Đề án Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 1

Phần nội dung 3

Phần I: Tổng quan về lạm phát và lạm phát ở Việt Nam 3

1/ Lạm phát 3

1.1/ Lạm phát vừa phải 4

1.2/ Lạm phát phi mã 4

1.3/ Siêu lạm phát 4

2/ Những biểu hiện của lạm phát 4

2.1/ Sự mất giá liên tục của các loại đồng tiền có giá 5

2.2/ Sự giảm giá của đồng tiền so với ngoại tệ và vàng 5

2.3/ Khối lượng bút tệ tăng lên 5

3/ Lạm phát ở Việt Nam ( từ năm 1986 đến năm 2004) 5

3.1/ Thời kỳ trước đổi mới( trước năm 1986 ) 6

3.2/ Thời kỳ bước vào đổi mới và lạm phát cao (1986-1990 ) 6

3.3/ Thời kỳ kinh tế đi vào ổn định và lạm phát thấp( 1991- 1995 ) 6

3.4/ Thời kỳ kinh tế có xu hướng giảm phát ( 1996-2000) 7

3.5/ Thời kỳ kinh tế có sự thay đổi mới ( 2001-2005 ) 7

Phần II: Nguyên nhân và các tác động của lạm phát 8

1/ Nguyên nhân của lạm phát 8

1.1/ Lạm phát để bù đắp các thiếu hụt của ngân sách 8

1.2/ Lạm phát do nguyên nhân chi phí 8

1.3/ Lạm phát ỳ 9

2/ Tác động của lạm phát 9

2.1/ Làm phân phối lại thu nhập và của cải giữa các giai cấp khác nhau 10

2.2/ Đối với vấn đề thất nghiệp 11

2.3/ Tác động của lạm phát dự kiến 12

Phần III: Nhìn nhận lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 13

1/ Tình hình biến động giá cả 14

2/ Nguyên nhân tăng giá 16

2.1/ Nguyên nhân khách quan 16

2.2/ Các nguyên nhân chủ quan 16

Phần IV: Các giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam 17

1/ Các giải pháp lâu dài để kiềm chế lạm phát 17

2/ Các biện pháp chống lạm phát ở Việt Nam hiện nay 18

3/ Một số đề xuất, kiến nghị 20

Tài liệu tham khảo 22

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1649 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Lạm phát và các giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất hiện. Tuy nhiên, bước vào giai đoạn 1976-1985 nền kinh tế đã có nhiều biểu hiện suy thoái, khủng hoảng và lạm phát. Sản xuất đình đốn, kinh doanh kém hiệu quả, năng suất lao động thấp, chi phí vật chất cao, thu nhập quốc dân tăng không đáng kể, đời sống nhân dân giảm sút, giá cả ở thị trường chính thức và thị trường chợ đen có khoảng cách khá xa. Nông nghiệp với tỷ trọg chiếm trên 40% tổng sản phẩm xã hội và khoảng 50% thu nhập quốc dân, nhưng gía trị sản xuất nông nghiệp chỉ tăng 3,8%/ năm. Công nghiệp tăng bình quân 5,2%/năm. Dịch vụ thì hầu như không phát triển, xuất khẩu thì nhỏ bé. Thời kỳ này, tình trạng đất nước làm không đủ ăn, tình hình kinh tế- xã hội khó khăn không thể kể hết. 3.2/ Thời kỳ bước vào đổi mới và lạm phát cao (1986-1990 ) Sau Đại hội đảng lần thứ VI, công cuộc đổi mới đã đạt được nhiều kết quả bước đầu rất đáng khích lệ, nhất là từ năm 1989. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn ở trong tình trang khủng hoảng kinh tế- xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 3,9%/ năm trong khi dân số tăng 2,3%. Trong thời kỳ này, lạm phát ở mức cao, thu nhập người dân lại không tăng, vì vây mức sống thực của người dân đã thấp nay còn thấp hơn. 3.3/ Thời kỳ kinh tế đi vào ổn định và lạm phát thấp( 1991- 1995 ) Giai đoạn này, tình hình kinh tế- xã hội nước ta có nhiều chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng đạt khá cao, liên tục và toàn diện, nền kinh tế đã bắt đầu vượt ra khỏi khủng hoảng để đi vào thế ổn định. Điểm nổi bật là sự tăng trưởng kinh tế vượt trội hơn các giai đoạn trước đó với tốc độ tăng trưởng cao, ổn định và liên tục. Thành công trong quá trình đổi mới của