MỤC LỤC
Trang
A. Mở đầu 1
B. Nội dung 3
I- Một số vấn đề lý luận về kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. 4
1. Khái niệm. 5
2. Cơ sở hình thành kinh tế nhà nước . 5
3. Đặc điểm. 6
4. Tính tất yếu tồn tại và phát triển kinh tế nhà nước. 6
5. Kinh tế nhà nước và các bộ phận của nó 7
6. Kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác. 8
II. Thực trạng kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. 10
1. Quá trình đổi mới kinh tế nhà nước trong thời gian qua . 10
2. Thành tựu của kinh tế nhà nước. 12
3. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước. 13
III. Định hướng và các giải pháp tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong thời gian tới. 16
1. Nâng cao vai trò của thành phần kinh tế nhà nước. 16
2. Với doanh nghiệp nhà nước. 18
Kết luận 26
Tài liệu tham khảo 27
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1630 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kinh tế Nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước và các bộ phận của nó
5.1. Doanh nghiệp nhà nước.
Khái niệm: DNNN là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoặc doanh nghiệp cổ phần trong đó vốn nhà nước chiếm một tỷ trọng nhất định chi phối.
Doanh nghiệp nhà nước là nhân tố giữ tỷ lệ cao nhất và vai trò quan trọng nhất trong việc đảm bảo cho KTNN giữ dược vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy khi đề cập đến vai trò chủ đạo của KTNN thì người ta thường đề cập đến DNNN là chủ yếu.
5.2. Tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
Các tài sản thuộc sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước) được xem là thành phần kinh tế nhà nước. Khi nhà nước nhận được lợi ích kinh tế do quyền sở hữu mang lại như đất đai, tài nguyên thiên nhiên…đối với tài sản sở hữu toàn dơn như đất đai thì nhà nước chỉ là người đại diện, còn quyền sử dụng thuộc về hộ gia đình, hợp tác xã sự tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng đã làm đa dạng hoá thị trường cho phép mọi người có quyền mua bán chuyển nhượng đất…nhà nước chỉ thu thuế, lệ phí từ việc trao quyền sử dụng cho các thành phần kinh tế.
5.3. Doanh nghiệp nhà nước góp vốn (những nắm số cổ phiếu không chế).
Với loại hình doanh nghiệp này nhà nước là chủ sở hữu nhưng chưa hẳn việc kinh doanh sản xuất là do thành phần KTNN, mà có thể do nhiều thành phần kinh tế khác trực tiếp sản xuất kinh doanh. Nhưng quyền quyết định vẫn thuộc về nhà nước, quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
6. Kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác.
6.1. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước .
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được thể hiện ở sự đóng góp vào GDP của nó trên 40% GDP hàng năm, chiếm 3/4 tài sản quốc gia là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước làm nhiệm vụ định hướng xã hội chủ nghĩa. Đi đầu trong hoạt động đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn kinh doanh phức tạp và giải quyết các vấn đề xã hội; nắm giữ vai trò lãnh đạo nền kinh tế, bảo đảm quốc phòng an ninh, làm trọng điểm đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước; tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế cao trên thị trường trong và ngoài nước trên cơ sở phát huy lại thế so sánh của hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam; nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội trong sản xuất kinh doanh. Phát huy lợi thế đặc thù như cơ chế vốn ưu đãi chính phủ...như vậy thành phần kinh tế nhà nước chối các thành phần kinh tế khác làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc tính của mình (tức là dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo đính hướng XHCN) tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế hàng hoá, chiếm giữ các ngành kinh tế then chốt và trọng yếu của xã hội; làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội. Do đó việc xác định vai trò chủ đạo của KTNN là thực sự cần thiết cho phát triển kinh tế quốc dân bền vững, đúng theo chủ chương đường lối.
