MỤC LỤC : ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ .
Nội dung Trang
A .Lời mở đầu 1
B . Nội dung 2
I .Cơ sở l thuyết 2
1. lạm phát là gì 2
2 . Nguyên nhân của lạm phát 12
4. . Tác động của lạm phát 18
5. Các biện pháp phòng và chống lạm phát 21
II. Cơ sở thực tiễn của đề tài :
1. Lạm phát ở Đức( 1921-1923 ) : 23
2. Hành trình của lạm phát tại nước ta : 25
C. Phần kêt thúc 30
Tài liệu tham khảo 32
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2724 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Lạm phát trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với mức sản lượng lớn hơn . Đối với loại này thì tuỳ theo chiến lược và chiến thuật phát triển kinh tế mỗi thời kỳ mà các Chính phủ có thể chủ động định hướng mức khống chế trên cơ sở duy trì một tỷ lệ lạm phát là bao nhiêu để gắn với một số mục tiêu kinh tế khác: Kích thích tăng trưởng kinh tế, tăng cường xuất khẩu và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong các năm tài khoá nhất định
Lạm phát hai chữ số (lạm phát phi mã ) : khi giá cả bắt đầu tăng đến hai chữ số mỗi năm , Đây là tỷ lệ lạm phát vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của NHTW thì lạm phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập thực tế ,nó sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ và để lại những hậu quả xấu cho nền kinh tế như thất nghiệp,phân phối thu nhập , tệ nạn với sản lượng của nền kinh tế ,tới nợ nước ngoài …v..v..nó sẽ trở thành nỗi lo ngại đối với các nền kinh tế ..
Siêu lạm phát (lạm phát trên 100%) :Trong lịch sử đã chứng kiến nhiều “cơn “lạm phát ở rất nhiều nước lên tới trên ba chữ số như lạm phát ở Bolivia năm 1985 đến 11000 %/năm, đó là tình trạng vào 1/1/1985 nếu một chiếc bánh ngọt có giá bằng 1 đồng Bolivia ,thì đến 1/1/1986 (sau một năm ) nó có giá là 111 đồng (hay tăng lên gấp 111 lần ) và điển hình nhất là siêu lạm phát ở Đức (1922-1923) kể từ tháng 11/1922 đến tháng 11/1923 giá cả hàng hóa bình quân ở Đức tăng 1500 tỷ lần so với mức trước năm 1914 ,điều đó tương đương với việc mua một con tem vào năm 1914 có giá là 29 xen MỸ thì đến năm 1923 con tem ấy có giá là 435 USD . Rồi siêu lạm phát ở việt nam vào những năm 80 của thế kỉ trước lên tới hơn 700% và hậu quả nó gây ra cho các nền kinh tế là rất to lớn
c . Đo lường lạm phát : Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế , Các giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một chỉ số giá cả để đo mức giá cả trung bình, là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm . Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ phần trăm mức tăng của chỉ số này ,
Điều này được thể hiện qua công thức sau : Lt = ( Pt-Pt-1 ) / Pt-1 .
Trong đó : Lt – tỷ lệ lạm phát giai đoạn t
t - là giai đoạn tính lạm phát
Pt - là tổng giá cả giai đoạn t
Pt-1 –là tổng giá cả giai đoạn t-1
( t-1 và t là hai giai đoạn kế tiếp nhau )
Trên thực tế không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm : Trong thực tế đa số ở các nước trên thế giới người ta thường sử dụng hai chỉ số chủ yếu :đó chính là chỉ số giá tiêu dùng và hệ số điều chỉnh GDP :
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là chỉ số quan trọng mà một số nước thường lấy để đo tỷ lệ lạm phát và được xem là để đo lường chi phí liên quan đến rổ hàng hóa và dịch vụ cụ thể được người tiêu dùng mua . Chỉ số giá tiêu dùng (CPI ) được tính theo công thức sau
CPI = ( ∑ Pit.Qio) / ( ∑ Pio.Qio)
Trong đó : Pit – là giá hàng hóa sản phẩm i trong giai đoạn t
Pio - là giá hàng hóa sản phẩm i trong giai đoạn cơ sở
Qio – là tổng lượng hàng hóa sản phẩm i ( i=1 đến n ). Trong giai đoạn cơ sở( rổ hàng hóa được ấn định đối với một năm cơ sở và Q là trọng số ,n là tổng sản phẩm ).
