Đề án Lạm phát - Từ lý thuyết đến thực tiễn ở Việt Nam

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

PHẦN I CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT 3

1. Khái niệm 3

1.1 Định nghĩa 3

2. Các chỉ số đo lường lạm phát 5

2.1 Chỉ số giá tiêu dùng CPI (Consumer Price Index) 6

2.2 Chỉ số giảm phát GDP ( Gross Domestic Product deflactor) 6

3. Nguyên nhân gây ra lạm phát 9

3.1 Lạm phát do chính sách 9

3.2 Lạm phát do cầu (demand-pull inflaction) 9

3.3 Lạm phát do cung (cost-push inflation) 9

3.4 Lạm phát do quán tính (inertial inflation) 10

4. Ảnh hưởng của lạm phát đối với nền kinh tế 10

4.1 Ảnh hướng tích cực 10

4.2 Ảnh hưởng tiêu cực 11

4.2.1 Đối với lạm phát có thể dự kiến được 11

4.2.2 Đối với lạm phát không thể dự kiến được 13

5. Các giải pháp kiềm chế lạm phát 13

PHẦN II THỰC TIỄN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM 15

1. Sơ bộ kinh tế Việt Nam từ trước đến nay 15

1.1 Bối cảnh chung của nền kinh tế 15

1.2 Nhận diện tình hình lạm phát 19

2. Thực trạng kinh tế 2008 và 3 tháng đầu năm 2009 22

2.1 Nhìn lại tình hình kinh tế 2008 22

2.1.1 Bối cảnh chung 22

2.2.2 Về tình hình lạm phá: 26

2.2 Sơ bộ tình hình lạm phát 4 tháng đầu năm 2009 30

3. Nguyên nhân gây lạm phát ở Việt Nam 33

3.1 Tác động từ kinh tế thế giới 33

3.1.1 Mỹ 33

3.1.2 EU 36

3.1.3 Nhật Bản 37

3.1.4 Trung Quốc 37

3.2 Từ nội bộ nền kinh tế 38

3.2.1 Lạm phát tiền tệ 38

3.2.2 Lạm phát cầu kéo 40

3.2.3 Lạm phát chi phí đầy 41

4. Đề xuất giải pháp 41

4.1 Chính sách tài chính-tiền tệ 42

4.2 Điều chỉnh tăng trưởng kinh tế 43

4.3 Hạn chế tăng chi phí 43

KẾT LUẬN 45

TÀI LIỆU THAM KHẢO 46

 

 