nền kinh tế giai đoạn 1991-1995 là bước đầu chặn được lạm phát. Chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 67,1% năm 1990 xuống 12,7% năm 1995. Nămm 1991, tỷ lệ lạm phát là 67,5%, năm 1992 là 17,5%, năm 1993 là 5,2%, năm !993 la 14,4% và năm 1995 là 12,7%. Mặc dù tỷ lệ lạm phát vẫn ở mức hai con số song đây là một chỉ số giá rất nhỏ bé so với các năm trước đó 3.4/ Thời kỳ kinh tế có xu hướng giảm phát ( 1996-2000) Bước vào giai đoạn 1996-2000, các cuộc khủng hoảng khu vực và thế giới đã tác động không nhỏ tới nền kinh tế nước ta.Thiên tai lại liên tiếp xảy ra trong nước… Tuy vậy, một điều đáng lưu ý trong giai đoạn này là tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng chững lại thì tỷ lệ lạm phát lai đi xuống và chuyển sang giai đoạn thiểu phát. Điều này thể hiện ở chỗ năm 1995 tỷ lệ lạm phát là12,7% thì đến năm 2000 là -0,6% đi cùng với chỉ số giá tiêu dùng ở mức 0,1% năm 1999 và -0,6% năm 2000. Thời kỳ này cho ta thấy khi lạm phát thấp hay giảm phát thì mức tăng trưởng kinh tế bị kìm hãm, ảnh hưởng không tốt đối với nền kinh tế. Chính vì vậy trong giai đoạn này chúng ta đã áp dụng các biện pháp kích cầu để đẩy nhanh tăng trưởng lên. 3.5/ Thời kỳ kinh tế có sự thay đổi mới ( 2001-2005 ) Với những vấn đề nêu trên, những năm đầu của giai đoạn này, chúng ta đã áp dụng nhiều biện pháp hạn chế thiểu phát, kích cầu nhằm đưa tỷ lệ lạm phát lên một mức hợp lý . Trong bốn năm, nền kinh tế đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, cơ chế kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mọi mặt xã hội được cải thiện và phát triển. Tỷ lệ lạm phát tăng từ -0,6% năm 2000 lên 9,5% năm 2004. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển mạnh của nền kinh tế trong giai đoạn 2001-2004 thì lạm phát lại có nguy cơ tái diễn. Năm 2004, tình hình biến động trên thị trường thế giới và biến động trên thị trường trong nước, lạm phát lại như một bóng ma một lần nữa lại rình rập gây bất ổn định nền kinh tế. Với chỉ số giá 9,5% năm 2004 là một gianh giới mỏng manh giữa lạm phát kiểm soát được và lạm phát cao. Phần II Nguyên nhân và các tác động của lạm phát Trong phần II này, người viết muốn đem đến cái nhìn tổng quan nhất về nguyên nhân và các tác động chung cua lạm phát đối với xã hội và kinh tế, trước khi đi sâu tìm hiểu nguyên nhân lạm phát ở nước ta trong thời gian vừa qua. 1/ Nguyên nhân của lạm phát Lạm phát khởi thuỷ từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Thứ nhất là lạm phát có thể xảy ra do tác động chủ quan của hệ thống tiền tệ- tín dụng – ngân hàng. Bất cứ một sự biến đổi nhỏ nào của hệ thống này đều có tác động hoặc tăng hoặc giảm tỷ lệ lạm phát Thứ hai là lạm phát cũng chịu ảnh hưởng của một số yếu tố khách quan như chính trị, xã hội, thiên tai, bão lụt, tình trạng thất nghiệp, nền sản xuất.. do chịu tác động của nhiều yếu tố trong nền kinh tế như vậy nên lạm phát diễn biến hết sức phức tạp đòi hỏi trong quá trình chống lạm phát có chiến lược đúng đắn để lạm phát luôn nằm trong quỹ đạo mà nền kinh tế có thể chấp nhận được Những nguyên nhân khách quan và chủ quan đó có thể tóm gọn lại như sau 1.1/ Lạm phát để bù đắp các thiếu hụt của ngân sách Đây là nguyên nhân thông thường nhất do sự thiếu hụt ngân sách chi tiêu của Nhà nước( y tế, giáo dục, quốc phòng) và do nhu cầu khuyếch trương nền kinh tế. Nhà nước của một quốc gia chủ trương phát hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp cho các chi