Cách tính CPI không phải là cộng các giá cả lại và chia cho tổng khối lượng sản phẩm mà là cân nhắc từng mặt hàng theo tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế
- Chỉ số giảm phát GDP được coi là chỉ số phản ánh bình quân giá của tất cả các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước . Do vậy ,chỉ số này có thể nói là toàn diện hơn chỉ số giá GDP vì nó bao quát hết tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế .Chỉ số này được dùng để tính giảm phát GDP danh nghĩa và GDP thực tế . Có thể tính chỉ số giảm phát GDP theo công thức sau :
LGDP = GDP(danh nghĩa) / GDP ( thực tế ) = ( ∑ Pit. Qit ) / ∑ Pio.Qit )
Trong đó : LGDP – là chỉ số giảm phát GDP (chỉ số Paasche)
Qit - là lượng hàng hóa sản phẩm i ( i=1 đến n) trong giai đoạn t
- Ngoài hai chỉ tiêu quan trọng trên thì trong thực tế người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu khác như : - Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI)
Chỉ số giá sản xuất ( PPI )
Chỉ số giá bán buôn
Chỉ số giá hàng hóa
Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân ( PCEPI ).
Trên đây là các chỉ số để đo lường lạm phát trong nền kinh tế ,trong từng nền kinh tế ,từng điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà họ sẽ sử dụng những chỉ số khác nhau để đo lường mức lạm phát của nước mình ,các chỉ số này cho biết mức lạm phát chung của mình cũng như mức độ tăng giá của từng mảng trong nền kinh tế ( như mảng về sản xuất ,tiêu dùng …).
2 . Nguyên nhân của lạm phát
Sau khi đã hiểu về bản chất của lạm phát là như thế nào thì đặt ra cho chúng ta câu hỏi tại sao lại có lạm phát ? Nguyên nhân gì đã sinh ra lạm phát ?
Trên thực tế thì lạm phát ở các nước khác nhau ,xãy ra ở những thời kì khác nhau là do những nguyên nhân khác nhau ..Tuy nhiên không vì thế mà lạm phát không có những nguyên nhân cụ thể ,..bằng việc tổng hợp ở nhiều nước trên thế giới và qua nhiều thời kì ,giai đoạn phát triển khác nhau của các nền kinh tế thì theo các nhà kinh tế học hiện đại nguyên nhân của lạm phát được xuất hiện từ ba nhóm chủ yếu sau : Đó là nhóm do cơ cấu , do tăng trưởng tiền tệ và do thâm hụt ngân sách nhà nước …..
Thứ nhất : Nguyên nhân do cơ cấu . Trong nhóm nguyên nhân gây ra lạm phát này chúng ta sẽ đi vào hai nguyên nhân đó là hiện tượng Cầu kéo và hiện tượng chi phí đẩy
Hiện tượng Cầu kéo :lạm phát do cầu kéo thực chất là do sự mất cân đối giữa tông cung và tổng cầu hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế ,do những cú sốc về cầu diễn ra đột ngột
Xét một nền kinh tế đang ở mức tiềm năng Q1 tại đó mức giá chung của nền kinh tế là tại P1 đột nhiên nền kinh tế phải chịu ảnh hưởng của một cú sốc cầu ,có thể là trong nước hay quốc tế (Ví dụ : như chiến lược phát triển kinh tế của một nước chẳng hạn làm cho cầu đầu tư tăng lên một cách đột biến ,làm đường tổng cầu của nền kinh tế dịch sang phải (từ AD1 sang AD2 ) ,sau một thời gian làm cho mức cân bằng của nền kinh tế chuyển sang một trạng thái mới ( được giả thiết là nền kinh tế đang ở mức toàn dụng nhân công do đó không có sự thay đổi của tổng cung đường tổng cung không thay đổi ) ,tại đó mức sản lượng của nền kinh tế tăng lên mức Q2 ( Q2 lớn hơn Q1) và mức giá chung của nền kinh tế lên đến mức P2( P2 lớn hơn P1)…Nhưng mà trong thực tế thì khi cầu tăng sẽ làm cho cung tăng một lượng chút ít ,sự gia tăng của cung nhỏ hơn rất nhiều so với sự gia tăng của cầu do những giới hạn về nguồn lực, con người (Gía tăng làm các hãng tăng cường sản xuất để thu lợi nhuận lớn hơn làm cho đường tổng cung của nền kinh tế dịch chuyển sang phải ( từ AS1 sang AS2 ) .. lạm phát do cầu kéo sẽ làm mức sản lượng của nền kinh tế tăng lên và mức giá chung của nền kinh tế cũng tăng lên theo đó ……Đây là theo kinh tế học của Keynes về phân tích tổng cung ,tổng cầu ( AD-AS ).