6.2. Quan hệ giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác .
Trong nền kinh tế thì không được phát triển mất cân đối thành phần kinh tế nào đặc biệt chúng ta xác định vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước nhưng không thể quá coi trọng vào phát triển nó mà bỏ qua các thành phần kinh tế khác bởi vì: Mỗi thành phần kinh tế là một hệ thống có phương án kinh doanh riêng rất khác nhau về nội dung, chỉ tiêu và các bước đi để thích ứng một cách nhanh nhạy, chính xác với mọi biến đổi về nhu cầu của xã hội. Do vậy mỗi thành phần kinh tế đều có vị trí và vai trò riêng trong quá trình phát triển kinh tế nhưng mặt khác sức mạnh cá biệt của từng thành phần chỉ có thể phát huy được trong những điều kiện cụ thể trong những lĩnh vực nhất định nghĩa là nếu chúng tồn tại biệt lập thì mỗi thành phần kinh tế không có khả năng khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực và tài lực ở từng ngành và từng vùng nhất định.
Nhu cầu khai thác triệt để mọi triềm năng của đất nước, gắn liền phát triển sản xuất với phát triển xã hội, gắn giải quyết việc làm ổn định và cải thiện đời sống nhân dân… Quy định sự hiệp tác giữa các thành phần kinh tế ở đâu và khi nào còn tồn tại nhu cầu này thì quan hệ giữa các thành phần kinh tế còn tồn tại. Toàn bộ những quan hệ này hợp thành cấu trúc của hệ thống kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế một mặt vừa kết hợp cho nhau, vừa bổ sung cho nhau và do đó gắn với yếu tố truyền thống đã được chọn lọc trong quá trình phát triển xã hội với yếu tố hiện đại, gắn các trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất tạo thành lực lượng sản xuất như chúng ta nhận thức được mối quan hệ này thì mới tạo được sự phát triển cân bằng, ổn định và vững chắc được.
6.3. Việc phát huy tính liên kết và tính chủ đạo của kinh tế nhà nước trong thời kỳ hội nhập.
a. Sự cần thiết.
Thời kỳ hội nhập và mở cửa nền kinh tế là tất yếu đối với chúng ta vì chỉ có hội nhập và mở cửa thì chúng ta mới giao lưu kinh tế, phát triển các mối quan hệ hàng hoá đi các nước khác tạo môi trường cạnh tranh mới thúc đẩy sự phát triển việc trao đổi hàng hoá không thể bó hẹp mà phải mở rộng ra các nước khác . Như vậy trong quá trình hội nhập thì chúng ta lại càng phải cần thiết liên kết các thành phần kinh tế bởi vì các thành phần kinh tế khác nhau sẽ độc lập nhau trong quan hệ giao lưu và điều này rất dễ dẫn đến sự thay đổi trong định hướng xã hội chủ nghĩa và dần dần sẽ dẫn đến sự thay đổi của nền kinh tế tổng thể…
b. Nội dung.
Phát huy vai trò điều tiết định hướng của kinh tế nhà nước, phải quan sát các hoạt động giao lưu phát triển kiểm tra xác nhận cho tồn tại các quan hệ kinh tế phát triển không gây ảnh hưởng đến tính xã hội chủ nghĩa bằng những cơ chế chính sách thích hợp và vai trò chủ đạo của mình. KTNN phải đi tiên phong trong quá trình hội nhập kinh tế nên phải phát triển thật vững chắc thành phần kinh tế nhà nước; đặc biệt là DNNN…
II. Thực trạng kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
1. Quá trình đổi mới kinh tế nhà nước trong thời gian qua .
1.1. Bức tranh doanh nghiệp nhà nước (năm 1996).
Tình hình phát triển chung của các ngành .
- Sản lượng mía ước khoảng 7,6 triệu tấn. Mặc dù các nhà máy đã tận dụng hết công suất ép mía, nhưng vẫn không tiêu thụ hết. Giá mía có lúc xuống rất thấp gây khó khăn cho người sản xuất.
- Gây ứ đọng khối lượng lớn.
