MỤC LỤC
Phần I: Lời mở đầu
Phần II : Nội dung
Chương I: Tổng quan về lạm phát
1.1 Lạm phát
1.1.1 Khái niệm
1.1.2 Phân loại lạm phát
1.2 Nguyên nhân gây ra lạm phát
1.2.1 Cung ứng tiền và lạm phát
1.2.2 Chỉ tiêu công ăn việc làm cao và lạm phát
1.2.2.1 Lạm phát cầu kéo
1.2.2.2 Lạm phát chi phí đẩy
1.2.3 Lạm phát do thâm hụt ngân sách
1.2.4 Lạm phát do thâm hụt ngân sách
1.3 Tác động của lạm phát
1.3.1 Lạm phát và lãi suất
1.3.2 Lạm phát và thu nhập thực tế
1.3.3 Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng
1.3.4 Lạm phát và nợ quốc gia
Chương II: Thực trạng kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
2.1 Giai đoạn 1986-1993
2.1.1 Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát
2.1.2 Các biện pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này
2.1.2.1 Chính sách tiền tệ
2.1.2.2 Chính sách tài chính
2.2 Giai đoạn 1994-1998
2.2.1 Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát
2.2.2 Các biện pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này
2.3 Giai đoạn 1999 đến nay
2.3.1 Giai đoạn 1999-2001
2.3.1.1 Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát
2.3.1.2 Những biện pháp nhằm nâng cao sức mua của các tầng lớp dân cư(tăng cầu)
2.3.1.3 Những biện pháp tăng cường đầu tư, dẩy mạnh sản xuất kinh doanh(tăng mức cung hàng hóa và dịch vụ )
2.3.2 Giai đoạn 2002 đến nay
2.4 Đánh giá tình hình kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
2.4.1 Những thành công
2.4.2 Những hạn chế và nguyên nhân
Chương III: Giải pháp kiềm chế và kiểm soát lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam
3.1 Phương hướng và biện pháp khắc phục , kiểm soát lạm phát
3.2 Một số giải pháp góp phần kiềm chế và kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
PHẦN III: Kết luận
PHẦN IV: Tài liệu tham khảo
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1653 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Lạm phát và những giải pháp kiểm soát lạm phất đối với nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác nhà hoạch định chính sách đã đề ra . Do đó, họ lại tiếp tục thực hiện các chính sách làm tăng tổng cầu. Quá trình này cứ tiếp diễn liên tục đảy giá cả trong nền kinh tế lên cao hơn.
Như đã phân tích trên đây, do giới hạn của những chính sách tài chính nên việc tăng lên liên tục của tổng cầu chỉ có thể là kết quả của một quá trình tăng cung ứng tiền liên tục. Do đó lạm phát cầu kéo là một hiện tượng tiền tệ .
1.2.2.2. Lạm phát chi phí đảy
P1
P2
P3
P
3
2’
2
1
1’
Yt
Yn
AD1
AD2
AD3
y
Tổng sản lượng
AS1
AS2
AS3
Tổng mức giá
Giả sử lúc đầu nền kinh tế tại điểm 1, là giao điểm của đường tổng cầu AD1 và đường tổng Cung AS1, vói mức sản lượng tự nhiên và tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên. Do mong muốn có một mức ssóng cao hơn hoặc do cho rằng tỉ lệ lạm phát dự tính trong nền kinh tế sẽ tăng cao, những người công nhân đấu tranh đòi tăng lương. Vì tỉ lệ thất nghiệp đang ở mmức thất nghiệp tự nhiên nên những đòi hỏi tăng lương của công nhân dễ được giới chủ chấp nhận. ảnh của việc tăng lương ( cũng như anhhr hưởng của những cú sốc cung tiêu cực) làm đường tổng cung AS1 dịch chuyển vào đến AS2.