p AS1 AS2 P2 P1 AD2
AD1
0 Q1 Q2 Q3 Q
Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát.
Hiện tượng chi phí đẩy : Chi phí của sản xuất là yếu tố cấu thành nên giá cả hàng hóa cho nên sự biến động của chi phí sản xuất là nguyên nhân thứ hai có thể gây ra lạm phát,..các nhân tố có thể ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất là : Nguyên vật liệu (do tính chất khan hiếm của NVL ,được khai thác trong tự nhiên nên khi trữ lượng giảm xuống sẽ làm giá cả của nó tăng lên ). Thứ hai là chi phí để mua sức lao động .Thứ ba là chi phí vốn ( hiện nay chi phí huy động vốn ngày một cao hơn ) . Ngoài ra thì doanh nghiệp còn bị rất nhiều áp lực từ phía nhà nước có thể làm giá sản phẩm tăng cao (như phí và thuế thu nhập..)
Các chi phí sản xuất này khi tăng trong cả nền kinh tế sẽ làm cho mặt bằng giá cả của hàng hóa sẽ tăng cao gây nên lạm phát :
( Mức giá)
P AS2
` P2
P1 AS1
(sản lượng )
0 Q2 Q1 Q
Khi các yếu tố chi phí trên tăng lên ,làm cho tại mỗi mức giá lượng cung sẽ giảm xuống làm đường tổng cung của nền kinh tế dịch chuyển sang phải (AS1 lên AS2 -hình trên ) tại điểm cân bằng mới của nền kinh tế , sản lượng giảm từ Q1 xuống Q2 và mức giá tăng từ P1 lên P2 nền kinh tế rơi vào vừa suy thoái vừa lạm phát ..
Ví dụ : Năm 1973 , 1978 OPEC nâng giá dầu mỏ ,năm 1990-1991 khủng hoảng vịnh persian ,cả ba lần giá cả hàng hóa bình quân ở hầu hết các nước trên thế giới đều tăng
Trên đây chúng ta đã tìm hiểu nguyên nhân thứ nhất của lạm phát đó là lạm phát do cơ cấu (cầu kéo và chi phí đẩy ) ,tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu nguyên nhân thứ hai sinh ra lạm phát đó là nguyên nhân do nguyên nhân từ phía tiền tệ .
Nguyên nhân thứ hai : Nguyên nhân tăng trưởng tiền tệ .