phí nói trên đang thiếu hụt. Nguyên nhân của lạm phát ở đây được xác định là lạm phát do cầu hàng hoá vượt qua cung. Hàng hoá bị săn đuổi bởi lượng chi tiêu quá lớn, mà bản chất của nó là sự chi tiêu quá nhiều trong lúc lượng cung hàng hoá bị hạn chế. 1.2/ Lạm phát do nguyên nhân chi phí Trong điều kiện hiện nay, xu hướng tăng giá cả của các loại hàng hoá và tiền lương luôn luôn diễn ra trước khi nền kinh tế đạt được một khối lượng công ăn việc làm nhất định. Điều đó có nghĩa là chi phí sản xuất đã đẩy giá cả tăng lên ngay cả trong các yếu tố sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ, lạm phát xảy ra. Lạm phát như vậy có nguyên nhân là do sức đẩy của chi phí sản xuất. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể thấy rằng nếu tốc độ tăng tiền lương nhanh hơn tốc độ tăng của năng suất lao động sẽ đẩy chi phí sản xuất tăng lên, có nghĩa là chi phí tiền công trong một đơn vị sản phẩm tăng lên. Thực chất ở các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa khi các cuộc đấu tranh của công đoàn đạt được một thoả thuận về mức lương mới thì các nhà tư bản lại tìm cách lấy lại khoản mà họ đã mất đi do tăng tiền lương cho công nhân bằng cách nâng giá bán hàng hoá lên. 1.3/ Lạm phát ỳ Lạm phát ỳ là một khái niệm của các nhà kinh tế tư bản, là lạm phát chỉ tăng với một tỷ lệ không đổi hàng năm trong một thời gian dài. ở những nước có lạm phát ỳ xảy ra , có nghĩa là nền kinh tế ở nước đó có một sự công bằng mong đợi, tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ được trông đợi và được đưa vào các hợp đồng và các thoả thuận không chính thức. Tỷ lệ lạm phát đó được ngân hàng trung ương, chính sách tài chính của Nhà nước, giới tư bản và cả giới lao động thừa nhận và phê chuẩn nó. Đó là một sự lạm phát nằm trong kết cấu biểu hiện một sự cân bằng trung hoà và nó chỉ biến đổi khi có sự chấn đông kinh tế xảy ra. ( Lúc đó lạm phát ỳ có thể tăng hoặc giảm). 2/ Tác động của lạm phát Tìm hiểu về những tác động của lạm phát đối với các mặt của đời sống kinh tế – xã hội là cần thiết để từ đó đưa ra những giải pháp đúng đắn, hợp lý và hiệu quả chống lại lạm phát. Lạm phát được nhận diện về tác động của nó lại hết sức khác nhau, xét về nhiều góc độ khác nhau, biểu hiện ở nhiều trường phái kinh tế khác nhau, bao gồm cả những sự lên án gay gắt, cùng sự thừa nhận vai trò tích cực của nó đối với nền kinh tế. Vậy nên nhìn nhận vấn đề về tác động của lạm phát theo hướng nào? Với những người lên án lạm phát, tất thảy đều cho rằng lạm phát là thứ thuế phi lí nhất, vô nhân đạo nhất, và do đó cũng là tàn nhẫn nhất. Cơ sở của sự lên án này là lạm phát làm giảm sức mua của đồng tiền, tạo ra sự phân phối thu nhập tiền tệ, làm cho người giàu ( sở hữu nhiều tài sản ) thì giàu thêm và người nghèo ( không hoặc sở hữu ít tài sản ) thì nghèo thêm, với sự phê phán này, lạm phát chính là sự cố ý hay không cố ý gây ra bởi Nhà nước- chỉ có Nhà nước- người điều hành và quản lý nền kinh tế- mới gây ra họăc không gây ra mà thôi, và do đó, cùng với các sắc thuế mà nhà nước định ra và hành thu thì đây cũng là sự tước đoạt phần thu nhập chính đáng của họ- qua giảm sức mua của tiền tệ- và người gây ra không ai khác là Nhà nước- mà đại diện là ngân hàng trung ương- cơ quan độc hành phát hành tiền. Khác với những phê phán nói trên, một trường phái kinh tế khác cho rằng, không phải bất kỳ một loại lạm phát nào cũng đều là xấu, mà tuỳ thuộc vao từng loại lạm phát. Người ta cho