Nền kinh tế sẽ chuyển từ điểm 1 đến điểm 1’- giao điểm của đường tổng cung mới AS2 với đường tổng cầu AD1. Sản lượng đã giảm xuống dưới mức sản lượng tự nhiên Y’(Y’<Yn) và tỉ lệ thất nghiệp cao hơn tỉ lệ thất nhgiệp tự nhiên, đồng thưòi mmức giá cả tăng lên đến P1’. Vì mụcc đích muốn duy trì một mức công ăn việc làm cao hơn hiện tại, chính phủ sẽ thực hiện các chính sách điều chỉnh năng động nhằm tác động lên tổng cầu, làm tăng tổng cầu, lúc này đường tổng cầu A1 dịch chuyển ra AD2, nền kinh tế quay trở lại mmức sản lượng tự nhiên tại điểm cân bằng mới- điểm 2, mức giá cả tăng lên P2.
Các công nhân đã được nhượng bbộ và được tăng lương vẫn có thể tiếp tục đòi tăng lương lên cao hơn. Đồng thời, những sự nhượng bộ đó đã tạo ra sụ chênh lệch về mức lương trong tầng lớp công nhân, tình trạng đòi tăng lương lại tiếp diễn, kết quả là đường tổng cung lại chuyển vào đếnn AS3, thất nghiệp lại tăng lên mức cao hơn mức tỉ lệ tự nhiên và chính phủ lại tiếp tục phải thực hiện các chính sách điều chỉnh năng động làm dịch chuyển đường tổng cầu ra AD3 để đưa nền kinh tế trở lại mức sản lượng tự nhiên và tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả cũng tăng lên đến P3. Nếu quá trình này cứ tiếp diễn thì kết quả sẽ là việc tăng lên liên tục của giá cả , dây chính là tình trạng lạm phát chi phí đảy.
Theo cách phân tích của Keynes, những chính sách tài chính luôn có những giới hạn của nó, nên mặc dù những chính sách này cũng gây ra những tác động làm tăng tổng cầu nhưng đó chỉ là từng đợt không thể sử dụng trong thời gian dài. Như vậy, nó không thể được sử dụng để dịch chuyển liên tục đường tổng cầu. Việc dịch chuyển liên tục đường tổng cầu chỉ có thể là việc tăng cung ứng tiền liên tục, do đó lạm phát chi phí đẩy cũng là một hiện tượng tiền tệ .
Lạm phát do thâm hụt ngân sách
Trong những phân tích trước đây , chúng ta thấy rằng lạm phát chỉ có thể mở rộng khi lượng tiền tăng lên liên tục. Một thâm hụt ngân sách được trang trải bằng việc in thêm tiền có thể tạo ra lạm phát không ? câu trả lời là có nếu thâm hụt đó xảy ra trong một thời gian khá dài.
Chính phủ có thể khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước bănngf niện pháp phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường để vay vốn trong dân chúng, bù đắp cho phần bị thiếu hụt. Biện pháp này không nhả hưởng đến cơ số tiền tệ và do đó, không tăng cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát . Một biện pháp khác chính phủ có thể sử dụng bù đắp cho thâm hụt ngân sách nhà nước đó là phát hành tiền. Biện pháp này trực tiếp làm tăng thêm cơ số tiền tệ, do đó tăng cung ứng tiền tệ ,đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng tỉ lệ lạm phát . Tuy nhiên,ở các nước đang phát triển, do thị trường vốn bị hạn chế nên việc phát hành trái phiếu Chính phủ nhằm bù đắp cho thiếu hụt nngân sách nhà nước là rất khó thực hiện . Đối với các quốc gia này, con dường duy nhất đối với họ đó là “in thêm tiền”. Vì thế, khi tỉ lệ thâm hụt nhân sách nhà nước của các quốc gia đó tăng cao thì tiền tệ cũng sẽ tăng nhanh và lạm phát tăng . ở các nước kinh tế phát triển, thị trường vốn phát triển, vì vậy một khối lượng lớn trái phiếu Chính phủ có thể bán ra và nhu cầu trang trải cho thâm hụt ngân sách nhà nước thực hiện từ nguồn vốn vay của Chính phủ. Tuy nhiên nếu Chính phủ cứ tiếp tục phát hành trái phiếu ra thị trường, cầu về vốn vay sẽ tăng và do đó , lãi suất sẽ tăng cao. Để hạn chế việc tăng lãi suất trên thị trường , ngân hàng Trung ương sẽ phải mua vào các prái phiếu đó, điều này lại cho cung tiền tệ tăng .
