Đề án Lạm phát và những giải pháp kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế nước ta hiện nay

 

MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT 2

1.1 . Khái niệm lạm phát 2

1.1.1. Khái niệm 2

1.1.2. Các quan điểm giải thích về lạm phát. 3

1.2. Phân loại lạm phát. 5

1.2.1.Căn cứ vào tốc độ lạm phát người ta chia lạm phát làm ba loại. 5

1.2.2. Căn cứ vào tính chủ động , bị động từ phía chính phủ đối phó với lạm phát người ta chia thành. 6

1.3. Nguyên nhân gây ra lạm phát . 6

1.3.1. Lạm phát do tăng cung ứng tiền tệ. 6

1.3.2. Chỉ tiêu công ăn việc làm cao. 8

1.3.2.1. Lạm phát do chi phí đẩy. 8

1.3.2.2. Lạm phát do cầu kéo 9

1.3.3. Lạm phát theo tỷ giá hối đoái . 11

1.3.4. Lạm phát do thâm hụt ngân sách . 11

1.3.5. Lạm phát do yếu tố tâm lý. 12

1.4. Tác động của lạm phát. 12

1.4.1. Lạm phát và lãi suất 13

1.4.2. Lạm phát và thu nhập thực tế. 13

1.4.3. Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng. 14

1.4.4. Lạm phát và nợ quốc gia. 15

CHƯƠNG II : THỰC TIỄN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI 16

2.1. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam qua các thời kỳ phát triển đất nước. 16

2.1.1.Thời kỳ thứ nhất từ năm 1979 đến năm 1980 . 16

2.1.2.Thời kỳ thứ hai từ năm 1981 đến năm 1988. 16

2.1.3. Thời kỳ thứ ba từ tháng 5 năm 1988 đến 1991. 16

2.1.4.Thời kỳ thứ tư từ cuối năm 1991 đến nay. 17

2.2. Đặc điểm của lạm phát ở Việt Nam qua các thời kỳ. 19

CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHAT TRONG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY 27

3.1. Tham gia đầy đủ vào các hoạt động hợp tác của ASEAN , APEC 27

3.2. Cân đối ngân sách nhà nước . 28

3.2.1.Bịt chặt lỗ hổng thất thu , thất thoát ngân sách nhà nước qua mọi kênh , hình thức. 28

3.2.2.Bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. 28

3.3.Cải cách khu vực kinh tế nhà nước. 29

3.4. Thiết lập một hệ thống ngân hàng lành mạnh , hiện đại và thị trường vốn phát triển. 30

3.5. Chống tham nhũng. 32

3.6. Giải quyết các vấn đề về nhân lực và xã hội . 32

KẾT LUẬN. 34

TÀI LIỆU THAM KHẢO. 35

1- Giáo trình Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ . ( T.s Nguyễn Hữu Tài ) 35

2-Lý thuyết lạm phát, giảm phát và thực tiễn ở Việt Nam ( Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2000) 35

3-Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường Tài chính ( Frederic S.Mishkin) 35

4- Tạp chí Ngân hàng. 35

5- Tạp chí Phát triển kinh tế. 35

6- Tạp chí công nghiệp . 35

7- Tạp chí tài chính 35

 

 

