiểm toán, tính sẵn sàng cung cấp chúng của KTV nội bộ cho KTV bên ngoài là vấn đề ít gây tranh luận nhất và do đó là phổ biến nhất trong thực tế. Tính logic ở đây là KTV bên ngoài phải kiểm tra những hồ sơ kiểm toán này ở phạm vi có thể dựa vào công việc của KTV nội bộ. Hơn nữa, nó thường được nhìn nhận là điều đúng đắn có thể làm cho thông tin trở nên sẵn có cho KTV bên ngoài mà mặt khác KTV bên ngoài sẽ phải có thêm thời gian để thu thập với những cách khác nhau. Trong một số trường hợp KTV nội bộ có thể do dự trong việc công khai hồ sơ kiểm toán mà chất lượng về mặt chuyên môn của chúng không được như mong muốn, nhưng điều này sẽ là một vấn đề cần có sự sửa chữa cơ bản đối với những sự kiện của chính nó. Chắc chắn rằng, không một lý do thật sự thích đáng nào có thể làm cơ sở cho việc KTV nội bộ từ chối cung cấp cho KTV bên ngoài những hồ sơ kiểm toán này.
Trường hợp ngược lại, về mặt nguyên tắc, tính sẵn sàng của những hồ sơ kiểm toán của KTV bên ngoài cho KTV nội bộ không tương hợp với tính độc lập và những trách nhiệm rộng hơn của họ đối với thế giới bên ngoài. Do đó, sự sẵn sàng của những hồ sơ kiểm toán của KTV bên ngoài là vấn đề khó. Tuy nhiên, tính sẵn sàng này được KTV bên ngoài nới rộng ra, ngoại trừ trường hợp có thể về bản chất đặc biệt.
Trao đổi những báo cáo. Việc trao đổi những báo cáo giữa KTV nội bộ và KTV bên ngoài cũng là hợp lý và là thực tế mang tính đặc thù chung. Những báo cáo của KTV nội bộ đã có ảnh hưởng đến những nguyên tắc tương tự như hồ sơ kiểm toán. Do đó, những báo cáo của KTV nội bộ thường được cung cấp một cách tự nguyện cho KTV bên ngoài và chúng thiết lập nên một phương tiện quan trọng để tiếp tục thông báo một cách hợp lý cho KTV bên ngoài. Tuy nhiên trong một số trường hợp, những báo cáo đặc biệt của KTV nội bộ có thể được giữ kín hoặc không phải là mối quan tâm của KTV bên ngoài.
Đối với KTV bên ngoài cần phải nhận thức rằng những kiểu báo cáo mô tả bổ sung cho ý kiến mang tính nguyên tắc là ít phổ biến hơn và chúng thay đổi theo những điều khoản tuyển dụng kiểm toan riêng. Những báo cáo đặc biệt của KTV bên ngoài có thể cũng được giữ kín và không nên đưa lý do vì sao chúng không được cung cấp cho KTV nội bộ. Do đó trong việc cung cấp này, thông thường nó là thực tế mang tính chuẩn mực.
1.2.3.2. Chia sẻ trực tiếp thông tin
KTV nội bộ có thể đi sâu vào những vấn đề trong việc trình bày rộng hơn và chi tiết hơn về những hoạt động điều hành mà sẽ là quan trọng đối với KTV bên ngoài. Đồng thời, KTV bên ngoài phụ thuộc rất nhiều vào dòng thông tin hữu ích. Do đó, sự chia sẻ trực tiếp thông tin giữa hai nhóm kiểm toán là rất cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của cả hai nhóm.
1.2.3.3. Sử dụng những thủ tục kiểm toán phổ biến
Trong nhiều trường hợp, người ta tin rằng hai nhóm kiểm toán đều mong muốn rắng nhóm kiểm toán nội bộ sẽ tuân theo những thủ tục kỹ thuật tương tự với những thủ tục được KTV bên ngoài áp dụng. Những ví dụ phổ biến nhất về điều này là những thủ tục kiểm toán được áp dụng trong những phần riêng của toàn bộ nỗ lực kiểm toán và sự sắp xếp những hồ sơ kiểm toán có liên quan. Sự hợp lý ở đây là tất cả những thủ tục này đã làm cho KTV bên ngoài dễ dàng hơn trong việc xem xét và sử dụng công việc của KTV nội bộ.
Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng những thủ tục phổ biến này chỉ là yếu tố tương đối không quan trọng và dựa nhiều hơn vào năng lực nghề nghiệp cơ bản. Trong bất kỳ tình huống nào, các mục tiêu của KTV nội bộ là rộng hơn so với những mục tiêu của KTV bên ngoài và ở điểm nào đó cấn có sự tiếp cận khác nhau đối với những nhiệm vụ kiểm toán riêng rẽ này. Ở một mức độ nào đó các thủ tục phổ biến này có thể là hữu ích đối với những tình huống mang tính tập thể nhưng sự xét đoán cần phải được kiểm nghiệm trong việc áp dụng thực tế. Tóm lại, nhũng thủ tục kiểm toán phổ biến là một công cụ được sử dụng cùng với sự cẩn thận và thận trọng hợp lý.
1.2.3.4. Hỗ trợ công việc hợp tác
Trong những năm trước đây khi mà sự nhấn mạnh vào nỗ lực phối hợp là ban đầu nhằm giảm thời gian và giá phí kiểm toán của KTV bên ngoài, nhân viên của phòng kiểm toán nội bộ có thể được bổ sung cho KTV bên ngoài và làm việc trực tiếp dưới sự giám sát của KTV bên ngoài. Ngày nay, theo những điều kiện của việc thực hành hiện tại, bất kỳ sự sắp xếp công việc cộng tác nào phải được cân nhắc cẩn thận. KTV nội bộ phản đối việc chỉ định trực tiếp như là sự ngụ ý về một vị trí công việc hạng hai đã dẫn đến việc anh ta không được tiếp tục năng lực nghề nghiệp của chính mình. Điều này tồn tại đặc biệt khi KTV nội bộ được chỉ định thật sự nhiều tuổi đời và nhiều kinh nghiệm hơn KTV bên ngoài. Vấn đề này có thể được giải quyết bằng cách KTV nội bộ có vai trò như một nhà tư vấn được chỉ định hoặc cùng với sự hiểu biết thấu đáo rằng sự sắp xếp này liên quan đến những người ngang hàng làm việc vì một nền tảng tạm thời nhằm đáp ứng nhu cầu đã được thừa nhận một cách rõ ràng. Một giải pháp khác là phân công người có chuyên môn tốt nhất chịu trách nhiệm về nỗ lực công việc chung dù cho người đó là KTV nội bộ hoặc KTV độc lập.
1.2.3.5. Hợp tác trong đào tạo cán bộ
Một tình hình đang tồn tại khá phổ biến là khi nào thì hoặc KTV nội bộ hoặc KTV bên ngoài có được năng lực đào tạo hữu ích cho cả hai nhóm. KTV bên ngoài, người cung cấp dịch vụ cho rất nhiều khách hàng, có thể có được các nguồn lực cho việc phát triển các kiểu chương trình đào tạo khác nhau hữu ích cho KTV nội bộ thuộc những công ty đi thuê kiểm toán. Tuy nhiên, trong những ví dụ khác, KTV nội bộ có thể đang chỉ đạo những khoá đào tạo hoặc triển khai những tài liệu đào tạo khác mang tính duy nhất đối với công ty. Về phần KTV bên ngoài, có thể có nhu cầu sử dụng những tài liệu này cho nhân viên của mình, đặc biệt cho những cá nhân thực hiện công việc kiểm toán riêng biệt. Tuy nhiên trong thực tế, việc KTV nội bộ và KTV bên ngoài có những nhiệm vụ ban đầu khác nhau có nghĩa là mỗi nhóm kiểm toán thường có nhiều thuận lợi hơn trong việc triển khai và điều hành các chương trình đào tạo của chính mình.