Do vậy, trong mọi trường hợp, tình trạng thâm hụt ngân sáchnhà nước cao, kéo dài sẽ là nguồn gốc tăng cung ứng tiền gây ra lạm phát .
Lạm phát theo tỉ giá hối đoái
Tỉ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát .
Khi tỉ giá tăng, đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm lý của người sản xuất trong nước , muốn kéo giá cả lên cao theo mức tăng của tỉ giá hối đoái.
Thứ hai khi tỉ giá hối đoái tăng, giá nguyên liệu, hàng hóa nhập khẩu cũng tăng cao, đẩy chi phí nguyên liệu tăng lên, lại quay trở về lạm phát chi phí đẩy như đã phân tích trên đây. Việc tăng giá cả của nguyên liệu và hàng hóa nhập khẩu thường gây ra phản ứng dây chuyền, làm tăng giá cả ở rất nhiều hàng hóa khác, đặc biệt là các hàng hóa của những ngành có sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và những ngành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Tác động của lạm phát
Lạm phát và lãi suất
Tác động đầu tiên của lạm phát lên dời sống kinh tế đó là nó làm thay đổi lãi suất . Và vì lãi suất ngày nay tác động nhiều mặt đến thu nhập , tiêu dùng và đầu tư, cho nên thông qua lãi suất , lạm phát tác động đến nhiều khía cạnh của đời sống kinh tế vĩ mô và vi mô.
Để giữ cho tài sản nợ và có hiệu quả không đổi, hệ thống ngân hàng sẽ luôn cố gắng giữ cho lãi suất thực tế ổn định. Nhưng vì lãi suất thực tế = lãi suất danh nghĩa - tỉ lệ lạm phát .
Nên muốn cho lãi suất thực tế không đổi, lãi suất danh nghĩa phải tăng cùng với tỉ lệ lạm phát . Nhưng, khi các ngân hàng và hệ thống tài chính tăng lãi suất danh nghĩa theo lạm phát , hậu quả mà nền kinh tế phải gannhs lấy là suy thoái và thất nghiệp gia tăng. Về mặt lâu dài, sự cân bằng trên thị trưòng hàng hóa và tiền tệ sẽ kéo cả lạm phát và lãi suất xuống khi không có sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương. Nhưng cái giá phải trả là tiềm năng sản xuất bị lãng phí. Số việc làm giảm và đời sống nhân dân khó khăn.
Lạm phát và thu nhập thực tế
Chúng ta đã biết là lạm phát làm mất đi tài sản. Làm giảm các loại giá trị một cách vô hình. Nếu nnhư năm nay bạn có thể mua một quyển sách với giá 10.000 VNĐthì giả sử tỉ lệ lạm phát của Việt Nam là 50% thì vào đúng một năm sau, 10.000VNĐ chỉ còn mua được 2/3 quyển sách và vô hình đã mất đi 1/3 quyển sách.
Tron trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát xảy ra sẽ làm giảm thu nhập thực tế của người lao động. Với mức lương như cũ khi lạm phát xảy ra người lao động sẽ không có đủ khả năg mua được những hàng hóa như trước đó nữa.
Lãi suất không chỉ làm giảm giá trị thực của những tài sản không có lãi(tức là tiền mặt) mà nó còn làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi, tức là làm giảm thu nhập thực tế từ các khoản lãi, các khoản lợi tức. Điều đố xảy ra là do Chính sách thuế của nhà nước được tính dựa trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa. Khi lạm phát tăng cao, những người đi vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỉ lệ lạm phát tăng cao, điều đó làm cho số tiền thuế thu nhập mà người có tiền cho vay phải nộp tăng cao (mặc dù thuế suất vẫn không tăng ). Kết quả cuối cùng là thu nhập ròng (thu nhập sau thuế), thực(sau khi đã loại trừ các tác động của lạm phát ) mà người cho vay nhận được giảm đi .
Suy thoái kinh tế , thất nghiệp gia tăng , đời sống người lao động trở nên khó khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ và những hậu quả về chính trị, xã hội có thể xảy ra.
Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng
Lạm phát cao gây ra sự bất bình đẳng giữa công nhân với chủ doanh nghiệp và giữa người giàu với người nghèo. Ta biết rằng tiền lương của người lao động được thỏa thuận trong hợp đồng giữa người lao động và chủ doanh nghiệp, do đó, rất khó có thể thay đổi được , vì vậy khi có lạm phát cao xảy ra sẽ làm cho đời sống của họ gặp khó khăn.
Trong quan hệ kinh tế giữa người vho vay và người đi vay, khi lạm phát tăng cao, người hco vay sẽ là người chịu thiệt và người đi vay sẽ là người được lợi. Đièu này đã tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng giữa người đi vay và người cho vay. Hơn thế nữa, nó còn thúc đẩy những người kinh doanh tăng cường thu hút tiền vay để đầu cơ kiếm lợi. Do vậy càng tăng htêm nhu cầu tiền vay trong nền kinh tế , đẩy lãi suất lên cao.
Lạm phát tăng cao còn khiến cho những người có tiền và giàu có, dùng tiền của mình vơ vét hàng hóa , tài sản, nạn đầu cơ xuất hiện, tình trạng này càng làm mất cân đối cung cầu hàng hóa trên thị trưòng , giá cả hàng hóa cũng lên cơn sốt cao hơn. Cuối cùng những người nghèo vốn đã nghèo càng trở nên khốn khó hơn. Họ thậm chí không mua nổi những hàng hóa tiêu dùng thiết yếu, trong khi đó những kẻ đầu cơ đã vơ vét hết hàng hóa và trở nên càng giàu có hơn. Tình trạng lạm phát như vậy sẽ có htể gây rãn rối loạn trong nền kinh tế và tạo ra khoảng cách ngày càng lớn về thu nhập , mức sống giữa người giàu với người người nghèo.
Lạm phát và nợ quốc gia
ở phần lạm phát và thu nhập thực tế ,chúng ta được biết Chính phủ được lợi từ các khoản thu thuế thu nhập đánh vào nhân dân. Chính phần th thực tế mà nhân dân đã mất đi đã chạy vào ngân sách của Chính phủ ,thì ngược lại trong quan hệ kinh tế đối ngoại những khoản nợ quốc gia của Chính phủ đối với các nước sẽ trở nên trầm trọng hơn trước. Chính phủ được lợi trong nước nhưng bị thiệt với nợ nước ngoài.
Trong khi Chính phủ được lợi từ cac khoản thuế đánh trong nước do lạm phát , Chính phủ nợ thâm nặng hơn đối với nước ngoài cũng do lạm phát . Nguyên nhân là vì lạm phát làm tỉ giá tăng cavà đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với tiền tệ nước ngoài tính trên các khoản nợ .
Ngoài những hậu quả trên đây, cái giá phải trả cho lạm phát vẫn còn nhiều. Lạm phát cao và kéo dài thường làm cho nhân dân không dám giữ tiền lâu. Họ tranh nhau mua hàng hóa , chi phí, thì giờ và tâm trí vào việc sử dụng tiền nhanh và mmua sắm cái gì đó làm hao tổn rất nhiều sinh lực của nền kinh tế . Nhưng điều quan trọng hơn nữa là lạm phát cao kéo dài sẽ làm cho thuế trở thành gánh nặng, lãi suất cao hơn, cung ứng tiền thực tế rút hẹp hơn,...Kết quả là dẫn đến tình trạng suy thoái trong tổng sản lượng quốc gia.
Chương ii : Thực trạng kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
2.1 Giai đoạn 1986- 1993
2.1.1 Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát
Kinh tế Việt Nam từ những năm 1986 đến nay đã trải qua sự biến đổi sâu sắc : từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trưòng theo định hướng Xã hội chủ nghĩa; từ tăng trưởng thấp những năm 80 sang tăng trưởng cao những năm 90; khủng hoảng rối loạn sang ổn định và phát triển.
Năm 1985, Gorbacher đã nên nắm chính quyền tại Liên xô, cùng với sự sụp đổ của các nước Đông Âu cũ, Việt Nam bị cắt giảm nguồn viện trợ từ nước ngoài và đến năm 1991 thì bị cắt hẳn.Do đó, gic nguyên vật liệu đầu vào như sắt thép, dầu hỏa, máy móc thiết bị....Việt Nam hoàn toàn phải mua với giá cao làm cho chi phí sản xuất tăng nhanh. Lạm phát chi phí đẩy xảy ra.