doc48 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3523 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Lạm phát - Từ lý thuyết đến thực tiễn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ập trung, quan liêu, bao cấp, nhấn mạnh quan hệ hàng hóa - tiền tệ, tập trung vào các biện pháp quản lý kinh tế, thành lập hàng loạt các tổ chức tài chính ngân hàng, hình thành những thị trường cơ bản như: thị trường tiền tệ, lao động, hàng hóa, đất đai, khoa học và công nghệ,... Cải cách hành chính được đẩy mạnh. Chiến lược cải cách hành chính giai đoạn 2001 - 2010 chính là một quyết tâm lớn của Chính phủ Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến việc sửa đổi các thủ tục hành chính, luật pháp, cơ chế quản lý kinh tế nhằm tạo ra sự năng động, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Thế nhưng, về thực chất, từ năm 2007 kinh tế Việt Nam vẫn phát triển trong điều kiện khó khăn nhiều hơn thuận lợi. Về khó khăn: Thiên tai lớn, dịch bệnh diễn biến phức tạp, tai nạn do sự cố sập cầu dẫn cầu Cần Thơ và sự biến động bất lợi của thị trường, giá cả thế giới kéo dài, gây hậu quả nghiêm trọng là những yếu tố không thuận lợi đối với nền kinh tế nước ta trong năm 2007. Thiên tai đặc biệt nghiêm trọng, trên diện rộng và kéo dài trong cả năm đã gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế. Đầu năm hạn hán gay gắt ở miền Bắc và miền Trung, giữa và cuối năm bão, mưa đá, lốc xoáy, lũ quét đã tàn phá nhiều tỉnh miền Trung. Dịch bệnh gia súc như: dịch lợn tai xanh, dịch lở mồm long móng gia súc lan rộng, dịch cúm gia cầm tái phát tại nhiều địa phương, ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng ngành chăn nuôi cả nước. Đặc biệt nguy hiểm là dịch tiêu chảy cấp, nhiễm khuẩn tả phát sinh, kéo dài hàng tháng đã gây hậu quả nghiêm trọng đến nhiều ngành sản xuất công nghiệp, ngành nghề, thủy sản, kinh doanh dịch vụ ăn uống công cộng, du lịch trên địa bàn cả nước. Thị trường thế giới biến động lớn, phức tạp gây nhiều yếu tố bất lợi cho nền kinh tế Việt Nam. Giá cả nhiên liệu, vật tư, nhất là xăng dầu, phôi thép, thép, nguyên liệu sợi, vải, vật liệu phục vụ công nghiệp dệt may, da giày, hóa chất, phân bón, thức ăn chăn nuôi tăng cao. Thị trường xuất khẩu một số mặt hàng biến động phức tạp như dệt may, da giày, thủy sản, thủ công mỹ nghệ, xe đạp và phụ tùng, động cơ điện... Điều đó đã làm cho giá cả tiêu dùng trong nước tăng cao liên tục chưa có điểm dừng. Tai nạn về sự cố sập cầu dẫn trên công trường xây dựng cầu Cần Thơ, cuối năm là lở núi trên công trường thủy điện Bản Vẽ (Nghệ An) là những biến cố đột xuất, gây thiệt hại lớn về người, tài sản, vốn và đã để lại hậu quả nặng nề không chỉ cho ngành xây dựng, giao thông - vận tải mà còn tác động đến nhiều ngành và lĩnh vực khác. Năm 2007, tốc độ tăng GDP của Việt nam là 8,44% đứng thứ 3 châu Á (sau Trung Quốc: 11,3% và Ấn Độ khoảng: 9% Các điểm yếu của nền kinh tế vốn tồn tại nhiều năm nay như kết cấu hạ tầng yếu kém, nhất là giao thông, thủy lợi, điện đã bộc lộ rõ nét qua thiên tai năm 2007... không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế bền vững với tốc độ cao. Do vậy khả năng phòng chống thiên tai, dịch bệnh hạn chế, thiệt hại gây ra rất nặng nề, hậu quả để lại là rất nghiêm trọng và lâu dài. Về thuận lợi: Trong quá trình tổng kết 20 năm đổi mới, các ngành và địa phương trong cả nước đã đánh giá toàn diện và sâu sắc những thành quả đạt được cũng như những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm quý. Thành quả nổi bật của những năm qua là duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5%/ năm trong 5 năm 2001 - 2005 và 8,17% năm 2006, thế và lực của Việt Nam đã mạnh lên so với các năm trước. Đó là những tiền đề vật chất rất quan trọng, là yếu tố thuận lợi cơ bản để các ngành, các cấp thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch năm 2007. Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO và thực hiện cam kết PNTR với Hoa Kỳ, do đó, thị trường xuất khẩu mở rộng, các rào cản thương mại Việt Nam với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao qua Hội nghị cấp cao APEC năm 2006. Quan hệ ngoại giao, các hoạt động hợp tác kinh tế, đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu được củng cố và tăng cường thông qua các cuộc thăm cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng với sự tham gia của các nhà doanh nghiệp. Tình hình chính trị ổn định, an ninh - quốc phòng bảo đảm, đã tạo môi trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước. Thị trường và giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam diễn biến theo hướng cầu lớn hơn cung như dầu thô, gạo, cà phê, chè, thủy sản... Do đó, giá cả các mặt hàng này tăng cao, có lợi cho hoạt động xuất khẩu. Bộ máy lãnh đạo các ngành, các cấp được hoàn thiện sau Đại hội Đảng X, Quốc hội khóa XII. Nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp kinh tế, tài chính được ban hành, bổ sung, hoàn thiện. Công tác cải cách hành chính được đẩy mạnh, đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý nhiều bộ ngành, địa phương được tăng cường cả số lượng và chất lượng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ... tạo điều kiện giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài. Bối cảnh trên đây đã tác động trực tiếp, toàn diện đến quá trình và kết quả sản xuất, kinh doanh của các ngành, các doanh nghiệp và xu thế biến động thị trường, giá cả trong nước trên cả hai mặt là thành tựu và hạn chế, bất cập của nền kinh tế 2007. Hiện nay nước ta đang đứng trước khó khăn thực sự, chỉ số giá cả tiêu dùng tăng nhanh năm 2007 là 12.63% đặc biệt là cán cân thương mại năm 2007 thâm hụt lớn, nhập khẩu 62,7 tỷ USD tăng 39.6% so với năm 2006, xuất khẩu 48.6 tỷ USD tăng 21,9%, nhập siêu 14,1 tỷ USD (năm 2006 nhập siêu 5 tỷ USD), nhập siêu chiếm tỷ lệ rất đáng lo ngại 19,8%GDP (lưu ý việc nhập siêu tăng nhanh có yếu tố giá cả thế giới (xăng dầu, sắt thép, sợi bông, chất dẻo..) tăng cao do đồng USD yếu), cán cân vãng lai thâm hụt ở tỷ lệ cao trên 6% GDP ở mức đáng lo ngại… 1.2 Nhận diện tình hình lạm phát: Lạm phát cao của thời kỳ 1990 trở về trước: Sản xuất trong nước bị kiềm hãm bởi cơ chế kinh tế chưa tìm ra được con đường phát triển, hàng hóa thiếu hụt, thu nhập của người dân trong nước thấp, các nhu cầu chi tiêu bị hạn chế và chủ yếu tiết kiệm cho nhu cầu ăn mặc. Đồng tiền VND liên tục bị mất giá so với USD, tình trạng đô la hóa diễn ra trầm trọng và phổ biến, vật giá liên tục leo thang. Các luồng vốn như FDI, ODA thì hết sức nhỏ nhoi và hạn chế, luồng tiền kiều hối tuy nhỏ so với bây giờ nhưng lại là nguồn tiền vô cùng quan trọng nhằm gia tăng lượng hàng nhập khẩu… Lạm phát của thời kỳ 1990-1996: Đã giảm rất nhiều vì chính phủ đã có kinh nghiệm trong việc xây dựng chính sách kinh tế và chính sách tiền tệ. Tuy nhiên trong thời kỳ này, hệ thống ngân hàng thương mại Nhà nước và cổ phần bị tổn thương nghiêm trọng do ảnh hưởng của chính sách tự do kinh tế và thương mại trong thời kỳ đầu mở cửa và do ảnh hưởng hậu quả cơn sốt đất lần thứ hai diễn ra vào đầu những năm 1990. Suy thoái kinh tế cục bộ của thời kỳ 1996-2000 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á: - Giá cả hàng hóa giảm sút - Công ăn việc làm của nhiều ngành kinh tế cũng giảm sút - Hệ thống ngân hàng thương mại đi vào thời kỳ củng cố và cải tổ, tuy nhiên quy mô vốn tăng chậm, việc huy động vốn từ các cổ đông là cực kỳ khó khăn. Tình hình lạm phát từ năm 2000-2007: Cơn lạm phát trong thời