Thông thường, khi những tài liệu đào tạo của một nhóm này được nhóm kia sử dụng thì việc sử dụng này được cung cấp mà không có trách nhiệm kèm theo bởi vì những mối quan tâm chung do đó đã được đáp ứng. Tuy nhiên trong những năm gần đây, các hãng kiểm toán bên ngoài đã phát triển các chương trình đào tạo cho KTV nội bộ như là một công việc kinh doanh mạo hiểm riêng và tạo ra nguồn thu nhập bổ sung mang tính nghề nghiệp.
1.2.3.6. Triển khai trợ giúp những tài liệu kiểm toán
Hai nhóm kiểm toán nội bộ và bên ngoài sẽ phát triển những tài liệu tìm they và các khuyến nghị làm ảnh hưởng tới các hoạt động của tổ chức. Mặc dù những nhân viên trong tổ chức sẽ có trách nhiệm chính một cách cá nhân hay tập thể với việc đưa ra cân nhắc cuối cùng cho những khuyến nghị như vậy và hành động sửa chữa có liên quan nhưng cả hai nhóm kiểm toán đều có chung mối quan tâm tới bản chất và phạm vi của tất cả những thiếu sót đã được biết đến và việc sửa chữa sau này của những thiếu sót đó. Do đó, cả hai sẽ rất nhạy cảm với tất cả những phát triển trong lĩnh vực này và sẽ phối hợp nhau trong việc đạt đến mức độ hiệu quả mong muốn trong những thủ tục hoạt động cơ bản.
Như chúng ta đã thấy, mối quan tâm ban đầu của KTV bên ngoài chính là tính đúng đắn của báo cáo tài chính và sẽ không phải dính líu quá sâu vào các thủ tục hoạt động ngầm như KTV nội bộ. Do đó, KTV bên ngoài sẽ thường có ít các phát hiện kiểm toán và khuyến cáo liên quan đến những thủ tục hoạt động này hơn. Cũng vì thế mà KTV bên ngoài sẽ ít liên quan đến việc triển khai các kết quả kiểm toán hơn KTV nội bộ. Tuy nhiên, một số phát hiện kiểm toán và khuyến cáo đặc biệt của KTV bên ngoài có tầm quan trọng rất lớn đối với việc quản trị công ty. Kết quả là kế hoạch triển khai kết quả kiểm toán ban đầu và tiếp theo của KTV bên ngoài được các bên liên quan xem xét với độ quan tâm đặc biệt.
Điều quan trọng là KTV nội bộ và bên ngoài phối hợp với nhau bằng mọi cách để có thể chia sẻ thông tin liên quan tới những gì thuộc về tính hiệu quả hiện nay và trong tương lai của các quá trình hoạt động trong công ty, đặc biệt trong nhiều lĩnh vực liên quan tới hệ thống kiểm soát kế toán nội bộ. Bằng cách làm việc cùng nhau, họ đảm bảo một cách tốt nhất hoạt động sửa chữa cần thiết. Đồng thời cả hai cũng sẽ có khả năng tốt hơn để hình thành những nỗ lực kiểm toán đang tiến triển của riêng mình nhằm phục vụ một cách tốt nhất lợi ích chung của họ và sau đó là lợi ích riêng của từng phía.
1.2.3.7. Lập kế hoạch chung
Khi KTV nội bộ và KTV bên ngoài làm việc một cách hợp tác nhằm đạt tới một sự phối hợp kiểm toán có hiệu quả họ sẽ ngày càng nhận thấy rằng họ cần phải ngồi lại cùng nhau để vạch ra những chương trình kiểm toán riêng của mỗi bên trước khi bắt tay vào công việc kiểm toán thực tế. Quá trình lên kế hoạch liên quan đến uỷ ban kiểm toán và mỗi nhóm kiểm toán sẽ phụ trách một số năm. Quá trình này cũng đã được trình bày một phần trong chương trình ngân sách được thông qua cho năm tới. Mặc dù KTV bên ngoài sẽ thường tham gia tới một mức độ nào đó vào quá trình lên kế hoạch dài hạn này, nhưng những kế hoạch của KTV bên ngoài sẽ tập trung hơn vào nhu cầu mỗi năm của mình nhằm phát triển đề nghị của mình để đạt được sự chấp nhận của hội đồng quản trị. Đặc biệt, đề nghị đó được đưa ra sau khi kiểm toán hàng năm đã hoàn tất.