rằng, điều lên án trên chỉ ám chỉ lạm phát phi mã và siêu lạm phát. Với lạm phát vừa phải không những không có hại mà ngược lại, còn cần đối với nền kinh tế, nhiều khi nó như là một loại chất kích thích, có khả năng giúp nền kinh tế tăng trưởng . Đại diện cho quan điểm này là Benjamin Franklin với câu nói sau đây: “ vào khoảng thời gian có tiếng kêu… đòi có nhiều tiền giấy hơn… tôi đã đứng về phía phát hành thêm vì tôi tin chắc rằng, số lượng nhỏ đầu tiên in vào năm 1723 đã đem lại nhiều điều tốt, thúc đây buôn bán, tạo thêm công ăn việc làm đối với số dân ở các tỉnh. Tính lợi ích của số tiền đó, qua thời gian và kinh nghiệm, đã hiển nhiên đến mức không ai tranh cãi giì nhiều… tuy nhiên… có những giới hạn của nó mà vượt khỏi giới hạn đó thì lợi biến thành hại”. Ngày nay, các quan điểm đã được kiểm chứng tính đúng đăn của nó trong đời sống của nhiều nền kinh tế khác nhau. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì làm phát bao giờ cũng gây ra những tác động đối với đời sống, đặc biệt là lạm phát phi mã và siêu lạm phát. Các tác động của nó là: 2.1/ Làm phân phối lại thu nhập và của cải giữa các giai cấp khác nhau Khi lạm phát xảy ra, những người có tài sản, những người cho vay nợ là có lợi nhất. Vì giá cả các loại tài sản và hàng hoá đều tăng lên, còn giá trị đồng tiền thì giảm xuống. Những người làm công ăn lương, những người gửi tiền là bị thiệt hại. Vì vậy để tránh thiệt hại một số nhà kinh tế đưa ra bài tính đơn giản là lãi suất cần phải được điều chỉnh cho phù hợp và đúng với tỷ lệ lạm phát . Ví dụ lãi suất thực tế là 3%, tỷ lệ tăng gía cả là 9% thì lãi suất danh nghĩa phải là 12%. Tuy nhiên, một sự điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với tỷ lệ lạm phát chỉ có thể thực hiện được ở mức lạm phát thấp, lạm phát một con số một năm. Khuynh hướng chung là khi dự đoán có lạm phát các người làm ăn” kinh tế ngầm” họ thường dự trữ vàng, đầu tư vào bất động sản và ngồi chờ lạm phát xảy ra. Trong khoảng thời gian 1987-1988 và đầu năm 1989 nhiều người đâù cơ vàng và bất động sản ở Việt Nam đã giàu lên nhanh chóng. Còn những người làm công ăn lương thì cũng nghèo đi nhanh chóng như vậy. Khi giá vàng bị đẩy lùi trở lại, những người đầu cơ vàng vẫn không bị thiệt hại giì bởi vì giá vàng so với các loại hàng hoá khác cao cấp như tủ lạnh, ti vi… và ngoại tệ thì vẫn không suy giảm chút nào cả. Vì vậy trong thời kỳ giá vàng bị đẩy lùi trở lại xuống mức rất thấp họ âm thầm mua vàng và lại bán ra khi ra vàng được nâng lên. Trong thời kỳ này những người gửi tiền tiết kiệm là bị thiệt hại nhiều nhất. ở thời kỳ lạm phát các nhà nướcthấy rằng họ giảm bớt được các gánh nợ nần của chính phủ. Song họ sẽ bi áp lực chính trị của khối đông quần chúng nhân dân lao động bị thiệt hại do lạm phát xảy ra. ở thời kỳ lạm phát như vậy nếu Nhà nước mở rộng khối cung tiền tệ để đáp ứng yêu cầu của đầu tư thì nó sẽ kích thích các nhà đầu tư, vì người vay tiền luôn có lợi và kinh tế sẽ có khả năng phát triển, nhưng nếu chi tiêu của Nhà nước chỉ nhằm vào các khoản phi sản xuất thì nền kinh tế sẽ tồi tệ đi. Các nhà kinh doanh có khuynh hướng ngâm hàng để hưởng lợi, bởi nếu tiếp tục sản xuất chưa chắc đã có lợi bằng việc giữ hàng. 2.2/ Đối với vấn đề thất nghiệp Đối với kinh tế tiền tệ, khi lạm phát xảy ra nói chung nó có tác động làm tăng trưởng nền kinh tế và tạo ra nhiều công ăn việc làm, vì vậy tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm. Nhưng trong