gian này diễn ra với rất nhiều khác biệt so với các cơn lạm phát diễn ra trước đó: Công ăn việc làm của hầu hết các ngành kinh tế vẫn tăng lên trong tình trạng lạm phát leo thang. Tất nhiên cũng có ngành dịch vụ là ngành chứng khoán thì bị ảnh hưởng nghiêm trọng của TTCK nên công ăn việc làm giảm sút cùng với tình hình kinh doanh khó khăn và thua lỗ. Giá trị VND đối với USD hầu như không thay đổi. Các luồng vốn FDI, FII, ODA vẫn tiếp tục được bơm vào nền kinh tế với quy mô lớn hơn trước. Tiêu dùng của người dân trong nước không bị giảm sút, không rơi vào tình trạng thắt lưng buộc bụng, ở khía cạnh nào đấy thì mức độ tiêu dùng cho nhu cầu gia đình tăng lên. Kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng và có biểu hiện tăng mạnh ở ngành lương thực, chưa có dấu hiệu đáng kể cho thấy nền kinh tế chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính, tín dụng ở Mỹ. Lạm phát giai đoạn 1995-2007, tính theo chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 mỗi năm so với tháng 12 năm trước. (Nguồn: Tổng cục Thống kê) Hiện tượng lạm phát ở VN có tất cả những dấu hiệu của lạm phát ở các nước chậm tiến hay đang phát triển, đã được nhiều chuyên gia và các tổ chức quốc tế đề cập đến và cảnh báo khá nhiều từ hơn một năm nay. Nguy cơ lạm phát bùng nổ khi Chính phủ cũng như doanh nghiệp chạy theo chỉ tiêu và hào quang của tốc độ phát triển kinh tế. Chính phủ trong những năm gần đây thúc đẩy doanh nghiệp chạy nước rút để đạt nhiều chỉ tiêu kinh tế, năm sau cao hơn năm trước. Cố gắng này làm giảm sự chú ý tới khả năng chịu đựng và phát triển của doanh nghiệp, sự mất cân bằng cung cầu tiền tệ trong thị trường và ảnh hưởng của nền kinh tế dựa trên tiêu thụ và nhập khẩu của đại bộ phận doanh nghiệp và người dân. Chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI) Nguồn: IMF, International Financial Statistics Trong hình 1 cho thấy, từ năm 2004 đến 2007, lạm phát ở VN đã cao hơn các nước láng giềng ngoại trừ Indonesia, một quốc gia đang đối mặt với những vấn đề kinh tế, chính trị nghiêm trọng, năm 2004 CPI là 9.5%, 2005 là 8.4%, năm 2006 là 6.6%. Hiện nay, VN là nước có tỷ lệ lạm phát cao nhất trong các nước Đông á. Năm 2007, lạm phát của nước ta đã tăng cao và rơi vào tình trạng khó kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng vọt từ hơn 6% năm 2006 lên 12,69% năm 2007. Nguy cơ tỷ lệ lạm phát tiếp tục ở mức cao trong năm 2008 là rất rõ ràng khi chỉ riêng hai tháng đầu năm, tỷ lệ này đã ở mức 5,94% so với 2007. 2. Thực trạng kinh tế 2008 và 3 tháng đầu năm 2009: 2.1 Nhìn lại tình hình kinh tế 2008: 2.1.1 Bối cảnh chung: Năm 2008 đã để lại nhiều bài học chính sách sâu sắc. Hội nhập sâu rộng đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng đồng hành với những rủi ro bất ổn kinh tế có thể gia tăng. Việc quyết định mục tiêu chính sách và phản ứng chính sách kịp thời phải dựa trên việc bám sát, cập nhật thông tin cũng như những dự báo, cảnh báo có phân tích. Hiệu lực, hiệu quả của chính sách còn phụ thuộc sự phối hợp các bộ, cơ quan cũng như mối quan hệ thông tin minh bạch, có tính giải trình cao giữa nhà nước với thị trường, công chúng. Cần sự hỗ trợ đối với người nghèo, nhóm đối tượng xã hội dễ bị tổn thương và cả ý chí chính trị vượt qua các nhóm lợi ích. Lựa chọn mục tiêu chính sách và cách thức thực thi hiệu lực và hiệu quả vẫn luôn có giá trị, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái lan rộng toàn cầu. Ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế toàn cầu, kinh tế Việt Nam 2008 đối mặt với rất nhiều khó khăn. 10 sự kiện nổi bật có thể được tóm tắt như sau: Lạm phát chạm ngưỡng 20%, Chính phủ giảm mục tiêu tăng trưởng. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5 tăng gần 4%, nâng CPI 5 tháng đầu năm lên mức cao nhất trong vòng 12 năm qua, đạt 15,96%. Lạm phát tăng cao, Quốc hội đã nhất trí hạ chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế từ 8,5 - 9% xuống còn 7%. . Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng 6,23%, GDP bình quân đầu người lần đầu tiên vượt mốc 1.000 USD, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 65 tỷ USD, cao nhất trong 10 năm qua. Lạm phát được kiềm chế nhưng vẫn ở mức cao. Giá tiêu dùng tháng 12/2008 so với tháng 12/2007 tăng 19,89% và giá tiêu dùng bình quân năm 2008 so với năm 2007 tăng 22,97%. Nhìn lại năm qua, giá tiêu dùng diễn biến phức tạp, khác thường so với xu hướng giá tiêu cùng các năm trước. Nhật tạm ngừng cấp mới ODA cho Việt Nam. Cuộc điều tra về vụ tham nhũng xảy ra tại Dự án đại lộ Đông - Tây (PCI) có thêm những bằng chứng mới là nguyên nhân khiến Nhật Bản quyết định tạm ngừng cấp mới các dự án ODA cho Việt Nam với tổng giá trị lên đến 65,3 tỷ Yên (700 triệu USD) đối với các dự án hạ tầng giao thông và thoát nước. Dự án đại lộ Đông - Tây bắt đầu từ năm 2001, là một trong những dự án lớn từ vốn ODA của Nhật Bản, nhưng mới phát hiện ra tiêu cực trong năm 2008 này. Ngược lại với việc Nhật tạm ngừng cấp mới ODA cho Việt Nam, trong năm 2008, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng kỷ lục với hơn 64 tỷ USD (tăng gấp 3 lần so với năm 2007, gấp hơn hai lần so với con số của hai năm 2006 và 2007 cộng lại). Con số này đạt mức cao nhất trong vòng 20 năm qua kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài có hiệu lực, nâng tổng vốn FDI vào Việt Nam tiến gần đến con số 150 tỷ USD, tổng vốn thực hiện đạt trên 11 tỷ USD. Lãi suất ngân hàng tăng cao chưa từng có. Năm 2008 ghi nhận những biến động chưa từng có của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Để thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng linh hoạt, trong 6 tháng đầu năm, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã đưa ra rất nhiều biện pháp can thiệp hành chính đối với hệ thống ngân hàng thương mại. Đã có lúc lãi suất ngân hàng lên mức đỉnh 24 - 25%/năm, lãi suất huy động cũng đạt đỉnh 20%/năm. Nhiều ngân hàng thương mại cho vay cầm chừng, doanh nghiệp vay vốn khó khăn cả về lãi suất cao lẫn khả năng tiếp cận vốn, tín dụng tiêu dùng gần như bị cắt bỏ, tốc độ tăng trưởng tín dụng bước vào vùng thấp nhất trong năm (liên tục tăng dưới 1%/tháng, cả năm ước chỉ tăng khoảng 21% thay vì mức dự kiến khống chế 30%). Từ cuối tháng 7 đến nay, cùng với cơ chế cho vay mới, sự hỗ trợ của NHNN với nguồn vốn khả dụng của hệ thống tăng mạnh lên, lãi suất trên thị trường bắt đầu có đợt thoái trào, lãi suất cho vay tối đa về còn 12,75%/năm và lãi suất huy động rút về quanh mốc 8%/năm. Giá xăng dầu vận hành theo cơ chế thị trường. Kể từ ngày 16/9, các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu được tự quyền quyết định giá bán lẻ đối với mặt hàng xăng dầu; tính chung cho cả năm, giá xăng trong nước đã 2 lần tăng và 10 lần giảm. Vào hồi tháng 7, giá dầu thế giới lên tới 147 USD/thùng đã khiến giá xăng trong nước tăng lên mức kỷ lục 19.000 đồng/lít, thuế nhập khẩu mặt hàng này còn 0% (trước đó tăng từ 13.000 đồng/lít năm 2007 lên 14.500 đồng/lít vào tháng 2/2008). Về sau này, giá dầu thế giới giảm dần và hiện còn dưới 40 USD/thùng. Giá xăng do đó trong nước được điều chỉnh giảm theo, còn 11.000 đồng/lít, thuế nhập khẩu tăng lên kịch trần 40%. Công bố gói 1 tỷ USD kích cầu đầu tư. Vào cuối năm 2008, kinh tế đất nước có dấu hiệu rơi vào giảm phát, hàng nghìn doanh nghiệp đối mặt khó khăn, sức mua của người dân chững lại, Chính phủ đã công bố gói kích cầu 1 tỷ USD (khoảng dưới 1,2% GDP). Theo Bộ Kế hoạch - Đầu tư, 17.000 tỷ đồng kích cầu này được tập trung