Thông qua việc lên kế hoạch chung, yêu cầu của mỗi nhóm kiểm toán được hoà hợp với nhau. Một mặt, KTV nội bộ quyết định xem lên làm gì trong công việc kiểm toán của mình, nhưng với độ linh hoạt thích hợp, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các nhu cầu kiểm toán trong năm tới của KTV bên ngoài. Mặt khác KTV bên ngoài lại xác định những việc cần làm nhằm thực hiện trách nhiệm kiểm toán của mình, có cân nhắc tới những gì mà nhóm kiểm toán nội bộ có thể cung cấp, khi làm việc đó thì một trọng số thích hợp được gắn cho quy mô của đội ngũ nhân viên kiểm toán nội bộ, những khả năng được biểu hiện và mức độ sẵn sàng với công việc kiểm toán của đội ngũ này.
Những lợi ích thu được từ sự phối hợp này về bản chất cũng giống như những lợi ích thu được từ bất kỳ loại lên kế hoạch trước nào. Các KTV giống như các quản trị gia khác, cần phải xác định trước cái gì họ phải thực hiện và thực hiện như thế nào. Điều này là đúng bất chấp thực tế là những kế hoạch đã được đồng ý như vậy có thể và cần phải được sửa đổi khi có sự thay đổi các điều kiện. Nhờ áp dụng những công cụ quản lý trình độ cao này vào thành quả của toàn bộ những mục tiêu kiểm toán đã cung cấp cơ sở cần thiết nhất cho một cố gắng kiểm toán được phối hợp có hiệu quả và là sự thực hành chuẩn mực trong một tổ chức lớn điển hình được quản lý tốt.
1.2.3.8. Phân đoạn công việc kiểm toán
Trong khi việc lên kế hoạch trước giữa KTV bên ngoài và KTV nội bộ cung cấp cơ sở thiết yếu cho một nỗ lực phối hợp có hiệu quả thì những lợi ích của nó cũng sẽ đạt được một cách tốt nhất khi công việc kiểm toán - đã được lên kế hoạch trước - được phân chia theo cách phù hợp nhất với yêu cầu của hai nhóm nhân viên chuyên môn. Yêu cầu này sẽ chia công việc kiểm toán đã được lên kế hoạch sao cho mỗi nhóm có thể xử lý những phân đoạn công việc kiểm toán của mình bằng cách độc lập. Việc phân đoạn này đạt được nhờ sự phân công cho mỗi nhóm kiểm toán những trách nhiệm kiểm toán ban đầu đối với từng thiết bị sản xuất, phòng ban, bộ phận, công ty hay là những thủ tục nhất định. Với trách nhiệm ban đầu của mình, nhóm kiểm toán sẽ tiếp tục lên kế hoạch chi tiết hơn cho những nỗ lực kiểm toán đòi hỏi và triển khai kế hoạch đó với đội ngũ nhân viên của mình và sự giám sát của chính nó. Đồng thời, hồ sơ kiểm toán, báo cáo, tài liệu và các khuyến nghị cũng được chia sẻ theo cách đã được thoả thuận trước. Cũng vào thời gian ấy, công việc của KTV nội bộ sẽ tuỳ thuộc vào mức độ cần xem xét thêm khi cần phải đáp ứng yêu cầu của KTV bên ngoài tương ứng. Đây là một phần của việc hỗ trợ cho đánh giá cuối cùng của KTV bên ngoài đối với tính chính xác của báo cáo cuối năm của công ty.
1.2.3.9. Tổng hợp các báo cáo kiểm toán
Sự truy nhập của một nhóm kiểm toán này vào nhóm kia ở các lĩnh vực như các thủ tục kiểm toán, hồ sơ kiểm toán và báo cáo đã được thoả thuận. Mức độ và cách thức mà sự truy nhập này diễn ra đã trở thành những yếu tố chủ yếu của mọi cố gắng phối hợp giữa KTV nội bộ với KTV bên ngoài. Trong trường hợp kiểm toán nội bộ đã thực hiện rất tốt công việc của mình thì hồ sơ kiểm toán trở thành tài liệu chủ yếu cho cả hai nhóm kiểm toán. Trường hợp này KTV bên ngoài vốn có những tài liệu riêng của mình nhưng những tài liệu đó rất hạn chế về phạm vi. Những tài liệu này thường là những nhận xét của KTV bên ngoài với hồ sơ của KTV nội bộ và kết quả kiểm tra hạn chế thêm công việc của KTV nội bộ ở đằng sau những hồ sơ trên.