nền kinh tế bao cấp thì không như vậy, vì việc sản xuất nhiều hay ít đều do nhà nước quyết định, chỉ tiêu giá cả đều do nhà nước quy định, nên sự thúc đẩy của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế là không có. Tất nhiên sản xuất không ra tăng thì khối lượng công ăn việc làm cũng không nhiều lên và từ đó thu nhập danh nghĩa từ lương không thể đủ sống, do vậy có hiện tượng họ làm lấy lệ rồi tìm một việc giì đó có thu nhập để kiếm thêm, có khi thu nhập này còn lớn hơn cả tiền lương. Trong cơ chế thị trường lạm phát làm biến dạng giá cả tương đối, đặc biệt là tiền tệ bị mất giá nghiêm trọng, lãi suất thực tế bị giảm đến mức dưới 0. Ví dụ những người gửi tiền trong năm 1980 ở Đức thu được lãi suất thực tế bằng-12,6%. Lý do là giá cả của đầu vào được định theo các quy tắc lâu dài, còn giá cả đầu ra thì không chịu theo quy tắc đó Tuy nhiên, cần lưu ý là tuỳ vào mức độ lạm phát mà sự thiệt hại của lạm phát sẽ như thế nào. Lạm phát thấp vừa phải sẽ gây ra những tác động vừa phải. lạm phát cao sẽ có những tác hại lớn hơn. Về khía cạnh chính trị lạm phát làm nhân dân phẫn nộ. Xung đột giai cấp sẽ xảy ra ở các nước tư bản , ở các nước XHCN nhân dân sẽ phản ứng do việc phân phối không công bằng: bộ phận sản xuất luôn được tăng thu nhập, bộ phận hành chính sự nghiệp thu nhập bị giảm sút. 2.3/ Tác động của lạm phát dự kiến Chúng ta sẽ tìm hiểu về loại lạm phát dự kiến Giả sử mỗi tháng giá cả tăng 1%. Loại lạm phát ổn định và biết trước 12%/ năm này gây ra những tổn thất cho xã hội Thứ nhất là tác dụng gây biến dạng thuế lạm phát đối với số tiền mà mọi người đang giữ. Thứ hai , tổn thất của lạm phát sinh khi lạm phát cao buộc các dạn phải thay đổi biểu giá thường xuyên hơn. Việc thay đổi giá đôi khi cũng tốn kém Thứ ba, tổn thất của lạm phát sinh ra do các doanh nghiệp tránh điều chỉnh giá cả thường xuyên khi chi phí cho việc điều chỉnh đó phát sinh, vì vậy, lạm phát càng cao , sự biến động của giá tương đối càng lớn. lạm phát gây ra sự biến động giá cả tương đối. Vì nền kinh tế thị trường dựa vào giá tương đối để phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả, nên lạm phát dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên giác độ vi mô. Loại tổn thất thứ tư của lạm phát do luật thúê gây ra. Nhiều điều khoản của luật thuế không tính đến lạm phát. lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của cá nhân, thường trái với ý định người làm luật.Một ví dụ về thất bại của luật thuế trong việc đối phó với lạm phát là cách sử lý của thuế đối với lãi về vốn. Tổn thất thứ năm của lạm phát là sự bất tiện của cuộc sống trong một thế giới mà giá cả thị trường thường xuyên thay đổi. Tiền là thước đo mà chúng ta dựa vào để tính toán các giao dịch kinh tế. Khi có lạm phát phát, cái thước này co giãn. Khi mua người nào đó đo bằng thước, chúng ta cần xác định xem anh ta đo bằng thước đo năm 1995 hay 1996. để so sánh chiều dài qua các năm người ta cần điều chỉnh “lạm phát “. Cũng như vậy, đồng đô la là cái thước kém tác dụng hơn khi giá trị của nó thường xuyên thay đổi. Phần III Nhìn nhận lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Do nôi dung bài tiểu luận có hạn, không cho phép phân tích được một cách toàn diện các cuộc lạm phát ở Việt Nam trong tất cả các năm trở lại đây, vì vậy trong phần III sẽ chỉ đi sâu vào phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam trong 2 năm( 2004 – 2005) Trong vài năm qua nền kinh tế Việt Nam có