+ Tổng công ty giấy Việt Nam tồn kho 10.000 tấn giấy
+ Công ty giấy Bãi Bằng tồn kho 7.500 tấn, tồn đọng 60.000 m3 gỗ nguyên liệu dùng sản xuất giấy. Các nhà máy giấy đã phải giảm giá, hai nhà máy giấy phía Nam phải tạm đình chỉ sản xuất.
- Sản xuất phân bón gặp khó khăn, theo số liệu của Tổng công ty phân bón và hóa chất Việt Nam.
+ Nhà máy phân đạm Hà Bắc tồn đọng 20.000 tấn
+ Nhà máy phân đạm Ninh Bình tồn đọng 18.000 tấn
+ Nhà máy phân Lâm Thao tồn đọng 29.000 tấn
+ Nhà máy phân Long Thành tồn đọng 12.000 tấn.
- Thép và xi măng cũng là 2 mặt hàng bị tồn đọng khối lượng lớn.
- Một số sản phẩm khác như cao su, cà phê, gạo do thị trường thế giới giảm giá nên tiêu thụ chậm., ảnh hưởng đến sản xuất .
- Mặc dù năm 1996, có nhiều yếu tố bất lợi ; khu vực DNNN nói riêng vẫn có bước phát triển nhất định. Nhiều ngành có tốc độ tăng trưởng 14% như điện, bia, vải, thép cán và tốc độ tăng của toàn ngành CN có thể đạt 14% như mục tiêu đặt ra.
1.2. Những sự đổi mới trong doanh nghiệp nhà nước
a. Về cổ phần hóa
Kết thúc năm 1996 cả nước có thể có 5 DNNN chuyển sang công ty cổ phần là XN đóng mới tầu thuyền Bình Định , công ty ong mật TPHCM; XN khai thác đá Đồng Giao và liên hiệp sản xuất đồ mộc HN.
Tuy nhiên con số 10 công ty cổ phần vẫn là con số khiêm tốn. Từ (1999-2001). Số lượng DNNN đã giảm đi rất mạnh từ 12300 trước đơy còn 3571 doanh nghiệp.
b. Đổi mới cơ chế quản lý tài chính.
Chúng ta đã chuyển từ cơ chế quản lý tài chính theo biểu quan hiện bao cấp sang cơ chế tự chủ tài chính và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, chấm dứt tình trạng can thiệp qúa sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN của các bộ quản lý, ngành và các bộ chức năng. Sửa đổi quy chế tài chính và hạch toán với DNNN, ban hành theo Nghị định 50/CP. Thiết lập một số loại hình công ty mới.
1.3. Đổi mới trong các tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
Về cơ bản tài sản thuộc sở hữu nhà nước thì chúng ta không có sự thay đổi gì đáng chú trọng chỉ có sự thay đổi một số chính sách, cơ chế quản lý chưa thích hợp đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
2. Thành tựu của kinh tế nhà nước.
2.1. Thành tựu đạt được.
Thời kỳ 1991-1995, tốc độ tăng trưởng của các DNNN bình quơn theo GDP là 11,7% bằng 1,5 lần tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế và bằng 2 lần tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc doanh. từ năm 1990 đến nay do ảnh hưởng của khoảng kinh tế khu vực và thế giới cùng những thiên tai liên tiếp xảy ra thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế giảm dần, tỷ trọng tổng sản phẩm của DNNN trong GDP tăng 33,3% năm 1991 lên 40,07% năm 1996 và 41,23% năm 1998. tỷ lệ nộp vốn ngơn sách trên vốn nhà nước năm 1993 là 6,8% và năm 1999 là 12,31%. Năm 1999 các doanh nghiệp làm 40,2% GDP trên 50% giá trị xuất nhập khẩu, đóng góp 39,2%.
Ngân sách nhà nước, từ năm 1995 đến nay hàng năm DNNN đóng góp từ 26-28% nguồn thu thuế nội địa.