vào những lĩnh vực chịu ảnh hưởng nhiều nhất của cuộc khủng hoảng tài chính. Công nhân, học sinh, sinh viên, ký túc xá, trường học, nhà ở dành cho công nhân, sân bay, cầu đường sẽ là những đối tượng, lĩnh vực chính được rót vốn từ gói kích cầu này. Gói kích cầu 1 tỷ USD cũng sẽ dùng để hỗ trợ 4% lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Dự tính, khi gói kích cầu có hiệu lực thực hiện sẽ có khoảng 420.000 tỷ đồng vốn vay ưu đãi cung cấp cho nền kinh tế; tương tự, nếu hỗ trợ lãi suất 4% cho các doanh nghiệp, nguồn vốn cần huy động có thể lên đến 400.000 tỷ đồng. Lần đầu tiên chỉ số giá chứng khoán giảm gần 70% trong một năm. Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đã trải qua những diễn biến xấu nhất trong suốt hơn 8 năm đi vào hoạt động. Chỉ số giá chứng khoán của cả hai sàn giảm mạnh, đặc biệt, HaSTC -Index có thời điểm xuống dưới mức 100 điểm (ngày 27/11). So với thời điểm đầu năm 2008, HaSTC-Index và Vn-Index giảm tương ứng 67,2% và 66,9%. Trước đó, vào năm 2003, chỉ số chứng khoán từng giảm xuống mức thấp nhất 139 điểm nhưng mức giảm của Vn-Index trong năm này thấp hơn nhiều so với năm 2008. Việc huy động vốn qua TTCK giảm tới 75 - 80% và cả 3 kênh: phát hành tăng vốn của doanh nghiệp, cổ phần hóa, phát hành trái phiếu đều sụt giảm mạnh so với năm trước; tính thanh khoản - khối lượng giao dịch giảm khoảng 70% so với năm trước… Thị trường bất động sản đóng băng. Sau một thời gian dài phát triển quá nóng, thị trường bất động sản đóng băng và trải qua đợt sụt giảm về giá nhanh chóng. Chỉ chưa đầy 3 tháng (bắt đầu từ tháng 4/2008), sau khi Bộ Xây dựng dự kiến đánh thuế lũy tiến vào nhà đất và các ngân hàng áp dụng chính sách thắt chặt tín dụng, giá nhiều phân khúc bất động sản đã tuột dốc không phanh. Sự suy giảm nhanh nhất là ở các phân khúc nhà ở, đặc biệt là nhà cao cấp, với mức giảm từ 20 - 40%, thậm chí có nơi lên đến 60 - 70% (nhà biệt thự). Nguyên nhân chính của sự sụt giảm này là do chính sách thắt chặt tín dụng bất động sản của Chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát. Tuy giá giảm, nhưng so với thu nhập đầu người, giá bất động sản tại Hà Nội, TPHCM vẫn quá đắt đỏ. Bão giá gạo bùng lên vào giữa năm. Chưa bao giờ kinh tế Việt Nam phải đối mặt với nhiều tin đồn thất thiệt như năm nay, đặc biệt là tin đồn “ảo” gây nên “cơn sốt” giá gạo thật tại TPHCM, Hà Nội và các địa phương lân cận. Những thông tin về thị trường gạo thế giới dự báo giá sẽ tăng cao và có nguy cơ thiếu đói ở một số quốc gia, giới đầu cơ lợi dụng găm hàng tạo hiện tượng khan hàng ... gây tâm lý lo lắng, khiến người dân đua nhau đi tích trữ lúa, gạo. Sau cơn sốt giá này, thị trường gạo lại rơi vào tình trạng ứ đọng một lượng hàng hóa lớn vào những tháng giữa và cuối năm 2008, gây thiệt hại cho người nông dân. Sự kiện này được nhìn nhận như là một bất cập trong việc điều tiết thị trường lúa gạo, cảnh báo về năng lực dự báo giá các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Các tập đoàn kinh tế chịu nhiều chỉ trích. Đầu tư tràn lan ra ngoài ngành,vào những ngành nhiều rủi ro của các tập đoàn kinh tế với tổng mức huy động vốn quá lớn là nguyên do khiến Bộ Tài chính trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác. Theo đó, các tập đoàn, doanh nghiệp Nhà nước đầu tư ra ngành ngoài không được vượt quá 30% tổng vốn. Đặc biệt, việc Tập đoàn Điện lực (EVN) xin trích thưởng hơn 1.000 tỷ đồng, sau khi vừa đề nghị tăng giá điện lên 20% và trả lại 13 dự án điện cũng đã nhận nhiều lời chỉ trích của dư luận. Thiên tai gây hại nặng nề đến nền kinh tế. Tổng thiệt hại do thiên tai, lũ lụt, rét mướt mà các vùng miền trên cả nước phải chịu trong năm 2008 lên tới hơn 13,3 nghìn tỷ đồng, hàng trăm người thiệt mạng. Tính riêng