1.2.3.10. Lập báo cáo chung lên cấp cao hơn
Một khía cạnh đặc biệt quan trọng của một nỗ lực phối hợp có hiệu quả là khuynh hướng hướng tới việc báo cáo chung lên các cấp tổ chức ở cấp cao hơn. Những cấp trên này thường là những quản trị viên tập đoàn, uỷ ban tập đoàn hoặc ban giám đốc (gồm cả uỷ ban kiểm toán của nó). Báo cáo chung này bao gồm một phạm vi rộng. Ví dụ nó có thể dưới dạng thảo luận chung ở cấp độ tổ chức cao hơn với những báo cáo riêng của mỗi nhóm kiểm toán. Trường hợp khác nó có thể thông qua nhiệm vụ chung với cả hai nhóm giải quyết một câu hỏi mà cả hai có mối quan tâm chung. Hai nhóm kiểm toán khi đó có thể đưa ra một báo cáo chung duy nhất hoặc báo cáo riêng được phối hợp. Khi đó, nhóm nhận báo cáo - chẳng hạn như uỷ ban kiểm toán – không buộc một nhóm riêng nào giải quyết vấn đề đó mà để cho hai nhóm kiểm toán tự chọn cách phân chia và xử lý công việc kiểm toán.
1.2.3.11. Đánh giá chéo
Việc hai nhóm kiểm toán có chung một cơ sở kiến thức chuyên môn, đồng thời việc họ biết rất rõ công việc của nhau đã cung cấp cơ sở đáng kể cho sự đánh giá chéo có hiệu quả. Sự đánh giá của KTV bên ngoài đối với KTV nội bộ thể hiện qua sự tin tưởng với công việc của KTV nội bộ. Hơn nữa, lợi ích riêng của KTV bên ngoài khi kiểm toán nội bộ là tốt, kết hợp với khả năng tiếp cận của mình với cấp tổ chức bên trên đã giúp KTV nội bộ có được vị thế tốt hơn và tiềm lực trong tổ chức. Do đó KTV nội bộ nên khuyến khích việc đánh giá chéo của KTV bên ngoài và lợi dụng triệt để nó.
Sự đánh giá của KTV nội bộ với KTV bên ngoài cũng là không tránh khỏi và hữu dụng mặc dù có những sự khác biệt truyền thống. Trong một vài trường hợp KTV bên ngoài có thể quá coi thường khả năng hoặc thái độ đúng đắn của những ý kiến xây dung từ người ngoài và do đó không thật sự tán thành sự đánh giá của KTV nội bộ. Tuy nhiên, việc chấp nhận sự đánh giá chéo có tính xây dung là phù hợp hơn với cách tiếp cận theo kiểu quan hệ đối tác chuyên môn đã được thảo luận. Do vậy, có thể mong đợi rằng sẽ có nhiều hơn sự đánh giá chéo hai chiều. Điều này cũng đã được chấp nhận thực hành trong nhiều tổ chức lớn.