những nét có vẻ ngày càng khởi sắc, chẳng hạn như tốc độ phát triển kinh tế đã từ 4,8% năm 1999 lên đến trên 7% năm 2003, nhưng phân tích kỹ hơn ta thấy có những đám mây mù dường như đang kéo lại từ phía chân trời. Sau cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra ở Châu á năm 1997, Việt Nam chủ trương kích cầu nhằm giảm bớt ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng và bù lại mức giảm đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Ta thấy mức đầu tư nhanh chóng đưa lên từ tỷ lệ 27,6% GDP năm 1999 lên tới 35%GDP năm 2003. Đây cũng là tỷ lệ đầu tư kỷ lục trên thế giới, thế nhưng do hiệu quả sản xuất thấp vì chính sách đầu tư vẫn tập trung vào khu vực Nhà nước, tốc độ phát triển cũng chỉ đạt được 7,35. Trong đầu tư, chính sách của Nhà nước vẫn là tập trung phát triển sản xuất thay thế nhập khẩu( thay thế sắt thép, xi măng, đường) ,kể cả v iệc đưa tới việc bảo vệ thị trường nội địa cho đầu tư nước ngoài( xe hơi, xe gắn máy ), thay vì việc tập trung phát triển sản xuất nhằm xuất khẩu. Do chính sách kinh tế trên, thiếu hụt cán cân xuất nhập khẩu ngày càng cao, tăng từ 0% GDP năm 1999 lên 13,5 % năm 2003. Chính sách kích cầu, đi liền và đòi hỏi ngân hàng tín dụng đã đưa lạm phát đến mức báo động. Cả năm 2003 lạm phát là 3%. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2004 lạm phát đã lên tới 7,2 % và cho cả năm 2004. Việc tăng tiền lương không bắt kịp với tỷ lệ lạm phát . Từ “Lạm phát “ là dịch nghĩa của chữ inflation. Về chữ nghĩa thì “lạm phát “ là lạm phát in tiền. Do đó có thể lý luận một cách vô nghĩa rằng tăng giá không nhất thíêt là do lạm phát tiền. Nhưng lý thuyết tiền tệ đã chỉ ra rằng tăng gía nói chung cho cùng là tăng vấn đề về tiền tệ Mặc dù trong thời gian 2004 và đầu năm 2005 tình hình lạm phát đang ở mức có thể kiểm soát được, nhưng nguy cơ bùng nổ lạm phát vẫn ở mức cao đe doạ sự ổn định và phát triển của kinh tế Việt Nam. 1/ Tình hình biến động giá cả Từ những tháng đầu năm 2004, tình hình giá cả trong nước và quốc tế có những diễn biến phức tạp, giá một số vật tư và hàng tiêu dùng thiết yếu tăng cao ảnh hưởng xấu tới sản xuất và đời sống. Chỉ số giá tiêu dùng hầu như tăng liên tục trong cả năm 2004. Đặc biệt trong 6 tháng đầu năm : tháng 1 tăng 1,1 %, tháng 2 tăng 3 %, tháng 3 tăng 0,8 %, tháng 4 tăng 0,5 %, tháng 5 tăng 0,9 %, cao hơn tháng 2, 3, 4. Chỉ số giá tiêu dùng đầu năm 2004 đã tăng 7,2 % so với tháng 12/2003. Sau một loạt các biện pháp được áp dụng thì tình hình giá cả được cải thiện. Giá cả 6 tháng cuối năm có tăng chậm và thấp hơn so với 6 tháng đầu năm và chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 năm 2004 so với thagn 12 năm 2003 tăng 9,5 % , trong đó giá lương thực thực phẩm vẫn là tăng cao nhất ( 15,5%). Mức độ tăng gía 6 tháng và cả năm 2004 chỉ tập trung vào các nhóm hàng lương thực thực phẩm, thuốc tân dược , giá nhà ở và vật liệu xây dựng. 6 tháng đầu năm 2004 giá nhóm hàng lương thực thực phẩm tăng cao nhất là 12,3%, trong đó giá lương thực tăng 11,5%, thực phẩm tăng 14,6 %. Tình hình giá cả cả năm 2004 cũng phản ánh xu thế như 6 tháng đầu năm tuy có chuyển biến đôi chút. Việc giá thực phẩm tăng cao được giải thích do dịch cúm gà nên gây ra tổng cung thực phẩm thấp hơn tổng cầu thực phẩmvào các tháng đầu năm. Còn giá lương thực các tháng cuối năm tăng chậm lại do giảm bớt xuất khẩu lương thực nên giảm bớt sự mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu. Mặt