Các công ty quy mô lớn chiếm 24,8% tổng số DNNN nhưng năm giữ 65% tổng số vốn và 61% số lao động , trình độ công nghệ quản lý có tiến bộ .
2.2. Những tồn tại và nguyên nhơn của tồn tại kinh tế .
Bên canh những thành tích đã đạt được của kinh tế nhà nước thì vẫn còn những hạn chế nhất định có thể.
Sự mỏng manh chưa vững chắc trong vai trò chủ đạo của KTNN thể hiện ở sự quy hoạch, đầu tư, đào tạo bố trí và sử dụng cán bộ hiện ở sự quản lý, ở đào tạo và tuyển dụng lao động, ở sự ỷ lại trông chờ vào sự ban phát từ bên trên, ở sự kém năng động và thiếu tính quyết đoán trong các quyết định quản lý do có nhiều tầng từ trên can thiệp…
Đảng là những lực cản gơy ra sự yếu kém, trì trệ ít hiệu quả của KTNN.
- Tình trạng vô chủ vẫn còn tồn tại mặc dù ta đã phơn biệt rõ ràng các quyền năng sử dụng, sở hữu, định đoạt và hưởng lợi.
- Sử dụng lãng phí công sản nhà nước, quản lý lỏng lẻo, vô trách nhiệm ỷ lại vào sự đầu tư của Nhà nước, đánh quả, chớp giật, móc ngoặc vẫn còn tồn tại.
- Sự kiểm soát của Nhà nước và tập thể người lao động chưa được triển khai đồng bộ và thực sự có hiệu quả.
3. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước.
3.1. Quy mô tổ chức.
Chỉ tính 10 năm (1990-2000) chúng ta đã 3 lần thực hiện việc cải cách đổi mới DNNN. Lần thứ nhất thực hiện vào những năm 1990-1993 với mục đích tổ chức lại sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quốc doanh. lần thứ 2 từ năm 1994-1997, chúng ta dã thành lập 18 tổng công ty (91) và 77 tổng công ty (90) lần thứ 3 chúng ta thực hiện cổ phần hoá các DNNN và ngay sau đó là việc giao bán, khoán và cho thuê các DNNN.
- Năm 2000 so với 1990 quy mô của các DNNN đã giảm từ 12300 doanh nghiệp xuống còn 5280, những doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm 70,1%.
Tuy vậy, cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế như việc doanh nghiệp hoạt động chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý. Còn các doanh nghiệp cùng thuộc một ngành thì phơn bố rất phơn tán, manh mún thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau.
3.2. Kỹ thuật và công nghệ.
Kỹ thuật và công nghệ là một trong những yếu tố hết sức quan trọng để phát triển nhanh nền kinh tế. Đối với kinh tế nhà nước hiện nay trình độ khoa học công nghệ nước ta nhìn chung còn lạc hậu, thấp kém. So với các nước trong khu vực chúng ta còn kém xa.
Cùng với quá trình tiếp nhận và chuyển giao công nghệ kinh tế nhà nước ậ nước ta còn đang xây dựng cho mình chiến lược phát triển mang tính tổng thể, lâu dài bao gồm nghiên cứu, ứng dụng…và thử nghiệm …hiện nay đã có nhiều ngành thuộc kinh tế nhà nước có những loại sản phẩm có sức cạnh tranh cao trong nước và quốc tế như: dệt may, chế biến thuỷ sản, hải sản. kinh tế nhà nước đang hướng vào những ngành, lĩnh vực có trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại như : tin học, sinh học, vật hiện mới, tự động hoá.
Những tồn tại trong chuyển giao công nghệ chủ yếu là nhập khẩu phải những công nghệ quá cũ kỹ, lạc hậu kém chất lượng của nước ngoài nên trở thành “bãi thải” công nghiệp của các nước phát triển.