đợt mưa lũ lịch sử kỷ lục kéo dài từ 30/10 - 7/11 tại các tỉnh phía Bắc, thiên tai đã gây thiệt hại hơn 6.300 tỷ đồng, trong đó Hà Nội chiếm tới 3.000 tỷ đồng. Cũng trong đợt mưa lũ lịch sử, Hà Nội bị cô lập giữa mênh mông biển nước, lần đầu tiên các doanh nghiệp bảo hiểm phải chi trả khoản tiền bảo hiểm cho xe ô tô ngập nước lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng. Mặc dù chịu thiệt hại nặng nề từ thiên tai, kết thúc năm 2008, tổng sản lượng lương thực của cả nước vẫn tăng 2,7 triệu tấn, đạt 38,6 triệu tấn; xuất khẩu hơn 4,6 triệu tấn gạo. 2.2.2 Về tình hình lạm phát: Lạm phát đã trở thành tâm điểm của điều hành chính sách vĩ mô khi giá cả các mặt hàng lên tới mức đỉnh điểm. Nền kinh tế đang từ mức phát triển quá nóng rồi đột ngột phải hãm phanh, lo ngại lạm phát vừa được đẩy lùi đã phải đối phó với khả năng giảm phát khi cuối năm nền kinh tế thế giới đồng loạt rơi vào suy thoái. GDP của Việt Nam đã liên tục được điều chỉnh giảm, tuy nhiên đã không thể về đích. Cả năm 2008, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam là 6,23%, chỉ số lạm phát ở mức 19,9%. Trước đó, ngày 22/4, Chính phủ tuyên bố điều chỉnh GDP năm 2008 từ mức 8,5% - 9% xuống 7%. Già nửa đầu năm 2008, lạm phát là vấn đề số 1 của chính sách kinh tế. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng liên tục leo thang từ tháng 2, đạt đỉnh điểm vào tháng 5 (tăng 3,19%). Biểu đồ tăng chỉ số giá tiêu dùng năm 2008 (%) Số liệu: Tổng cục thống kê Thời kỳ này đồng USD yếu làm giá cả hàng hóa thế giới, đặc biệt từ các nước xuất khẩu hàng sang Việt Nam tăng lên tương đối. Giá dầu thô tháng từ mức 89,4 USD thùng vào tháng 12/2007 lên 135 USD đến 147 USD/ thùng, giá phôi thép tăng khiến các doanh nghiệp tranh thủ nhập khẩu sợ giá có thể tăng lên tiếp. Nhập siêu trở thành vấn đề nghiêm trọng. Nhập siêu của 5 tháng/2008 đã trên 14,4 tỉ USD, cao hơn mức nhập siêu của cả năm 2007 (năm 2007 nhập siêu là 14,12 tỉ USD, bằng 29% kim ngạch xuất khẩu). Mức tăng của CPI vào tháng 5 cũng đạt mức đỉnh điểm của năm. Chính phủ phải nới biên độ tỷ giá từ ±0,75% lên ±1% vào ngày 10/03/2008 và từ 1% lên 2% vào ngày 27/06/2008, tận dụng sự trượt giá VND so USD thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập khẩu.  Số liệu : Tổng cục hải quan Tổng đầu tư của toàn xã hội năm 2007 khoảng 493,6 nghìn tỉ đồng, chiếm 43% GDP với số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phê duyệt đạt 21,3 tỉ USD và vốn thực hiện đạt 6,4 tỉ USD, cao hơn 77% so với năm 2006. Tổng chi ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỉ đồng, vượt khoảng 12% so với dự toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 nghìn tỉ đồng, bằng 5% GDP. Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỉ USD, bằng 29% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng gấp hơn 2,5 lần so với năm 2006. Đà tăng trưởng đó khiến lượng tiền đồng trong nền kinh tế tăng lên, cao hơn so với sức hấp thụ của nền kinh tế, gia tăng áp lực lạm phát. Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp đôi so với tốc độ tăng của năm 2006. Tính đến 31-12-2007, tổng phương tiện thanh toán tăng 46,7% so với 31/12/2006. Tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế năm 2007 tăng 58% so với năm 2006. Nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng đột biến là do tổng lượng ngoại tệ ròng chảy vào nền kinh tế trong năm 2007 ước chừng lên tới 22 tỉ USD, tương đương 30% GDP. Để duy trì tỷ giá USD, Ngân hàng nhà nước đã tăng dự trữ ngoại hối từ 11,5 tỉ USD (năm 2006) lên 21,6 tỉ USD (năm 2007) và đẩy một lượng lớn nội tệ ra thị trường. Chính phủ đã thực hiện cắt giảm đầu tư công, hạn chế tín dụng bằng việc buộc NHTM phải mua 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, khống