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1500 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Lạm phát và những giải pháp kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hợp , tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước cao , kéo dài sẽ là nguồn gốc tăng cung ứng tiền và gây ra lạm phát. 1.3.5. Lạm phát do yếu tố tâm lý. Yếu tố tâm lý nhiều khi là nguyên nhân quan trọng gây ra lạm phát . Khi tiền tệ bị mất giá , tài sản cũng bị mất giá theo . Ngưòi ta sẽ đổi sang các tài sản có giá trị như nhà cửa , đất đai , kim khí quý , ngoại tệ mạnh…để đảm bảo tài sản của họ . Khi đó ,đồng tiền trong lưu thông tăng do người ta đồng loạt rút tiền trong ngân hàng làm cho số lượng tiền trong lưu thông lớn hơn số lượng tiền cần thiết trong lưu thông làm cho đồng tiền bị giảm giá . Trong tình hình đó ngân hàng trung ương cần phải giảm lãi suất tiền gửi đồng ngoại tệ , tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ và cấm trao đổi ngoại tệ . Tóm lại các nguyên nhân gây ra lạm phát rất đa dạng và bao quát cả trong lĩnh vực cung và cầu, cả sản xuất , lưu thông , phân phối và tiêu dùng , cả chính sách tài chính-tiền tệ lẫn các yếu tố tâm lý , cả các nhân tố bên trong lẫn các nhân tố bên ngoài , các nhân tố khách quan và chủ quan…mà tuỳ theo các đIũu kiện cụ thể , lạm phát nảy sinh với tư cách là kết quả trực tiếp và gián tiếp của tổ hợp các nguyên nhân trên hoặc chỉ do một vài nguyên nhân trong số đó. 1.4. Tác động của lạm phát. Lạm phát tác động trực tiếp đến nền kinh tế , làm thay đổi mức độ và hình thức sản lượng , đồng thời tạo ra sự phân phối lại thu nhập và của cải xã hội . Hơn nữa , lạm phát tác động đến nền kinh tế theo cả hướng tiêu cực và tích cực. 1.4.1. Lạm phát và lãi suất Từ thực tế diễn biến lạm phát của các nước trên thế giới, các nhà kinh tế cho rằng : lạm phát cao và triền miên có ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời sống kinh tế , chính trị và xã hội của mọi quốc gia. Tác động đầu tiên của lạm phát là tác động lên lãi suất. Để duy trì và ổn định sự hoạt động của mình, hệ thống ngân hàng phải luôn luôn cố gắng duy trì tính hiệu quả của cả tài sản nợ và tài sản có của mình , tức là phải luôn luôn giữ cho lãi suất thực ổn định . Ta biết rằng lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát . Do đó, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao , nếu muốn cho lãi suất thực ổn định , lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát . Việc tăng lãi suất danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu là suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng. 1.4.2. Lạm phát và thu nhập thực tế. Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi , lạm phát xảy ra sẽ làm giảm thu nhập thực tế của người lao động . Với 600.000 đồng tiền lương một tháng hiện nay , một công nhân sẽ mua được 2 tạ gạo ( với giá gạo 3000 đ/1kg ) . Vào năm sau , nếu tiền lương của công nhân này không đổi , nhưng tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế vào năm sau tăng thêm 50% so với năm trước , tức là giá gạo đã tăng lên 4500đ/1kg , thì với số tiền lương nhận được trong một tháng , người công nhân này chỉ có thể mua được 133,3 kg gạo . Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực của những tài sản không có lãi ( tức tiền mặt ) mà nó còn làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi , tức là làm giảm thu nhập thực từ các khoản lãi , các khoản lợi tức . Điều đó xảy ra là do chính sách thuế của nhà nước được tính trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa . Khi lạm phát tăng cao , những người đi vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm phát tăng cao , điều đó làm cho số tiền thuế thu nhập mà người có tiền cho vay phải nộp tăng cao ( mặc dù thuế suất vẫn không tăng ) . Kết quả cuối cùng là thu nhập ròng ( thu nhập sau thuế ) , thực ( sau khi đã loại trừ tác động của lạm phát ) mà người cho vay nhận được bị giảm đi . Suy thoái kinh tế , thất nghiệp gia tăng , đời sống của người lao động trở nên khó khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ và những hậu quả về chính trị , xã hội có thể xảy ra. 1.4.3. Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng. Trong quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay , khi lạm phát tăng cao , người cho vay sẽ là người chịu thiệt và người đi vay sẽ là người được lợi . Điều này đã tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng giữa người đi vay và người cho vay . Hơn thế nữa , nó còn thúc đẩy những người kinh doanh tăng cường thu hút tiền vay để đầu cơ kiếm lợi . Do vậy càng tăng thêm nhu cầu tiền vay trong nền kinh tế , đẩy lãi suất lên cao . Lạm phát tăng cao còn khiến những người thừa tiền và giàu có , dùng tiền của mình vơ vét và thu gom hàng hoá , tài sản , nạn đầu cơ xuất hiện , tình trạng này càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung – cầu hàng hoá trên thị trường , giá cả hàng hoá cũng lên cơn sốt cao hơn . Cuối cùng những người dân nghèo vốn đã nghèo càng trở nên khốn khó hơn . Họ thậm chí không mua nổi những hàng hoá tiêu dùng thiết yếu , trong khi đó , những kẻ đầu cơ đã vơ vét sạch hàng hoá và trở nên càng giàu có hơn . Tình trạng lạm phát như vậy sẽ có thể gây ra những rối loạn trong nền kinh tế và tạo ra khoảng cách lớn về thu nhập , về mức sống giữa người giàu và người nghèo. 1.4.4. Lạm phát và nợ quốc gia. Lạm phát cao làm cho chính phủ được lợi do thuế thu nhập đánh vào người dân , nhưng những khoản nợ nước ngoài sẽ trở nên trầm trọng hơn . Chính phủ được lợi trong nước nhưng sẽ bị thiệt với nợ nước ngoài . Lý do là vì : lạm phát đã làm tỷ giá tăng cao và đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với đồng tiền nước ngoài tính trên các khoản nợ. Như vậy là căn bệnh mãn tính của nền kinh tế thị trường , lạm phát có cả tác hại lẫn ích lợi . Nếu một nước nào đó có thể duy trì , kiềm chế , điều tiết được mức lạm phát vừa phải phù hợp và có lợi cho thúc đẩy , tăng trưởng kinh tế của mình, thì ở đó lạm phát không còn là căn bệnh nguy hiểm đối với nền kinh tế nữa . Khi đó , lạm phát trở thành công cụ điều tiết kinh tế khá đắc lực . Ngược lại lạm phát phi mã hay siêu lạm phát không thể dự đoán và điều tiết được đã gây tác hại rã rệt cho nền kinh tế và trở thành căn bệnh hiểm nghèo cần điều trị tích cực và đúng cách. CHƯƠNG II : THỰC TIỄN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI 2.1. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam qua các thời kỳ phát triển đất nước. Xét dưới góc độ quan đIểm và chính sách chính thức đối với vấn đề lạm phát ở Việt Nam , có thể chia diễn biến quá trình này ở Việt Nam từ năm 1976 (năm đầu tiên thống nhất đất nước ) đến nay thành bốn thời kỳ sau : 2.1.1.Thời kỳ thứ nhất từ năm 1979 đến năm 1980 . Thời kỳ này được coi là không có lạm phát trong quan hệ kinh tế chính trị phổ biến trong các nước XHCN đương thời và không được phản ánh trong các thống kê chính thức . Tuy nhiên , trên thực tế ở Việt Nam khi đó có lạm phát , thể hiện ở sự khan hiếm hàng hoá , dịch vụ và sự giảm sút chất lượng của chúng ; đồng thời được ghi nhận trong sự diễn biến gia tăng giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng trên thị trường xã hội ở mức trên dưới 20% trên năm 2.1.2.Thời kỳ thứ hai từ năm 1981 đến năm 1988. Thời kỳ lạm phát đã chuyển từ dạng “ ẩn” sang dạng “ mở “ song vẫn chưa được thừa nhận trong các văn kiện chính thức . Vấn đề này chỉ quy