Khi lạm phát chi phí đẩy xảy ra , càng đẩy các doanh nghiệp sản xuất gặp khó khăn và để hỗ trợ nền sản xuất trong nước , đặc biệt là các xí nghiệp quốc doanh, Chính phủ Việt Nam lại in thêm tiền làm tăng mức cung ứng tiền trong nền kinh tế lại dẫn đến lạm phát tiền tệ , điều đó càng đẩy tỉ lệ lạm phát lên cao.
Đồng thời năm 1985 , Việt Nam thực hiện cuộc cải cách giá, tiền lương, tiền mà đỉnh cao là sự kiện đổi tiền vào tháng 9 và lạm phát cũng bùng nổ ngay sau đó. Năm 1986 chúng ta đã rơi vào tình trạng siêu lạm phát với ba chữ số 775% vào năm 1986 trong khi đó tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 2,33%.
Đến năm 1987 do thiên tai, sản lượng lương thực cuối năm giảm 3,5% và đầu năm 1988 một số địa phương miền Bắc bị đói, giá cả lên cao, lạm phát chi phí đẩy lại tiếp diễn.
Đứng trước tình hình đó, dân chúng tích trữ hàng hóa , lương thực, vàng và đô la càng nhièu vì lo sợ rằng đồng Việt Nam sẽ còn mất giá tạo nên cầu giả tạo, giá cả tăng cao dẫn đến lạm phát cầu kéo, với tỉ lệ lạm phát là 223,1%, mức tăng trưởng GDP chỉ là 3,78%.
Từ năm 1989 đến năm 1991, lạm phát tuy có giảm nhưng vẫn còn khá cao với mức tăng 67% liên tiếp trong hai năm 1990 và 1991, phải từ năm 1992 trở đi tình hình mới lắng dịu và tạm ổn định cho đến năm 1995.
Như vậy, trong giai đoạn này lạm phát xảy ra ban đầu là do chi phí đẩy, sau đó là do tăng mức cung ứng tiền , năm 1987 lại là lạm phát chi phí đẩy, tiếp tục sau đó lạm phát cầu kéo xảy ra.
Năm
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
Tăng trưởng(%)
2,33
3,78
5,1
8
0,1
6
8,6
Lạm phát(%)
748
223,1
394
34,7
67,4
67,6
17,6
Bảng tỉ lệ tăng trưởng và tỉ lệ lạm phát các năm trong giai đoạn 1986-1999
2.1.2 Các biện pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này
Theo bảng trên chúng ta thấy tình hình kinh tế của nước ta từ năm 1988 đã có những bước khả quan hơn, lạm phát đã giảm từ mức siêu lạm phát xuống còn hai chữ số, đặc biệt từ năm 1992 giảm xuống 17,6% và đến năm 1993 tỉ lệ lạm phát giảm xuống một chữ số là 5,2%. Điều này cho thấy nước ta đã có những biện pháp tương đối có hiệu quả để kiềm chế và kiểm soát lạm phát cũng như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .
2.1.2.1Chính sách tiền tệ
Chính sách về lãi suất thực hiện chính sách lãi suất thực dương (lãi suất thực= lãi suất danh nghĩa-tỉ lệ lạm phát ), tức là nâng lãi suất tiết kiệm lớn hơn tỉ lệ lạm phát nhằm thu hồi lượng tiền trong lưu thôngvề.
Tuy nhiên, do lãi suất tiết kiệm cao nên khối lượng tiền tệ thu về không tiêu thụ được vì các doanh nghiệp sản xuất không thể sản xuất kinh doanh với lãi suất cho vay cao như vậy. Do vậy sản xuất bị thu hẹp, nền kinh tế không phát triển, thất nghiệp tăng . Lúc này cách giải quyết thất nghiệp ở nước ta là NHNN từng bước giảm dần la cho vay thông qua việc giảm dần la huy động từ 12% xuống 9% rồi 6%/năm; 1,4% xuống 0,9% rồi 0,85%/ tháng.