chế  dư nợ tín dụng của cả nền kinh tế năm 2008 xuống 30%. Đến chỉ số giá tiêu dùng tăng trưởng âm, xuất khẩu sụt giảm và gói kích cầu 6 tỷ USD Xuất khẩu và nhập khẩu liên tục sụt giảm từ tháng 7/2008 (Số liệu Tổng cục hải quan) Trong vòng bảy tháng, sau khi ban hành tám nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, giúp hạ nhiệt nền kinh tế vào 17/4/2008. Ngày 11/12/2008, Chính phủ ban hành 9 chính sách thuế nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế. Như giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, giãn thời gian nộp thuê thu nhập doanh nghiệp, tạm hoàn 90% thuế GTGT đầu vào dù chưa có chứng từ thanh toán, tăng thuế nhập khẩu và hạ thuế xuất khẩu một số mặt hàng nhằm ổn định đầu vào sản xuất, khuyến khích xuất khẩu. Trước đó, ngân hàng nhà nước đã liên tục có các động thái giảm lãi suất cơ bản kéo trần lãi suất cho vay xuống, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp có vốn để sản xuất kinh doanh. Đến ngày 22/12, lãi suất cơ bản hạ xuống còn 8,5% về gần bằng mức đầu năm là 8,25%, sau khi lên cao nhất ở mức 14% năm. Đồng thời hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạ lãi suất cho vay tái chiết khấu, tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc,… để hỗ trợ vốn cho ngân hàng. Số liệu: Ngân hàng Nhà nước Các nước lần lượt công bố các gói kích cầu hỗ trợ nền kinh tế. Mỹ 3/10/2008 thông qua kế hoạch gói 700 tỷ USD để cứu ngành ngân hàng. Châu Âu kế hoạch 267 tỷ USD kích thích tăng trưởng kinh tế (ngày 12/12/2008), Trung Quốc, kế hoạch 586 tỷ USD kích thích tăng trưởng kinh tế. Không nằm ngoài dòng chảy kinh tế thế giới, ngày 24/12/2008, trong buổi họp báo của Văn phòng Chính phủ, nhiệm vụ trọng tâm được Chính phủ đề ra là “ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng 6,5%, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội”. Chính phủ dự định triển khai gói kích cầu 6 tỷ USD, trong đó 1 tỷ USD dùng để hỗ trợ lãi suất cho vay của các ngân hàng với mức 4%. Còn lại là chính sách dùng để hoãn, giảm thuế cho doanh nghiệp. 2.2 Sơ bộ tình hình lạm phát 4 tháng đầu năm 2009: Tính chung hai tháng đầu năm 2009, CPI đã tăng 1,49% và mức tăng trung bình so với 2 tháng đầu năm 2008 là 16,13%. Tăng giá mạnh nhất là nhóm hàng thực phẩm và dịch vụ ăn uống (1,67%). Trong đó, thực phẩm tăng tới 1,72%, lương thực tăng 0,82%, dịch vụ ăn uống ngoài gia đình đã tăng giá 2,63%. Nhóm hàng nhà ở và vật liệu xây dựng tăng giá 1,59%. Nhóm hàng đồ uống và thuốc lá chỉ tăng giá 0,8%, may mặc và giày dép tăng giá 0,44%, thiết bị và đồ dùng gia đình tăng giá 0,7%. Các hàng hóa khác tăng giá 2,01%. Trong khi đó, nhóm hàng phương tiện đi lại và bưu điện giảm giá 0,05%. Tháng 2-2009 cũng chứng kiến việc lần đầu tiên sau nhiều năm, giá rau xanh không tăng sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán ở các đô thị lớn, đặc biệt là Hà Nội và TPHCM. Điều này cũng cho thấy sự khác biệt trong diễn biến thị trường tết năm nay so với các năm trước. Cũng theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, trong tháng 2-2009, giá vàng tăng 5,74% và tỷ giá đô la Mỹ tăng 0,91%. Ba tháng cuối cùng của năm 2008, CPI đã ở mức âm. CPI tháng 1-2009 ở mức 0,32%. Theo quy luật, CPI tháng đầu tiên trong năm thường tăng cao hơn những tháng trước đó do thói quen tiêu dùng nhiều vào dịp tết âm lịch. Mặc dù CPI tháng 2-2009 tăng nhưng mức tăng cũng thấp hơn so với các năm trước. Điều này chứng tỏ dù CPI có tăng song xu hướng giảm phát vẫn đang tiếp diễn. Các biện pháp kích cầu chưa có ảnh hưởng rõ nét. Theo số liệu của cơ quan thống kê công bố ngày 19/3, chỉ số giá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLạm phát- từ lý thuyết đến thực tiễn ở việt nam.doc
Tài liệu liên quan