khác, 6 tháng cuối năm nhờ có các chính sách chống đầu cơ thuốc và luật đất đai có hiệu lực, cũng như có nhiều công trình xây dựng nhà đang dần đưa vào cuộc sống hơn nên đã làm cho mức giá các mặt hàng này giảm xuống. Quan sát 6 tháng đầu năm 2004 thì thấy có đến 4 nhóm hàng có chỉ số giá tiêu dùng giảm so với tháng 5/2004. Đó là nhóm hàng nhà ở và vật liệu xây dựng . Ngoài ra một số nhóm hàng có chỉ số giá tăng nhẹ như may mặc, giày dép, mũ nón( tăng 2,1%), thiết bị và đồ dùng gia đình cũng tăng 1,6% so với tháng 12/2003. Tháng 6, chỉ số giá đôla Mỹ vẫn giữ nguyên trong khi giá vàng đã giảm tới 1,4%. Nhưng đến tháng 7/2004 thì giá các mặt hàng tăng không đáng kể so với thang6 trừ giá dược phẩm và y tế tăng 0,7 %, giá lương thực thực phẩm giảm 0,3%, chỉ có gia phương tiện đi lại và bưu điện vẫn tăng cao là 3%, giá vang tăng 0,5% và gía đô la giảm 0,1%. Theo thông báo của cục thống kê, tình hình giá cả bốn tháng đầu năm 2005, tuy còn cao nhưng vẫn thấp hơn cùng kỳ năm 2004. Nếu đến tháng 2 năm 2004 chỉ số giá tiêu dùng là 3,0% thì tháng 2 năm 2005 chỉ số này chỉ ở mức 2,5%, thấp hơn 0,5%. Đến tháng 3 thì dấu hiệu sáng sủa hơn ở chỗ chỉ số giá tháng 3 năm 2005 chỉ tăng 0,1% , trong khi tháng 3 năm 2004 chỉ số này là 0,85. Xét cả 4 tháng cho thấy chỉ số giá ở mức 4,3% thấp hơn hẳn chỉ số này so với 4 tháng đầu năm 2004(5,4%), tức là chỉ bằng 79,6% của 4 tháng đầu năm 2004. Sở dĩ chỉ số giá chung 4 tháng đầu năm 2005 tăng thấp hơn 4 tháng đầu năm 2004 là do giá lương thực thực phẩm giảm khá. Tốc độ tăng gía lương thực 4 tháng đầu năm 2005 (5,4%) chỉ bằng 64,2 % mức tăng giá trong 4 tháng đầu năm 2004(8,4%). Tình hình giá cả và chỉ số giá 4 tháng đầu năm 2005 tăng thấp hơn 4 tháng đầu năm 2004 có thể lý giải ngay là do ngay từ đầu năm chung ta đã có nhiều biện pháp chống lạm phát và đẩy lùi lạm phát , đẩy mạnh phát triển sản xuất. Thứ nhất là nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng cao hơn cùng kỳ năm trước. Thứ hai, sản xuất công nghiệp có tăng cao hơn trước, giá trị sản xuất công nghiệp ba tháng đầu năm tăng 13,4%. Thứ ba, sản xuất nông nghiệp có chuyển biến tích cực tăng 5% so với mức tăng 0,8% cùng kỳ năm ngoái. Thứ tư, kim nghạch xuất khẩu tăng 23,25. Thứ năm, dịch cúm gia cầm được khoanh cùng và tiêu diệt nên không gây ra tổn thất lớn. Mặc dù giá cả các mặt hàng trong nước 4 tháng đầu năm đã có chuyển biến tích cực, đã thấp hơn so với 4 tháng đầu năm 2004, nhưng nguy cơ lạm phát vẫn ở mức cao trong năm 2005. Tình hình giá cả thế giới trong năm 2005 vẫn còn nhiều phức tạp, đặc biệt là giá dầu thế giới tăng cao vượt kỷ lục từ trước tới nay ảnh hưởng lớn tới mọi mặt sản xuất của xã hội. Trong nước, hạn hán kéo dài… Như vậy, nguy cơ làm cho tổng cung hàng hoá thấp hơn tổng cầu về hàng hoá luôn luôn túc trực xuất hiện và lạm phát cao đe doạ không phải là không có. Mục tiêu mà Quốc hội đề ra cả năm 2005 là 6,5%, tuy nhiên các chuyên gia dự đoán rằng, lạm phát cả năm có thể là 7%, cao hơn so với mục tiêu là 0,5%. Bởi vậy, cần cảnh giác hơn nữa với lạm phát nước ta. 2/ Nguyên nhân tăng giá Nguyên nhân tăng giá 2004 – 2005 về cơ bản có thể phân chia thành nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan 2.1/ Nguyên nhân khách quan Nguồn gốc sinh ra lạm phát không chỉ từ bên ngoài mà còn có cả từ bên trong, chứ không phải từ một phía nào cả. Lạm phát là do giá cả trên thị trường thế giới tăng mạnh kéo theo sự tăng giá hàng hoá nhập khẩu. Nhưng