vào xử lý các khía cạnh “ giá - lương – tiền “ , mà lại chủ yếu bằng các giải pháp hành chính , như xem xét và đIều chỉnh đơn giản giá cả trong khu vực thị trường có tổ chức những năm 1981 , 1985 , 1987 và “ bù giá vào lương “ , đổi tiền năm 1985…Đây là thời kỳ xuất hiện siêu lạm phát với 3 chữ số kéo dài suốt 3 năm ( 1986-1988) và đạt đỉnh cao nhất trong lịch sử kinh tế hiện đại nước ta suốt nửa thế kỷ nay. 2.1.3. Thời kỳ thứ ba từ tháng 5 năm 1988 đến 1991. Đây là thời kỳ mà lần đầu tiên lạm phát được chính thức thừa nhận bằng Nghị quyết số 11 của Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh với lạm phát . Ngay sau khi nghị quyết ra đời , những chương trình chống lạm phát được soạn thảo ở nhiều cơ quan thuộc các cấp , các nghành khác nhau ; vài chục dự án chống lạm phát ra đời , bổ sung , thậm chí cả mâu thuẫn nhau về quan đIúm đánh giá tình hình và đề xuất các giải pháp thực tế . Các biện pháp chống lạm phát được gắn với quá trình đổi mới , thực hiện các cải cách thị trường ở Việt Nam . Song chúng mới ở dạng thử nghiệm , chưa đồng bộ , ngập ngừng , lúc tiến , lúc lùi , với những đợt “ sốc “ nhỏ , đã thu được thành công đáng kể năm 1989 , sau đó bị chững lại do tình hình trong nước và quốc tế có biến động mạnh . Việt Nam bước vào thời điểm thử thách khó khăn nhất của đất nước kể từ năm 1975. 2.1.4.Thời kỳ thứ tư từ cuối năm 1991 đến nay. Đây là thời kỳ mà chống lạm phát được đưa lên vị trí hàng đầu và gắn quyện hữu cơ với chính sách đổi mới toàn diện đất nước . Kết quả thu được là khả quan và khá vững chắc , từ đó đã rút ra được nhiều bài học quý cho việc định hướng chính sách chống lạm phát và những cải cách thị trường trong tương lai .Đây cũng là thời kỳ tiêu biểu và chứa đựng khá đầy đủ đặc điểm cuộc đấu tranh chống lạm phát ở Việt Nam . Vì vậy ,nó đáng được ưu tiên tập trung nghiên cứu nhất trong cả bốn thời kỳ đã nêu trên. Chỉ số tăng giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng trên thị trường xã hội trong thời kỳ 1976 - 2002 Năm Tốc độ cả năm Năm Tốc độ cả năm Năm Tốc độ cả năm 1976 121,9 1985 191,6 1994 114,4 1977 118,6 1986 774,7 1995 112,7 1978 120,9 1987 223,1 1996 104,5 1979 119,4 1988 393,8 1997 103,6 1980 125,2 1989 134,7 1998 109,2 1981 169,6 1990 167,1 1999 100,1 1982 195,4 1991 167,5 2000 99,4 1983 149,5 1992 117,5 2001 100,8 1984 164,9 1993 105,2 2002 103,5 Căn cứ vào các số liệu trên bảng ta thấy về cơ bản thời kỳ 1976-1986 là thời kỳ lạm phát tăng liên tục tuy không đều và đạt đỉnh cao nhất vào năm 1986 , hai năm tiếp theo lạm phát cũng ở mức rất cao với 3 con số . Từ năm 1989 đến 1991 , lạm phát tuy có giảm nhưng vẫn còn khá cao với mức tăng 67% liên tục trong 2 năm 1990 và 1991 . Phải từ năm 1992 trở đi tình hình mới lắng dịu và tạm ổn định cho đến năm 1995 . Lạm phát cao đã gây ra những hậu quả rất tai hại . Nền kinh tế bị chao đảo mạnh , đồng tiền mất giá nhanh , niềm tin vào giá trị đồng bạc Việt Nam không còn , các hoạt động đầu tư bị đình trệ , đời sống của một bộ phận dân cư , nhất là người ăn lương hết sức điêu đứng . Các hoạt động buôn lậu phát triển rất nhanh , khu vực công nghiệp sống quen vào nguồn vật tư cung ứng theo chỉ tiêu kế hoạch không thích ứng nổi với tình hình nên bị đình đốn hàng loạt . Song , mười năm từ sau cơn đại lạm phát năm 1986 ,nền kinh tế Việt Nam vào năm 1996 xuất hiện hiện tượng mới là sự suy giảm chỉ số giá hàng tiêu dùng . CPI bị âm liên tiếp trong nhiều tháng khiến chỉ số giá của tháng 12-1996 so với cùng kỳ năm trước chỉ tăng 4,5% , thấp nhất trong vòng 20 năm kể từ 1976 . Hiện tượng này đã kéo dàI qua năm 1997 , giảm giá bắt đầu sớm hơn và kết thúc với chỉ số giá tăng 3,6% . Năm 1998 , CPI tăng 9,2% nhờ xuất khẩu gạo tăng mạnh ( về