3.3. Tổ chức quản lý.
Như chúng ta có thể nói đã có cuộc cách mạng trong mô hình tổ chức kinh tế xã hội của nền kinh tế. Chúng ta đã cơ bản chuyển được các DNNN từ chỗ là một phơn xưởng trong xí nghiệp kinh tế quốc doanh sang vai trò một pháp nhơn có quyền tổ chức và kinh doanh hàng hoá độc lập. Tuy nhiên, cơ chế quản lý mới còn vướng ở một số điểm như cơ chế thực khi sở hữu nhà nước vẫn chưa tỏ ra chưa hiệu quả do vẫn tồn tại các mảnh của chế độ chủ quản hành chính trước kia như duyệt dự án đầu tư mới, bổ nhiệm cán bộ chủ chốt, kiểm tra quyền tự chủ quá rộng rãi của doanh nghiệp do đó dẫn đến doanh nghiệp vừa làm vừa phải lo lắng. Mặt khác cơ quan nhà nước vẫn muốn can thiệp sâu vào hoạt động của doanh nghiệp.
Thực tế vừa qua những vụ án doanh nghiệp nhà nước trên nước ta là minh chứng trong khi những dự án hoàn toàn không mang tính khả thi thế mà vẫn được Bộ chủ quản duyệt, sự thất thoát tài sản nhà nước ở doanh nghiệp nhà nước không một cơ quan nào gánh chịu còn thành tích thì ai cũng nhận là công của mình, đây là một tồn tại đang xẩy ra ở nước chúng ta, việc tổ chức quản lý không chặt chẽ sẽ dẫn đến tình trạng biến công quỹ nhà nước thành của riêng như lương thưởng cho cán bộ, nhơn viên…như vậy, tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước ở nước ta còn thấp, kém hiệu quả cần phải có sự cải cách thật sự thoả đáng, hợp lý thì mới làm ăn có hiệu quả được…
*. Hiệu quả.
Sự phát triển của nền kinh tế hay không thì được đánh giá ở hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh có tạo ra lợi nhuận thực sự hay không DNNN cũng vậy phải hoạt động có hiệu quả thì mới thúc đẩy kinh tế nhà nước phát triển. Thực trạng về hiệu quả của các DNNN ở nước ta :
- Theo đánh giá chung thì hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh trạnh của doanh nghiệp nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được…mức độ tăng trưởng của DNNN có biểu hiện giảm dần; nợ khó đòi ngày càng lớn. DNNN vẫn còn ỷ lại vào sự bao cấp của nhà nước mới chỉ có 40% DNNN sản xuất thực sự có hiệu quả, 40% chưa hiệu quả, khi lỗ, khi lãi, không ổn định, còn lại 20% thực sự không có hiệu quả thua lỗ liên tục. Thuế thu nhập của doanh nghiệp còn chiếm tỷ trọng thấp nộp ngơn sách nhà nước (chiếm 14,2% năm 1999); tỷ suất lợi nhuận trước thuế có xu hướng giảm dần từ 11,2% (năm 1996 ) xuống còn 9,3% (1991), 9,1% (1998) và 9,2% (1999). Không ít DNNN chưa xây dựng xây và thực hiện có kế hoạch sản xuất kinh doanh, kinh doanh gắn với mục tiêu chung của toàn ngành chưa xuất phát từ nhu cầu thị trường, nhiều dự án đầu tư không khả thi hiệu quả thấp, lãng phí, phát sinh việc tiêu cực, tham nhũng, mòn vốn, mất vốn tiếp tục xẩy ra. Nợ quá hạn, nợ khó đòi chẳng những không giảm mà ngày càng tăng. Tình trạng tài chính không lành mạnh không được sử lý dứt khoát làm cho không hoạch toán được chính xác, hiệu quả hoạt động không đáng với đầu tư , trợ giúp của nhà nước.