Khi có nền kinh tế có sự tăng trưởng tiền tê một cách quá mức và kéo dài thì cũng gây nên hiện tượng lạm phát ( khi Y tăng 1% thì lượng tiền cung ứng cần thiết cho lưu thông hàng hóa chỉ cần tăng nhỏ hơn 1% ,nhưng trong thực tế khi Y tăng lên 1% thi lượng cung tiền thực tế thường tăng với một mức độ lớn hơn 1% đây chính là tăng quá mức và quá trình này kéo dài thì sẽ gây nên lạm phát do tăng trưởng tiền tệ ) :
Nếu gọi Ms là mức cung tiền danh nghĩa P là giá cả bình quân và L là mức cung tiền thực tế thì : Ls= ( Ms / P )
Gọi M1 là nhu cầu về tiền danh nghĩa thì Ld sẽ là nhu cầu về tiền thực tế ,với : Ld = ( Md / P )
Milton Friedman đặt tên cho các khái niệm này vào thập niên 50 của thế kỉ trước .Và nhu cầu tiền thực tế trong nền kinh tế Ld được xác định bởi công thức : Ld = Md / P =a.Y^b
Thị trường tiền tệ chỉ quân bình khi lượng cung về tiền thực tế là tương đương với lượng cầu tiền thực tế . nghĩa là : Ls = Ld + a.Y^b . Vì a và b theo Friedman – là những hắng số khá ổn định về mặt dài hạn ,nên thị trường chỉ cân bằng nếu Ls và Ld tăng gần tương đương với mức tăng của Y . Do vậy khả năng ngược lại là khi Y cố định về mặt ngắn hạn ,sự tăng cung tiền tệ Ms sẽ chỉ có thể được cân đối nếu có sự tăng tương ứng của cầu tiền tệ danh nghĩa Md. Vì thị trường tiền tệ luôn luôn có xu hướng quay về cân bằng ở vị trí mà : Ms / P = Md / p = a.Y^b
Nếu Y không đổi ,a và b không đổi ,thì Ms chỉ tăng nếu một trong ba trường hợp sau xảy ra : - Md phải tăng tương ứng để tạo thế cân bằng
P phải tăng
Md và P cùng tăng
Vì Md là cố đinh vào những lúc Ms tăng đột ngột cho nên chỉ có trường hợp 2 xãy ra là một cách phổ biến nhất :giá cả phải tăng để tạo thế cân bằng trên thị trường tiền tệ
Về mặt thực tế khi cung ứng tiền danh nghĩa tăng một tỷ lệ là ∆Ms , nó sẽ gây ra lạm phát với tỷ lệ chính thức là bằng tỷ lệ tăng của cung ứng tiền danh nghĩa trừ đi tỷ lệ tăng của nhu cầu tiền danh nghĩa chia cho tổng của 1 cộng với tỷ lệ tăng trong nhu cầu tiền về danh nghĩa
Rõ ràng dù nhu cầu tiền danh nghĩa có tăng hay không thì mọi sự tăng lên của cung ứng tiền tệ danh nghĩa – về mặt ngắn hạn –đều nhanh chóng gây nên lạm phát … Đây là một nguyên nhân khá phổ biến gây nên hiện tượng lạm phát ở các quốc gia trên thế giới
c. Nguyên nhân thứ ba : Bội chi ngân sách nhà nước (Nguyên nhân từ phía chính phủ ) .
Đây là một nguyên nhân mà chúng ta thường đã thấy rất nhiều trong lịch sử của các nước mà làm cho mức lạm phát của các nước có thể lên rất cao .Đó là nguyên nhân chủ quan từ phía chính phủ bằng cách chi tiêu quá mức của mình chính phủ đôi khi đã làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát nghiêm trọng điển hình là cuộc lạm phát ở Đức (1921-1923 ) ….
Nhu cầu chi tiêu của chính phủ là rất lớn ,cho rất nhiều đối tượng khác nhau trong nền kinh tế : chi tiêu để kích cầu ,thực hiện các chính sách ,rồi các khoản chi mua thường xuyên thường có quy mô rất lớn ..để đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu của mình thì có rất nhiều con đường khác nhau và chính phủ có thể lựa chọn trong đó có các con đường chủ yếu là : tăng thuế , phát hành các chứng khoán nhà nước ( trái phiếu chính phủ…), do nắm đặc quyền trong tay về tài chính nên có một cách dễ dàng và nhanh chóng mà có thể tài trợ một cách dễ dàng cho ngân sách đó là phát hành thêm tiền mặt để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình , tuy nhiên chỉ trong trường hợp ngân sách nhà nước bị thâm hụt nhiều thì khả năng phát hành tiền để đáp ứng cho chi tiêu mới xảy ra .Trong thực tế về ngân sách của các nước trên thế giới rât hiếm khi có thặng dư (nếu có thì chỉ có trong rất ngắn hạn ,tạm thời và thặng dư thường rất nhỏ ) ,mà tình trạng chung của ngân sách các nước là luôn luôn lâm vào tình trạng thâm hut lớn
Dưới đây là tình hình thu chi ngân sách việt nam qua các năm
Năm
2000
2001
2002
2003
Tổng thu
90749
103888
123860
152274
Tổng chi
108961
129773
148208
181183
Thâm hụt
18212
25885
24348
28909
Chúng ta đã thấy được phần nào về tình hình thu chi của việt nam trong những năm gần đây..để tài trợ cho thâm hụt ngân sách thì chính phủ có thể tăng thuế hoặc phát hành trái phiếu chính phủ ,nhưng cách thứ nhất có thể làm giảm sản lượng của nền kinh tế , hai cách này chỉ có hiệu quả trong dài hạn , độ trễ dài ..do đó cách dễ dàng nhất là phát hành thêm tiền để chi tiêu cách này vừa có thể đáp ứng nhu cầu chi tiêu tức thời của chính phủ một cách nhanh chóng và với chi phí thực hiện là thấp nhất ..