Như vậy, mối quan tâm chung của cả kiểm toán nội bộ lẫn kiểm toán bên ngoài đối với sự hoàn chỉnh của hệ thống kiểm soát kế toán nội bộ tạo ra một động lực đáng kể cho từng nhóm kiểm toán nhằm tiếp thêm nỗ lực hợp lý để đạt được nỗ lực hợp tác hiệu quả. Sự phối hợp hiệu quả là điều có ý nghĩa đối với các bên có liên quan. Đồng thời, sự phối hợp hiệu quả cũng quan trọng trong việc thoản mãn mối quan tâm chung của tổ chức. Thách thức dối với các bên là nhận thức được và ủng hộ các nhân tố đóng góp vào việc đạt được sự phối hợp hiệu quả; hiểu được mục tiêu chủ yếu của mỗi nhóm kiểm toán trong khi tạo dung lên những mối quan tâm chung chắc chắn làm cơ sở cho việc đạt tới những mục tiêu đó.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG KTNB TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ SỰ PHỐI HỢP VỚI KIỂM TOÁN VIÊN BÊN NGOÀI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Sự cần thiết phát triển KTNB trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay
Kiểm toán nội bộ là hoạt động kiểm toán được tiến hành trong phạm vi doanh nghiệp, do người của doanh nghiệp thực hiện để phục vụ cho các yêu cầu quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính của bản thân doanh nghiệp. Với mục tiêu như vậy, đặc biệt là trong cơ chế quản ếy tài chính hiện nay - DNNN được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính đến mức cao nhất - thì KTNB càng là một đòi hỏi cấp bách đối với tất cả các DNNN.
Theo Nghị định số 59/1996/NĐ-CP ra ngày 3/10/1996 của Chính phủ, từ năm 1997 cơ quan quản lý tài chính các cấp sẽ không tiến hành kiểm tra phê duyệt quyết toán sản xuất kinh doanh hàng năm của các DNNN. Các DNNN phải công khai báo cáo tài chính và chịu trách nhiệm về các số liệu, chỉ tiêu đã công bố. Đây là một quy định nhằm nâng cao tính tự động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các DNNN nhưng đồng thời cũng gây không ít khó khăn, lúng túng cho họ. Từ trước năm 1997, sau khi quyết toán năm được duyệt, lãnh đạo doanh nghiệp hoàn toàn yên tâm về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, về các mặt hoạt động và các giải pháp tài chính trong năm vì đã được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước xác nhận. Mọi sai sót, vi phạm của doanh nghiệp cũng đã được giải quyết hoặc xoá bỏ thông qua việc duyệt quyết toán. Chính vì vậy, trong điều kiện không còn kiểm tra phê duyệt quyết toán hàng năm, KTNB với chức năng kiểm tra, xác nhận tính trung thực và hợp lí, hợp pháp của các thông tin trong báo cáo tài chính sẽ giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp bớt lúng túng, yên tâm hơn khi ký các báo cáo tài chính và công khai báo cáo tài chính theo cơ chế mới về quản lý tài chính DNNN.
Ở Việt Nam hiện nay mô hình Hội đồng quản trị ở các Tổng công ty được thành lập theo nghị định 90/CP và 91/CP có khác so với các nước. Trong mỗi Tổng công ty nhà nước còn có Ban kiểm soát trực thuộc Hội đồng quản trị. Ngoài các thành viên chuyên trách, Hội đồng quản trị còn có một số thành viên kiêm nhiệm. Trong Ban kiểm soát, ngoài Trưởng ban kiểm soát, phần lớn các uỷ viên và các thành viên kiêm nghiệm, có thành viên không tuộc tổng công ty. Với bộ máy như vậy, ban kiểm soát khó lòng thực hiện các nhiệm vụ và trách nhiệm theo quy định của nhà nước mới được ban hành theo điều lệ mẫu của Tổng công ty nhà nước. Vì vậy ở các DNNN trước hết là các Tổng công ty cần thiết phải tổ chức bộ phận KTNB giúp chủ doanh nghiệp điều hành và quản lí mọi mặt hoạt động, đó là một nhu cầu cần thiết và nên làm vì sự phát triển của doanh nghiệp.
2.2. Thực trạng hoạt động KTNB và sự phối hợp với KTV bên ngoài ở nước ta trong thời gian qua
Kiểm toán nội bộ có vai trò quan trọng và cần thiết nhưng những hiểu biết của chúng ta về lĩnh vực này còn quá ít so với kiểm toán Nhà nước và kiểm toán độc lập. Trên thực tế, hầu như có rất ít các công trình hay đề tài nghiên cứu khoa học một cách hệ thống và sâu sắc về KTNB .Trong điều kiện đó, vướng mắc về nhận thức là lẽ đương nhiên, việc triển khai thực hiện hoạt động KTNB ở các doanh nghiệp lại càng lúng túng.