3.4. Cơ hội và thách thức.
Hội nhập đang là xu hướng tất yếu như thế thì thời gian này DNNN thực sự đứng trước những cơ hội phát triển và đồng thời là những thách thức thực sự cực kỳ lớn. Sức ép cạnh tranh từ doanh nghiệp nước ngoài và thành phần kinh tế khác là rất mạnh và gay gắt nhất là khi chúng ta gia nhập AFFTA ASEAN và sau khi hiệp định tự do thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực. Đơy là cơ hội làn gió mới sẽ mang tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển DNNN, muốn phát triển thì phải cạnh tranh thành công vượt qua sự đào thải của thị trường cơ hội cho DNNN tự khẳng định mình trên thương trường và sẽ đào thải những DNNN làm ăn không có hiệu quả. Thách thức lớn đối với chúng ta là phải cạnh tranh với những đối thủ lớn thực sự, họ có trình độ khoa học công nghệ cao hơn ta…
Điều quan trọng là phải biết phát huy lợi thế của ta như nhơn công, nguyên nhiên liệu rẻ và kết hợp với đào tạo tiếp thu những kinh nghiệm của các nước; giá cả và chất lượng là hai yếu tố quan trọng nhất của hàng hoá, hiện nay chúng ta có những mặt hàng về giá cả và chất lượng đều hơn hàng ngoại như vậy cần phẩi phát huy những mặt hàng này nhưng cũng tìm cách cải cách những mặt hàng còn kém hàng ngoại nhập…
III. Định hướng và các giải pháp tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong thời gian tới.
1. Nâng cao vai trò của thành phần kinh tế nhà nước.
a. Định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng nền kinh tế phát triển đúng hướng XHCN thì đòi hỏi phải có sự quản lý cuả nhà nước đối với các hoạt động kinh tế hàng nhập khẩu: kinh tế nhà nước,với lực lượng kinh tế luôn được nhà nước chú trọng về khơu đào tạo cán bộ có ý thức về pháp luật, do đó trong giai đoạn tới đương nhiên kinh tế nhà nước phải là thành phần kinh tế gương mẫu để các thành phần kinh tế khác noi theo, với tư cáchlà lực lượng đi đầu trong quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới .định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện ậ : xơy dựng cơ chế chính sách hợp lý bảo đảm sự hoạt động của thành phần kinh tế nhà nước là vì mục tiêu quốc gia, vì sự nghiệp CNXH , đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý vững lý lụơn chính trị, giỏi chuyên môn, yêu tổ quốc xã hội chủ nghĩa, cống hiến hết mình cho sự nghiệp xơy dựng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hội nhập phải tăng cường kíêm nhơn tài, nơng cao hiệu lực quản lý. Loại bỏ trừng trị những sự chống phá xá hội chủ nghĩa dập tắt ơm mưu thù dịch tư bản hóa xã hội…
b. Đội ngũ cán bộ.
Là những người quản lý, điều hành được nhà nước giao trách nhiệm trước tiên phải là những người yêu nước, yêu Đảng, yêu tổ quốc xã hội chủ nghĩa mà điều này đòi hỏi phải được rèn luyện, học hỏi, tiếp thu… phải thường xuyên phê bình kiểm điểm lại những gì làm và chưa làm được thông qua các kỳ họp, đại hội.
Cán bộ phải là người gương mẫu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trong sạch về lối sống, có kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn sáng tạo trong công tác bám sát hơn.
Định hướng: Có cơ chế chính sách phát hiện đào tạo và bồi dưỡng cán bộ từ các cấp, trọng dụng những người có đức có tài, xoá bỏ tình trạng kéo bè, kéo cánh phơn chia đảng phái gơy mơu thuẫn nội bộ thực hiện đúng nguên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác quản lý cán bộ đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức chính trị về công tác cán bộ. Xây dựng chỉnh đống hệ thống các học viện trường và trung tâm chính trị nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo bồi dưỡng cán bộ.