Do vậy một nguyên nhân nữa mà thường xuyên gây nên lạm phát ở các nước đó là in tiền để chi tiêu của chính phủ…đây cũng là một nguyên nhân khá phổ biến ở các nước trên thế giới
Ngoài ra trong thực tế có rất nhiều nhà kinh tế đứng trên những góc độ khác nhau họ quan niệm có những nguyên nhân khác nhau gây nên lạm phát ,nhưng một cách cơ bản mà nói thì những nguyên nhân nêu trên là những nguyên nhân chủ yếu và phổ biến trong thực tế
. Tác động của lạm phát : Phần này chúng ta sẽ tìm hiểu tác động của lạm phát cao gây ra đối với nền kinh tế . Như chúng ta đã biết lạm phát có ba mức độ : lạm phát vừa phải , lạm phát phi mã và siêu lạm phát .Trong ba mức độ của lạm phát này khi bàn đến hậu quả của lạm phát thì chúng ta sẽ tiếp cận từ hai mức độ lạm phát cuối cùng vì mức độ lạm phát vừa phải không ảnh một cách tiêu cực nhiều như hai mức độ còn lại , trái lại nó còn có mặt tích cực của mình đối với nền kinh tế để thấy rõ hậu quả của lạm phát đối với nền kinh tế . Lạm phát tác động một cách trực tiếp và chủ yếu đến các đối tượng sau :
Tác động của lạm phát đối với sản lượng của nền kinh tế : Khi mới bắt đầu bước vào lạm phát thì một điều đặc biệt là lạm phát có thể làm cho sản lượng của nền kinh tế tăng lên ,điều đó là do khi mới bắt đầu lạm phát giá cả có tăng nhưng không nhiều khi đó các doanh nghiệp bán được hàng hóa với giá cao làm cho doanh thu của họ tăng lên làm họ đầu tư thêm để mở rộng sản xuất .Lúc đó đôi khi tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế còn giảm xuống do có nhiều doanh nghiệp thuê thêm công nhân để tăng cường sản xuất …. Nhưng sau đó một thời gian không dài do giá tiếp tục tăng rất nhanh không ngừng ,các doanh nghiệp đều thấy rằng ,nếu mà họ để hàng hóa lại ,để NVL lại và đợi cho tăng giá thì họ sẽ bán ,lúc đó chắc chắn rằng họ sẽ có được nhiều tiền hơn là sản xuất ,chính vì vậy sản lượng của nền kinh tế giảm xuống một cách nhanh chóng ,các doanh nghiệp cất giữ NVL để chờ giá tăng nên thất nghiệp trong nền kinh tế tăng lên một cách nhanh chóng
Tác động của lạm phát đối với hàng hóa và lưu thông tiền tệ : Lưu thông hàng hóa và tiền tệ trong nền kinh tế trở nên ách tắc đình đốn
Về phía hàng hóa : do sự tích trữ hàng hóa để chờ tăng giá ,và tình trạng tìm kiếm hàng dể mua tích trữ gây nên sự khan hiếm hàng hóa ,cầu giả tạo ..chính điều này sẽ làm cho tình trạng lạm phát sẽ trở nên nóng bỏng hơn ,gây nên sự leo thang của giá cả ở chu kì sau ..