lượng và giá cả) và đIều chỉnh nhiều lần tỷ giá ngoại tệ . Năm 1999 mức độ giảm giá lại trầm trọng hơn hai năm 1996 và 1997 . Chỉ số giá giảm liên tục trong 8 tháng , kể từ tháng 3 đến tháng 10 , có thể xem đây là năm đánh dấu giai đoạn giảm phát tồi tệ khi chỉ số giá chỉ tăng 0,1% , mặc dù hiện tượng suy giảm chỉ số giá đã xuất hiện từ 1996. Năm 2000 tình hình cũng không khác gì năm 1999 , thậm chí trên một số mặt còn tiêu cực hơn . CPI cũng liên tiếp giảm trên nhiều nhóm hàng hơn so với các năm trước . Chỉ số giá cả năm chỉ còn 99,4% ,giảm 0,6% so năm 1999 Năm 2001 không còn hiện tựơng giảm phát nữa , chỉ số giá cả năm so với năm 2000 đã tăng 1,4% .Tuy mức độ tăng giá chưa cao nhưng đã phần nào góp phần cải thiện tình hình kinh tế nước ta . Sang năm 2002 chúng ta đã thoát khỏi tình trạng suy thoái về giá cả để cùng nhịp với đà tăng trưởng đang chuyển động đi lên . 2.2. Đặc điểm của lạm phát ở Việt Nam qua các thời kỳ. Lạm phát ở Việt Nam có những đặc điểm tương đồng với lạm phát ở các nước phương Tây những năm 70 ; chẳng hạn như mức độ tăng giá chung vượt đáng kể mức tăng tổng sản phẩm xã hội làm mất giá tiền tệ , giảm sút tiền lương thực tế gây thiệt hại cho các khoản tiền gửi tiết kiệm và cho vay , phát hành tiền ( nhất là trước năm 1992 ) gia tăng vượt mức tăng trưởng kinh tế và có sự khan hiếm bởi mất cân đối cung – cầu … Tuy nhiên lạm phát ở Việt Nam cũng có những điểm khác biệt với lạm phát ở các nước phương Tây ở chỗ : lạm phát ở các nước phương Tây là lạm phát trong nền kinh tế thị trường dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất , nhà nước có vai trò điều chỉnh nền kinh tế , song không phải bằng các biện pháp hành chính mệnh lệnh , nền kinh tế thị trường ở các nước này hoạt động khá hiệu quả mặc dù không phải với mức độ như nhau giữa các nước ; ở các nước này thường xuyên xuất hiện sự mất cân đối trong nền kinh tế , nhưng chúng không mang tính nghiêm trọng và được hiệu chỉnh lại chủ yếu bởi thị trường và cả bởi ảnh hưởng của nhà nước. Còn ở Việt Nam , lạm phát chuyển từ dạng “ẩn” sang dạng “mở” với tốc độ cao và không ổn định trong suốt thời kỳ khá dài tới hàng chục năm . Lạm phát diễn ra trong bối cảnh mất ổn định của nền kinh tế , đồng thời chính là tác nhân khá mạnh gây ra sự bất ổn định đó . Lạm phát được tăng cường bởi sự thiếu hụt ngân sách , mất cân đối cán cân thanh toán , ngoại thương , nợ nước ngoài nặng nề . Lạm phát đó như là sản phẩm của cơ chế hành chính , mệnh lệnh , phân phối và duy ý chí . Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển và đang trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế , nơI độc quyền nhà nước còn mang đậm tính chất phi kinh tế và được dung dưỡng bởi những chỉ thị của nhà nước và tồn tại thống trị phổ biến trong tất cả các lĩnh vực . Trong những năm 80 , khu vực kinh tế nhà nước chiếm khoảng 85 –87% vốn cố định , 95% lao động lành nghề mà chỉ tạo ra có 30 – 37% tổng sản phẩm xã hội . Trong khi đó , khu vực kinh tế tư nhân chỉ chiếm 13,2% sức lao động xã hội và suốt thời kỳ dài trước năm 1986 bị nhiều sức ép kiềm chế , song lại sản xuất ra tới 23 – 43% tổng sản phẩm xã hội . Các quan hệ kinh tế thị trường hoặc bị thủ tiêu hoặc được áp dụng không đầy đủ , và bị bóp méo cả trong quan hệ kinh tế trong nước lẫn quan hệ kinh tế đối ngoại . Hơn nữa , lạm phát ở Việt Nam diễn ra trong một nền kinh tế đóng cửa , phụ thuộc một chiều vào các nguồn viện trợ bên ngoàI . Trên thực tế trước năm 1988 không có đầu tư trực tiếp nước ngoàI vào Việt Nam . Các biên giới đều bị khép lại với chế độ xuất – nhập cảnh cũng như lưu thông hàng hoá rất nghiêm ngặt , phiền phức . Cơ cấu kinh tế chủ yếu có tính hướng nội, khép kín, thay thế hàng nhập khẩu và không