c. Xác định cơ chế thực hiện quyền sở hữu
Sở hữu là quan hệ kinh tế luôn ở trạng thái vận động, đối tượng của sở hữu cũng luôn biến đổi việc xác định cơ chế thực hiện quyền sở hữu là rất quan trọng nó phân định rõ ràng vai trò chủ đạo của sở hữu, xoá bỏ nhầm lẫn cho rằng phải xoá bỏ mọi hình thức không phải là sở hữu của chế độ xã hội chủ nghĩa. Cơ chế thực hiện quyền sở hữu đó là sở hữu đó là bằng pháp luật của nhà nước,vận dụng vào cho doanh nghiệp, tổ chức thấy được quyền lợi và nghĩa vụ của mình thực tại ở ta quan niệm sở hữu còn mơ hồ nhiều khi không xác định được nó thuộc hình thức sở hữu nào dẫn đến khi vận dụng vào thực tế làm nảy sinh hàng loạt vấn đề rất khó giải quyết đặc biệt với những loịa tài sản thuộc sở hữu nhà nước…
Vấn đề định hướng ở đây là phải xây dựng một hệ thống luật pháp đầy đủ và hoàn chỉnh quy định rõ quyền sở hữu cho các thành phần kinh tế dặc biệt với thành phần kinh tế nhà nước (vì sở hữu là cội nguồn của chế độ xã hội chủ nghĩa).
Làm rõ hơn các quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt và hưởng lợi khắc phục tình trạng vô chủ hoặc biến tài sản do nhà nước sở hữu thành tài sản của bộ phận quản lý ở doanh nghiệp, song không lại không làm mất đi tính tự chủ của doanh nghiệp, không cản trở tính năng động của đội ngũ cán bộ quản lý ở doanh nghiệp, phân định rõ chức năng quản lý kinh tế với chức năng quản lý tài sản của nhà nước với quản lý kinh doanh của doanh doanh nghiệp.
2. Với doanh nghiệp nhà nước.
2.1. Định hướng đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước.
*. Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực độc quyền nhà nước, bao gồm: vật liệu nổ, hóa chất độc, chất phóng xạ, hệ thống truyền tải điện quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia, sản xuất thuốc lá điếu. Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong các ngành và lĩnh vực: bán buôn lương thực, bán buôn tăng dần, sản xuất điện khai thác khoáng sản quý hiếm quan trọng sản xuất một số sản phẩm cơ khí điện tử, công nghệ thông tin, sản xuất kim loại đen, kim loại màu, sản xuất hóa chất cơ bản, phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, sản xuất xi măng công nghiệp xây dựng, sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghệ thực phẩm quan trọng, sản xuất hóa dược thuốc chữa bệnh vận tải hàng không, đường sắt, viễn dương, kinh doanh tiền tệ, bảo hiểm, xổ số kiến thiết, chủ yếu là doanh nghiệp có quy mô lớn, có đóng góp lớn cho ngân sách, đi đầu cho việc ứng dụng công nghệ mũi nhọn công nghệ cao và góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô. Những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào nông thôn, đồng bào các dân tộc miền múi xa xôi hẻo lánh.
2.2. Cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Những năm gần đây, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước DNNN) gặp nhiều khó khăn, qua 6 tháng đầu năm 1999, tình hình đó càng rõ rệt và đáng lo ngại. Để các DNNN thực sự phát huy vai trò trong quá trình đổi mới và phát triển của đất nước, việc nghiên cứu các chính sách, giải pháp phù hợp trong cải cách DNNN, góp phần phát huy sức mạnh nội lực của nền kinh tế là hết sức cần thiết và cấp bách. Bài viết dưới đây phân tích một số kinh nghiệm cải cách DNNN trong nền kinh tế chuyển đổi và một số giải pháp, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN ở Việt Nam, tạo đà phát triển mới.