Trong thời gian vừa qua, ở Việt Nam đã xuất hiện những nhu cầu và điều kiện cần thiết cho việc thiết lập hệ thống KTNB trong các đơn vị. Tuy nhiên vì là giai đoạn đầu nên việc hình thành mới được rất ít và chậm chạp, chủ yếu tập trung ở các tổng công ty lớn, các doanh nghiệp có qui mô lớn. Hơn thế nữa, KTNB bước đầu còn gặp nhiều khó khăn trong công tác tổ chức và hoạt động, bộ phận KTNB còn quá mỏng manh so với cả một khối lượng công việc khổng lồ.
Có thể thấy rằng hiện nay hệ thống KTNB ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển mà vẫn ở giai đoạn hình thành và hoàn thiện. Lực lượng kiểm toán viên còn quá ít, hệ thống chính sách, qui chế về KTNB chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu kiểm toán của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động chưa cao. Mặc dù vậy, hiện nay Nhà nước ta đang khuyến khích các DNNN hình thành bộ phận KTNB trong doanh nghiệp. Theo điều 36, chương 5, nghị định số 59/1996/NĐ-CP ngày 3/10/1996 qui định : “Doanh nghiệp tự tổ chức kiểm toán nội bộ báo caó tài chính của mình hoặc thuê kiểm toán độc lập nếu thấy cần thiết” chính là nhằm tạo cho DNNN cơ hội lựa chọn việc có nên tổ chức bộ phận KTNB trong doanh nghiệp hay không. Mặt khác giữa thực trạng phát triển KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay và nhu cầu đòi hỏi của nhà nước về khía cạnh pháp lý còn có một số mâu thuẫn.
Về việc phối hợp giữa KTV nội bộ với KTV bên ngoài, ở nước ta hiện nay, tầm quan trọng cũng như hiệu quả của hoạt động này chưa được đánh giá đúng mức nên việc phối hợp thực hiện không chặt chẽ và không đạt được đúng mục tiều của sự phối hợp; phối hợp mới chỉ dừng lại ở việc KTV nội bộ cung cấp tài liệu cho KTV bên ngoài, giữa KTV nội bộ và KTV bên ngoài chưa có hoạt động lập kế hoạch chung để hoà hợp các hoạt động kiểm toán của hai nhóm với nhau; hoạt động tổng hợp các báo cáo kiểm toán với nhau cũng chưa phát huy được tác dụng của nó…
Như vậy, xét về thực trạng phát triển KTNB trong các DNNN ở Việt Nam thì chúng ta thấy rõ rằng KTNB vẫn đang ở trong giai đoạn hình thành và phát triển, việc thí điểm mới chỉ dừng lại ở các Tổng công ty, các doanh nghiệp có qui mô lớn. Việc hình thành mô hình KTNB nói chung còn gặp nhiều khó khăn, lúng tong, do đó chưa khai thác hết hiệu quả của sự phối hợp với kiểm toán viên bên ngoài. Tuy nhiên, việc phát triển hệ thống KTNB trong các DNNN ở nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường là một đòi hỏi cần thiết và tất yếu vì sự tồn tại và hưng thịnh của chính các DNNN trong cơ chế thị trường canh tranh khốc liệt.
2.3. Những khó khăn chính trong việc tổ chức hoạt động KTNB
• Về mặt pháp lý
Tại Việt Nam, khái niệm KTNB mới chính thức xuất hiện kể từ khi Chính phủ ban hành nghị định số 59/1996/ND-CP ngày 03 tháng 10 năm 1996 về “Quy chế quản lí tài chính và hạch toán kinh doanh đối với các DNNN”. Theo đó các báo cáo tài chính của các DNNN buộc phải được kiểm toán bởi kiểm toán viên độc lập hoặc kiểm toán viên nội bộ. Trên cơ sở nghị định 59/ CP này, Bộ tài chính đã ban hành quyết định số 832
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kiểm toán nội bộ và sự phối hợp giữa kiểm toán viên nội bộ với kiểm toán viên bên ngoài.DOC