Về lưu thông tiền tệ : Bị rút ra khỏi hệ thống ngân hàng để mua hàng hóa dự trữ hoặc chuyển đổi sang dạng phi tài chính , tiền tệ không quay trở lại được với ngân hàng ,trong nền kinh tế lúc này có một hiên tượng đó là hiện tượng “thiếu tiền “ nói ra có lẽ hơi lạ nhưng sự thật đúng là như vậy : Hệ thống ngân hàng thiếu tiền để cho vay và tiền bị rút ra nhiều , các doanh nghiệp thiếu tiền để mua hàng hóa .
Lạm phát với kinh tế đối ngoại: - Trong quan hệ kinh tế đối ngoại những khoản nợ quốc gia của chính phủ đối với các nước sẽ trở nên trầm trọng hơn trước vì : % tăng,giảm tỷ giá VND/ngoại tệ =% lạm phát của việt nam -% lạm phát của ngoại tệ .Nên khi lạm phát ở nước ngoài thấp hơn việt nam thì tỷ giá sẽ tăng ,tiền việt bị mất giá, do vậy số nợ tính trên VND sẽ tăng lên do lạm phát .
Lạm phát với các vấn đề xã hội : - Lạm phát làm tình hình xã hội rối loạn làm cho đời sống người dân đặc biệt là những người làm công ăn lương giảm sút nghiêm trọng điều này là do tốc độ của tăng giá tăng lớn hơn rất nhiều so với tốc độ tăng lương ,tiền lương danh nghĩa không thể điều chỉnh cho kịp với tốc độ tăng của lạm phát .Chính vì vậy tiền lương thực tế của những người công nhân luôn ở mức rất thấp và không ngừng giảm xuống một cách nhanh chóng ..
Lạm phát làm phân phối lại một cách bất hợp l: Lạm phát đã “móc”túi của những người cho vay chuyển sang túi của những người đi vay (với mức lạm phát lớn hơn dự kiến ) và ngược lại điều này làm phân phối bất công bằng trong nền kinh tế ,và những người có tiền họ mua hàng hóa và bán với giá cao họ sẽ giầu lên nhanh chóng ,còn đối với những người nghèo thì ngược lại .Do vậy lạm phát có thể làm tình trạng phân hóa giầu nghèo trở nên sâu sắc ...
. Các biện pháp phòng và chống lạm phát : Như đã biết nguyên nhân của lạm phát và những hậu quả mà lạm phát để lại nếu nền kinh tế trong tình trạng lạm phát như vậy phải có cách phòng chống và khắc phục tình trạng này ..Về thực tế mà nói thì không có giải pháp nào là chung cho mọi nền kinh tế vì mỗi nền kinh tế khác nhau , trong những giai đoạn khác nhau thì khác nhau .nên chúng ta chỉ có thể rút ra được một số bài học mang nguyên l chung sau:
Các giải pháp ngắn hạn ,tạm thời : - Đông kết giá cả :khi nền kinh tế có dấu hiệu của sự lạm phát thì cơ quan đại diện nhà nước sẽ kí những hợp đồng với các doanh nghiệp ,các NHTM, các tổ chức kinh tế không tăng giá cả không tăng lương ,không tăng lãi suất trong một thời gian nhất định bù vào đó họ sẽ được nhận lại từ nhà nước là các ưu đãi như giảm thuế cho phép đầu tư ,bảo hộ ,đại diện ….Vì trong thực tế lạm phát bao giờ cũng trải qua hai giai đoạn :giai đoạn thứ nhất khi ∆ Ms > ∆ P (do tốc độ nhận thức của công chúng chưa bắt kịp với tốc độ tăng tiền)..ở giai đoạn này áp dụng đông kết giá cả sẽ ngăn cản lạm phát không chuyển sang giai đoạn hai.Đây chính là phương pháp trì hoãn để nhà nước thực hiện các biện pháp chống lạm phát sau
Thắt chặt tiền tệ : Chính sách này nhằm vào việc giảm cầu tiền tệ xuống thì lúc đó cung tiền tệ mới có cơ hội để giảm .Việc làm này được thực hiện thông qua : + Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc : điều này sẽ làm giảm khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại ,nên lãi suất cho vay sẽ tăng dẫn đến một điều hiển nhiên là cầu tiền tệ sẽ giảm ..cầu tiền tệ giảm sẽ cho chúng ta hai lợi ích : thứ nhất . nó sẽ làm cho lượng tiền phát hành ra ít đi mức cung tiền sẽ giảm xuống ,thứ hai .nó làm cho cầu về đầu tư giảm nên tổng cầu của nền kinh tế giảm xuống làm lạm phát giảm .