khuyến khích xuất khẩu. Năm 1988, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt mức 16,2 rúp / đôla trên đầu người, tức là thấp hơn nhiều so với mức trung bình của các nước đang phát triển của năm đó, khoảng 150 USD / người. Còn mức nhập khẩu trung bình là 43,2 rúp / đôla / người tức là cao hơn mức xuất khẩu tới 2,6 lần. Chính sách phong toả, cấm vận kinh tế của Mỹ trong quan hệ đối với Việt Nam, những xung đột biên giới bằng quân sự và sự xấu đi quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Campuchia đã gây ra phương hại toàn diện cả kinh tế lẫn chính trị cho Việt Nam. Luồng viện trợ từ bên ngoài thường chủ yếu một chiều từ các nước xã hội chủ nghĩa, không có ODA từ phía các nước phi xã hội chủ nghiã. Đầu tư lại chủ yếu tập chung cho thực hiện các dự án công nghiệp lớn, dài hạn, chậm hoàn vốn và đòi hỏi những chi phí đối ứng to lớn về vật chất và nhân lực trong nước. Người ta tính toàn rằng, để hấp thụ được 3 rúp viện trợ nước ngoài dưới dạng thiết bị tổng hợp Việt Nam cần chi 1 - 2 rúp đối ứng từ nguồn tiền trong nước để xây dựng và trả công cho người lao động. Vì thế, mặc dù đã có những tác động tích cực cho phát triển kinh tế Việt Nam, song viện trợ nước ngoài cũng trở thành một nhân tố làm tăng tình trạng thiếu hụt ngân sách và tăng gánh nặng nợ nần Nhà nước kinh niên ở Việt Nam. Thiếu hụt ngân sách còn bị làm sâu sắc thêm bởi những chi phí không nhỏ để khắc phục hậu quả của những cuộc chiến tranh kéo dài ( bao gồm cả việc nuôi dưỡng quân đội khá đông đảo, trợ cấp hưu trí, trợ cấp nạn nhân chiến tranh ) và của những trận thiên tai thường xuyên hàng năm. Ngoài ra, do chính sách định hướng phát triển và đầu tư có nhiều bất cập, nên cơ cấu kinh tế Việt Nam còn bị mất cân đối và không hợp lý nghiệm trọng giữa công nghiệp - nông nghiệp, giữa công nghiệp nặng - công nghiệp nhẹ, nhất là ngành sản xuất hàng tiêu dùng, giữa sản xuất - dịch vụ. Chúng làm ra tăng xu hướng khan hiếm và giảm sút chất lượng hàng hoá - dịch vụ trong khi đầu tư từ những nguồn vốn lạm phát có xu hướng tăng nhanh liên tục. Tất cả những đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam được nêu ra trên đây cũng chính là cuội nguồn và nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp, ở mức độ này hay khác, gây ra tình trạng khan hiếm hàng hoá, dịch vụ, tăng chi phí sản xuất, thiếu hụt ngân sách triền miên, tăng mức cung tiền không tuân theo quy luật lưu thông tiền tệ...và do đó, gây ra lạm phát. Đồng thời lạm phát ở Việt Nam còn bị làm trầm trọng thêm bởi những bất cập với thực tế cả về nhận thức lẫn hành động trong đối xử với lạm phát nói riêng cũng như trong vai trò quản lý điều tiết nền kinh tế nói chung. Có thể chỉ ra : Thứ nhất, chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản miền Nam và phong trào hợp tác hoá nông nghiệp mang tính hình thức thời kỳ 1976 - 1980 đã gây tác động tiêu cực đến năng lực sản xuất hàng tiêu dùng của Việt Nam và đưa nền kinh tế Việt Nam lâm vào trạng thái trì trệ : sản xuất công nghiệp tăng bình quân 0,6 % / năm, nông nghiệp 1,9 % / năm, GDP 0,4 % / năm trong khi dân số tăng 1 triệu người / năm, làm căng thẳng quan hệ cung - cầu trên tị trường xã hội. Thứ hai, trong thời kỳ 1981 - 1985 những sai lầm trên được nhận thức lại Đại hội V của Đảng năm 1982 đã đặt lại quan niệm về chặng đường đầu tiên, về nội dung công nghiệp hoá, về vấn đề kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ này ở miền Nam Việt Nam. Liên tiếp một loạt chủ trương và quyết định quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng được đưa ra : Chỉ thị 100 của ban Bí thư về khoán trong nông nghiệp cho phép khoán sản phẩm đến từng người lao động, tạo ra sự đổi mới cơ bản mô hình hợp tác xã, mặc