* Một số kinh nghiệm cải cách DNNN trong nền kinh tế chuyển đổi
Từ đầu thập kỷ 90 đã diễn ra một quá trình chuyển đổi mạnh mẽ nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường ở một số nước Đông Âu, Liên Xô (nay là các SNG và CHLB Nga) và một số nước châu á. Do điều kiện cụ thể và mức độ tập trung hóa của nền kinh tế mà mỗi nước có hình thức và bước đi khác nhau trong quá trình chuyển đổi, nhưng nhìn chung trong giai đoạn đầu, các nước này đã thực thi một trong hai chiến lược, được khái quát hóa lại thành 2 mô hình sau: mô hình liệu pháp sốc và mô hình chuyển đổi dần dần. Ngoài 2 mô hình trên, còn một hình thức chuyển đổi đặc biệt hơn ở Đông Đức (CHDC Đức cũ). Dựa trên các sức mạnh về tài chính, thị trường, đội ngũ quản lý và hệ thống pháp luật sẵn có của Cộng hòa liên bang Đức, quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở Đông Đức được tiến hành theo hình thức liệu pháp sốc, nhưng dựa trên tổng cung, tổng cầu và mức tăng trưởng kinh tế trên toàn Liên bang để điều chỉnh mục tiêu cải cách. Mặc dù quá trình chuyển đổi này có hiệu quả, nhưng do tính đặc thù của nó mà mô hình này cho đến nay vẫn ít được chú ý đến.
Các nước Đông Âu , SNG và CHLB Nga đều chuyển đổi theo mô hình liệu pháp sốc, còn một số nước châu á thì thực hiện quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo chiến lược dần dần, từng bước vững chắc.
Dù lựa chọn theo chiến lược nào, các nước có nền kinh tế chuyển đổi vẫn phải giải quyết những nhiệm vụ chung đặt ra cho quá trình này. Một trong những nhiệm vụ đó là cải cách các DNNN đang hoạt động theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường. Nội dung đặt ra cho cải cách DNNN là hoạt động có hiệu qủa trong cơ chế thị trường, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Với nội dung này cải cách DNNN là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, quyết định sự thành công của quá trình chuyển đổi nền kinh tế.
Trong giai đoạn đầu, các nước tiến hành theo mô hình liệu pháp sốc đều nhanh chóng tư nhân hóa mạnh mẽ các DNNN. Họ cho rằng việc tư nhân hóa trên toàn xã hội. Các doanh nghiệp sau khi tư nhân hóa sẽ nhận được tài trợ mạnh mẽ của các nước phương Tây cho quá trình này.
Kết quả thực tế ậ một số nước chuyển đổi theo mô hình này lại trái ngược với sự mong đợi của các nhà cải cách cũng như hy vọng của chính nhân dân các nước này. Có thể rút ra một số đánh giá chủ yếu như sau: do tư nhân hóa quá nhanh các DNNN đã dẫn đến hậu quả không lường trước là sản xuất công nghiệp nhanh chóng bị đình đốn, giảm sút và rối loạn; các sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ nhân dân trở nên khan hiếm: lạm phát, thất nghiệp tăng lên, đời sống đa số người lao động trở nên hết sức khó khăn; do không ổn định cả về chính trị, kinh tế, xã hội, đầu tư trên toàn xã hội không tăng mà lại giảm. Hy vọng vào sự xuất hiện các doanh nghiệp tư nhân hoạt động có hiệu quả để bù đắp sự thiếu hụt này đã không thể diễn ra trong phút chốc mà đòi hỏi thời gian và quá trình tích lũy kinh nghiệm kinh tế thị trường lâu dài hân, viện trợ và giúp đỡ của phương Tây lại không nhằm khôi phục sản xuất, phục hồi nền công nghiệp và không đáp ứng được như mong đợi, việc nhập khẩu phần lớn hàng tiêu dùng từ các nước viện trợ lại góp phần gây thêm khó khăn cho những xí nghiệp, nhà máy nào còn duy trì được hoạt động: Nợ nước ngoài tăng lên (do phải tìm cá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35520.doc