tăng giá hàng nhập khẩu đã làm chi phí sản xuất của các dạn tăng hơn. Kết quả là để có lãi các dạn phải tăng giá bán hàng hoá lên và khi giá hàng hoá và dịch vụ này tăng giá thì giá hàng hoá và dịch vụ khác sẽ tăng lên theo. Sự tác động dây truyền sẽ khó có điểm dừng nếu không có giải pháp phù hợp. Những khó khăn về thời tiết, dịch cúm gia cầm và những khó khăn khác đã làm cho sản xuất hàng hoá và dịch vụ thấp hơn tổng cầu hàng hoá. Kết quả khan hiếm nàyđã làm cho giá tăng lên. Mà gía tăng lên đồng loạt tức là lạm phát Hệ quả của chính sách kích cầu các năm trước đây đã làm cho lượng tiền ngoài lưu thông vẫn còn cao, có thể làm cho tổng cung tiền tệ cao hơn tổng cầu tiền tệ và tác động tăng gí là không tránh khỏi. Sự tăng lương và tăng một số khoản chi từ NSNN cho các hoạt động xã hội nhân các ngày lễ lớn trong năm cũng góp phần tăng tiền tệ thị trường. Nhu cầu tăng trưởng cao đòi hỏi phải đưa vốn ra thị trường nên tăng tiền ra thị trường là khó tránh khỏi và như vậy thì việc gía tăng lên cũng là điều trông thấy. 2.2/ Các nguyên nhân chủ quan Do tình trạng độc quyền tương đối một số mặt hàng nên nhiều doanh nghiệp sẽ có xu hướng tăng giá lên và gây ra sự khan hiếm giả tạo để tăng giá lên kiếm lời. Sự điều hành và quản lý kinh tế còn nhiều bất cập cũng gây khó khăn cho phát triển sản xuất và bình ổn giá. Buôn lậu và tham nhũng sẽ góp phần phức tạp thêm sự điều hành và ổn định giá cả và đẩy nhanh tăng trưởng nền kinh tế. Phần IV Các giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam Trước những tác hại do lạm phát gây ra đòi hỏi cần có những chính sách hợp lý, hữu hiệu ngắn hạn hay dài hạn chống lại tình hình lạm phát. Việc đẩy lùi lạm phát ở mức độ có thể duy trì đòi hỏi các quốc gia có cái nhìn đúng đắn, toàn diện về lạm phát để đưa ra các biện pháp vừa hiệu quả lâu dài, vừa có tác dụng kìêm chế lạm phát tức thì, ổn định đời sống xã hội . Việc đưa ra các chính sách đúng đắn đòi hỏi mỗi quốc gia cần đặt những vấn đề trong điều kiện hoàn cảnh của riêng nước mình từ đó có những biện pháp sát với thực tế nhằm kiểm soát lạm phát có hiệu quả. Đối với tình hình diễn biến lạm phát ở nước ta trong những năm vừa qua, dựa trên những nguyên nhân của nó, với những tác động mà nó gây ra cho nền kinh tế và đời sống của người dân, cần có các biện pháp có tác dụng tức thì. Trong phần IV, người viết xin đưa ra một số giải pháp ngắn hạn cũng như lâu dài chống lại tình hình lạm phát ở nước ta. 1/ Các giải pháp lâu dài để kiềm chế lạm phát Dựa trên những kinh nghiệm chống lạm phát của các nước cũng như từ thực tế tình hình xã hội ở Việt Nam để đưa ra các biện pháp lâu dài. Mất cân đối về kinh tế vĩ mô được thể hiện bằng lạm phát , thâm hụt ngân sách, sự chênh lệch giá cao của của thị trường không chính thức, có tương quan ngược chiều rất rõ đối với sự tăng trưởng. Nhiệm vụ hoạch định chính sách là làm thế nào để giảm thiểu được các tác động suy giảm đối với sản lượng, đồng thời tạo được các điều kiện nhằm tăng cường khả năng tăng trưởng lâu dài. Tất cả các chính sách đề ra trên cơ sở đảm bảo hai yêu cầu cơ bản là tăng trưởng cao liên tục và vững chắc, giữ mức lạm phát ở một con số. Tăng trưởng cao gắn liền với việc duy trì lạm phát thấp và chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt có sức cạnh tranh cao. Đầu tư vào các nguồn lực thông qua các khoản chi tiêu công cộng về giáo dục; khuyến

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35730.doc