dù vẫn giữ nnguyên hình thức của nó. Quyết định 25 / CP ngày 21 - 1 - 1981 cho phép các xí nghiệp quốc doanh ngoài việc bảo đảm phần kế hoạch do Nhà nước giao có vật tư bảo đảm, được tự cân đối sản xuất và tiêu thụ, đồng thời còn được phép sản xuất phụ. Quyết định này đã gợi ý cho những đổi mới trong lĩnh vực giá cả, lợi nhuận, tiền thưởng... Kết quả, sản xuất xã hội ² bung ra “ rõ rệt : bình quân tốc độ phát triển nông nghiệp đạt 4,9 %, công nghiệp đạt 9,5 % hàng năm. Nhưng do bao cấp qua ngân sách quá lớn và do nhiều khúc mắc khác về cơ chế chưa được giải toả, nên nền kinh tế đất nước vẫn rất khó khăn . Chưa bao giờ tình trạng đầu cơ lại nở rộ và gặt hái được nhiều lợi nhuận như thời kỳ này ở nước ta. Cuối cùng, Nhà nước Việt Nam, với quỹ hàng hoá trống rỗng, với ngân sách thâm hụt hơn do các đợt điều chỉnh và trợ cấp mang đậm tính chỉ thị, mệnh lệnh gây ra, với hy vọng mơ hồ có thể giảm khối lượng tiền to lớn trong lưu thông ( nhưng ngoài vòng tay kiểm soát của mình ) đang gây ra áp lực tăng lượng cầu, cũng như với tính toán đơn giản rằng Nhà nước sẽ tăng thu ngân sách nếu tăng giá hàng hoá và do ảo tưởng về quyền lực tuyệt đối của Chính phủ với đồng tiền, nên đã tăng giá hàng bán ra trên thị trường khu vực Nhà nước lên 10 lần và tiến hành đổi tiền vào cuối năm 1985 đầu năm 1986. Sự đổ vỡ lòng tin vào đồng tiền bùng nổ, lạm phát bùng lên trở thành siêu lạm phát tới 3 chữ số kéo dài đến năm 1988 và hẳn sẽ còn kéo dài nữa nếu nhà nước không thay đổi quan điểm và cách thức điều chỉnh của mình với nền kinh tế và tiền tệ. .(( Cơ cấu kinh tế chủ yếu có tính hướng nội, khép kín, thay thế hàng nhập khẩu và không khuyến khích xuất khẩu. Năm 1988, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt mức 16,2 rúp / đôla trên đầu người, tức là thấp hơn nhiều so với mức trung bình của các nước đang phát triển của năm đó, khoảng 150 USD / người. Còn mức nhập khẩu trung bình là 43,2 rúp / đôla / người tức là cao hơn mức xuất khẩu tới 2,6 lần. Chính sách phong toả, cấm vận kinh tế của Mỹ trong quan hệ đối với Việt Nam, những xung đột biên giới bằng quân sự và sự xấu đi quan hệ Việt Nan - Trung Quốc, Việt Nam - Campuchia đã gây ra phương hại toàn diện cả kinh tế lẫn chính trị cho Việt Nam. Luồng viện trợ từ bên ngoài thường chủ yếu một chiều từ các nước xã hội chủ nghĩa, không có ODA từ phía các nước phi xã hội chủ nghiã. Đầu tư lại chủ yếu tập chung cho thực hiện các dự án công nghiệp lớn, dài hạn, chậm hoàn vốn và đòi hỏi những chi phí đối ứng to lớn về vật chất và nhân lực trong nước. Người ta tính toàn rằng, để hấp thụ được 3 rúp viện trợ nước ngoài dưới dạng thiết bị tổng hợp Việt Nam cần chi 1 - 2 rúp đối ứng từ nguồn tiền trong nước để xây dựng và trả công cho người lao động. Vì thế, mặc dù đã có những tác động tích cực cho phát triển kinh tế Việt Nam, song viện trợ nước ngoài cũng trở thành một nhân tố làm tăng tình trạng thiếu hụt ngân sách và tăng gánh nặng nợ nần Nhà nước kinh niên ở Việt Nam. Thiếu hụt ngân sách còn bị làm sâu sắc thêm bởi những chi phí không nhỏ để khắc phục hậu quả của những cuộc chiến tranh kéo dài ( bao gồm cả việc nuôi dưỡng quân đội khá đông đảo, trợ cấp hưu trí, trợ cấp nạn nhân chiến tranh ) và của những trận thiên tai thường xuyên hàng năm. Ngoài ra, do chính sách định hướng phát triển và đầu tư có nhiều bất cập, nên cơ cấu kinh tế Việt Nam còn bị mất cân đối và không hợp lý nghiệm trọng giữa công nghiệp - nông nghiệp, giữa công nghiệp nặng - công nghiệp nhẹ, nhất là ngành sản xuất hàng tiêu dùng, giữa sản xuất - dịch vụ. Chúng làm ra tăng xu hướng khan hiếm và giảm sút chất lượng hàng hoá - dịch vụ trong khi đầu tư từ những nguồn vốn lạm phát có xu hướng tăng nhanh liên tục. Tất cả những đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam được nêu ra trên đây cũng chính là cuội nguồn và nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp, ở mức độ này hay khác, gây ra tình trạng khan hiếm hàng hoá, dịch vụ, tăng chi phí sản xuất, thiếu hụt ngân sách triền miên, tăng mức cung tiền không tuân theo quy luật lưu thông tiền tệ...và do đó, gây ra lạm phát. Đồng thời lạm phát ở Việt Nam còn bị làm trầm trọng thêm bởi những bất cập với thực tế cả về nhận thức lẫn hành động trong đối xử với lạm phát nói riêng cũng như trong vai trò quản lý điều tiết nền kinh tế nói chung. Có thể chỉ ra : Thứ nhất, chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản miền Nam và phong trào hợp tác hoá nông nghiệp mang tính hình thức thời kỳ 1976 - 1980 đã gây tác động tiêu cực đến năng lực sản xuất hàng tiêu dùng của Việt Nam và đưa nền kinh tế Việt Nam lâm vào trạng thái trì trệ : sản xuất công nghiệp tăng bình quân 0,6 % / năm, nông nghiệp 1,9 % / năm, GDP 0,4 % / năm trong khi dân số tăng 1 triệu người / năm, làm căng thẳng quan hệ cung - cầu trên tị trường xã hội. Thứ hai, trong thời kỳ 1981 - 1985 những sai lầm trên được nhận thức lại Đại hội V của Đảng năm 1982 đã đặt lại quan niệm về chặng đường đầu tiên, về nội dung công nghiệp hoá, về vấn đề kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ này ở miền Nam Việt Nam. Liên tiếp một loạt chủ trương và quyết định quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng được đưa ra : Chỉ thị 100 của ban Bí thư về khoán trong nông nghiệp cho phép khoán sản phẩm đến từng người lao động, tạo ra sự đổi mới cơ bản mô hình hợp tác xã, mặc dù vẫn giữ nnguyên hình thức của nó. Quyết định 25 / CP ngày 21 - 1 - 1981 cho phép các xí nghiệp quốc doanh ngoài việc bảo đảm phần kế hoạch do Nhà nước giao có vật tư bảo đảm, được tự cân đối sản xuất và tiêu thụ, đồng thời còn được phép sản xuất phụ. Quyết định này đã gợi ý cho những đổi mới trong lĩnh vực giá cả, lợi nhuận, tiền thưởng... Kết quả, sản xuất xã hội ² bung ra “ rõ rệt : bình quân tốc độ phát triển nông nghiệp đạt 4,9 %, công nghiệp đạt 9,5 % hàng năm. Nhưng do bao cấp qua ngân sách quá lớn và do nhiều khúc mắc khác về cơ chế chưa được giải toả, nên nền kinh tế đất nước vẫn rất khó khăn. Lạm phát năm 1981 so với năm 1975 lên tới 313,7 % và năm 1985 còn cao hơn nhiều. Nạn khan hiếm hàng hoá và thiếu hụt ngân sách đưa Việt Nam đứng trước nguy cơ khủng hoảng. Đặc biệt, thời kỳ này do chưa nhận thức đầy đủ về sự có mặt, tác hại và tính chất nhiều nguyên nhân, nhất là bản chất tiền tệ của lạm phát ( mặc dù đã toát lên qua các cuộc tranh cãi trong cả giới khoa học và quản lý những cảm nhận bước đầu về vai trò của các yếu tố tiền tệ, giá cả trong thị trường ), nên suốt nửa đầu thập kỷ80 vấn đề xoá bao cấp qua ² giá - lương “ và xử lý quan hệ ² giá - lương - tiền “ luôn được xem như khâu đột phá có tính quyết định để chuyển nền kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa ( chứ chưa phải là chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường - một phát triển về chất trong nhận thức quản lý kinh tế vĩ mô của Đảng ta như thời kỳ sau ). Thu hẹp vấn đề lạm phát lại chỉ còn là vấn đề ² giá - lương - lưu thông tiền tệ “, suốt thời kỳ này, Nhà nước loay hoay tập trung vào điều chỉnh rồi tổng điều chỉnh giá cả giữa hai khu vực thị trường, và tìm cách bù giá vào lương sao cho tương ứng với những điều chỉnh đó ( trong khi vẫn duy trì mức lãi suất thực âm, duy trì chính sách phát hành bù đắp thiếu hụt ngân sách, ngân hàng có nhiệm vụ bao cấp tín dụng chứ không kinh doanh tiền tệ, chính sách tài chính chỉ chuyên lo ² vắt kiệt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29588.doc
Tài liệu liên quan