+ Tăng lãi suất chiết khấu : Việc tăng lãi suất chiết khấu của NHTW đối với các NHTM làm cho lãi suất của các NHTM tăng lên làm cho lãi suất trong toàn bộ nền kinh tế tăng và hiệu ứng của việc tăng lãi suất chiết khấu cũng sẽ tác động đến nền kinh tế như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc ..việc làm này sẽ đạt được hai mục đích : một mặt giải phóng được lượng hàng hóa bị găm giữ mặt khác NHTW không phải phát hành thêm tiền mà tiền tệ sẽ trở lại các NHTM
+ NHTW bán trái phiếu chính phủ ,tín phiếu kho bạc cho các NHTM làm giảm khả năng cho vay của NHTM ….
Thắt chặt ngân sách : + Tăng thuế (thuế lạm phát –đánh vào thời kì lạm phát và có tỷ lệ đúng bằng lạm phát kì vọng ) : Tăng thuế làm thu nhập khả dụng giảm đi tổng cầu của nền kinh tế giảm xuống làm giảm lạm phát của nền kinh tế ..việc tăng thuế vừa tăng nguồn thu cho nhà nước ,vừa làm cho mức lạm phát khó bùng phát .
+ Giảm chi tiêu ngân sách : Theo tác động của tổng cầu ,giảm chi tiêu ngân sách sẽ làm giảm tổng cầu và làm giảm lạm phát và ngân sách sẽ thâm hụt ít hơn ,loại bỏ khả năng phát hành tiền để chi tiêu
Giải pháp chống lạm phát trong dài hạn : Ba cách trên chỉ là ba biện pháp tức thời còn muốn chống lạm phát trong dài hạn thì biện pháp quan trọng nhất là phải cải cách nền kinh tế ,phải khắc phục tình trạng mất cân đối bằng các chương trình điều chỉnh cơ cấu (khắc phục những khiếm khuyết của các mô hình tăng trưởng kinh tế ) .Như một số nước (trong đó có việt nam ) đã thực hiện các chương trình :công nhận một nền kinh tế thị trường ,trao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp ,thực hiện cải cách đối với hệ thống tài chính để cho nó nâng cao khả năng chống và điều hành lạm phát cho nền kinh tế ,các chương trình nhằm thực hiện tăng cường năng lực sản xuất,chủ động được năng lực sản xuất trong nước, thiếu có thể nhập một cách dễ dàng .các cải cách về ngoại thương ,ngoại hối …nói chung đây là biện pháp gắn với từng nước cụ thể ,tùy theo mục tiêu và chính sách của từng nước trên thế giới
II. Cơ sở thực tiễn của đề tài :
Chúng ta đã tìm hiểu khá rõ về mọi vấn đề về lạm phát như về bản chất nguyên nhân ,hậu quả cũng như các giải pháp để kiềm chế lạm phát .
Đây là những nguyên tắc cơ bản về các vấn đề lạm phát …Trong thực tế liệu lạm phát có diễn ra như chúng ta đã nghiên cứu hay không ? Câu trả lời là có nhưng ở mỗi nước khác nhau thì sẽ có những cơ chế của lạm phát khác nhau ..Để rõ hơn chúng ta sẽ nghiên cứu một cách khái quát về lạm phát ở một số nước trên thế giới và việt nam trong lịch sử , mà ở đó biểu hiện một cách rõ ràng về lạm phát trong cơ chế thị trường .
1. Lạm phát ở Đức( 1921-1923 ) :
Trong lịch sử phát triển của nền kinh tế thị trường thế giới đã chứng kiến một cơn lạm phát có một không hai trên thế giới .
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất giá cả của các hàng hóa của Đức đã tăng nhanh đầu năm 1921 nó được ổn định một thời gian ngắn nhưng vào cuối năm chính sách tiền tệ đã làm lạm phát bùng phát trở lại với một tốc độ khủng khiếp trong vòng 2 năm kể từ tháng 11/1921 đến tháng 11/1923 giá cả hàng hóa bình quân ở Đức tăng 1500 tỷ lần so với mức tăng trước năm 1914 điều đó được hiểu đơi giản là việc mua một con tem vào năm 1914 có giá là 29 xen MỸ thì đến năm 1923 con tem ấy giá lên đến 435 tỷ USD một phụ nữ ở Berlin đã nhớ lại rằng vào buổi sáng bà ta ra tiệm mua bánh mỳ mua 2 chiếc với số tiền là 20 DM nhưng sau đó chỉ một giờ giá của nó đã trở thành 25 DM giá cả của tất cả các loại hàng hóa lên theo giờ .. Chính vì vậy người ta phải trả lương cho công nhân một ngày hai lần chứ không phải là trả theo tháng để kịp họ đi mua hàng hóa ,đầu cơ hàng hóa chiếm hết tâm trí của người dân Đức tranh nhau từng giờ ,từng phút và hàng hóa trên thị trường biến mất rất nhanh các xí nghiệp ,của hàng thậm chí không chịu bán hàng vì họ biết rằng khi bán đi thì có nghĩa là không thể mua lại chính nó bằng giá tiền vừa thu ,vì tiền mất giá quá nhanh kẻ trộm chỉ lấy giỏ đựng tiền chứ không thèm lấy tiền. Ở nông thôn người dân bắt đầu trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng chứ không thông qua tiền nữa ở thành thị thì điều này thực hiện hơi khó .Ngoại tệ và vàng trở thành một hàng hóa cực kì qúy hiếm vì người dân chuyển tiền sang các tài sản phi tài chính này vì lo sợ sự mất giá của đồng tiền
Siêu lạm phát ở Đức bắt đầu từ năm 1921 khi nhu cầu bồi thường chiến tranh và xây dựng lại nền kinh tế sau thế chiến thứ nhất làm cho chi tiêu của chính phủ vượt chi rất nhiều : chính phủ Đức có thể tăng thu để chi trả cho chi tiêu tăng lên đó bằng tăng thuế ,nhưng biện pháp này như thường thây không hợp lòng dân và đòi hỏi nhiều thời gian để thực hiện ,chính phủ cũng có thể vay của công chúng để trang trải cho chi tiêu đó nhưng số tiền cần vay vượt xa khả năng cho vay , chỉ còn lại con đường duy nhất đó là in tiền
Năm 1923 tình hình ngân sách chính phủ Đức ngày càng xấu đi đến năm 1923 pháp xâm lược vùng Rhur vì Đức không trả được tiền bồi thường theo quy định do vậy một cuộc tổng bãi công nổ ra để phản đối hành động của pháp, và chính phủ Đức ủng hộ tích cực “ cuộc kháng cự thụ động” đó bằng cách trả tiền cho những người công nhân bãi công đó kết quả là chi tiêu chính phủ leo thang nghiêm trọng và chính phủ in tiền giấy với tốc độ nhanh hơn để tài trợ cho chi tiêu này . Kết quả của sự bùng nổ cung tiền tệ là mức giá cả bùng nổ đưa đến tỷ lệ lạm phát trong năm 1923 vượt quá 1.000.000 % .
Hành trình của lạm phát tại nước ta :
a. Tổng quan về lạm phát của việt nam : tình hình diễn biến của lạm phát tại việt nam đã xãy khá phức tạp trong lịch sử và cả hiện tại , nước ta tồn tại những năm lạm phát ở mức rất cao (1986-1987 ) hay ở mức rất thấp (thiểu phát năm 2000 ),hoặc là tình trạng lạm phát luôn luôn rình rập đe dọa sự ổn định của nền kinh tế như hiện nay ..chúng ta sẽ tìm hiểu lạm phát của việt nam qua các thời kì khác nhau để có những đánh giá một cách chính xác về tình hình lạm phát của nước ta để có thể xây dựng những cân đối các chỉ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lạm phát trong nền kinh tế thị trường.docx