Chính sách về tỉ giá hối đoái
NHNN có bước tiến quan trọng trong điều chỉnh tỉ giá hối đoái cho phù hợp với nhu cầu của thị trưòng . Tỉ giá hối đoái trước đây chỉ sử dụng cho mực đích kế toán chứ không phản ánh đúng các khoản chi phí thực tế . Việc áp dụng tỉ giá hối đoái thực tế đã làm cho người dân không còn tích trữ hàng hóa , vàng, đô la mà bắt đầu tích lũy bằng đồng nội tệ.
Từ năm 1990, NHNN đã cải cách mạnh mẽ việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ . Đã xác định được khối lượng tiền cung ứng hàng nămphù hợp với múc tiêu tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát . Đồng thời, NHNN đã lựa hcọn sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ phù hợp với hoàn cảnh thực tế , chủ động điều hành mức cung ứng tiền một cách linh hoạt. Do vậy đã cung ứng đủ phương tiện thanh toán đảm bảo sản xuất, lưu thông không bị ách tắc,kinh tế tăng trưởng, đẩy lùi được siêu lạm phát .
2.1.2.2Chính sách tài chính
Giảm chi tiêu của Chính phủ
Năm 1989, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia đã làm giảm chi tiêu của Chính phủ vào quốc phòng. Cùng thời gian này các đơn vị kinh tế quốc doanh làm ăn không hiệu quả bị giải thể. Kết quả là chi tiêu của Chính phủ đã giảm nhiều, tổng cầu giảm , giá cả giảm , lạm phát giảm xuống.
Giảm lượng tiền cung ứng cho thâm hụt ngân sách
Bắt đầu từ năm 1991, thâm hụt ngân sách được trang trải bằng cách phát hành trái phiếu thay vì in thêm tiền như trước đây. Vì thế, mức cung ứng tiền giảm xuống, lạm phát cũng giảm đi. Năm 1992 tỉ lệ lạm phát chỉ là 17,6% so với năm 1991, đặc biệt là năm 1993 chỉ còn lại là 5,2%.
3.2 Giai đoạn 1994-1998
Vào năm 1993 , mặc dù lạm phát đã giảm xuống một chữ số nhưng những tiến bộ vượt bậc đó đã không thể duy trì được và củng cố bằng những chính sách tài chính và chính sách tiền tệ thận trọng nên đén năm 1994 tỉ lệ lạm phát lại tăng lên mức 14,4%.
3.2.1 Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát
Tình hình kinh tế trong giai đoạn này đã có những thay đổi đáng kể , vì vậy lạm phát xảy ra đã phản ánh được hậu quả tất yếu của tình hình lúc bấy giờ.
Trước hết , lạm phát xảy ra là do hiện tượng cầu kéo : Đến năm 1993, cùng với việc đầu tư nước ngoài tăng cao (tăng 85,6% so với năm 1992) là việc các hãng nước ngoài chuyển lợi nhuận về nước , do đó cầu ngoại tệ tăng cao làm cho giá USD tăng, đồng tiền Việt Nam bị giảm giá từ 10.600 đồng/1USD vào năm 1993 đến 11.050đồng/1USD năm 1995. điều này tác động làm cán cân thương mại được cải thiện , do đó, tổng cầu trong nền kinh tế tăng.
Đồng thời năm 1998 Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được thông qua tương đối thông thoáng khiến cho đầu nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh .
Chi tiêu của Chính phủ trong thời gian này cũng tăng mạnh, trong đó có chi thường xuyên và chi cơ bản. Cụ thể là:
Ngày 26/1/1994 Chính phủ có Nghị định số 5 về cải cách chế độ tiền lương, trợ cấp đối với các đối tượng chính sách xã hội. Đồng thời trợ cấp cho các đối tượngbbộ đội chuyển ngành và nghỉ, trợ cấp thôi việc cho một số cán bộ công nhân viên chức do một số cơ quan nhà nước đóng cửa vì không thể thích ứng được với cơ chế thị trưòng. đòng thời chi thường xuyên của ngân sách tăng nhanh.
Cũng từ năm 1992-1994, ngân sách nhà nước chi cho đường dây cao áp 500KV chiếm phần lớn chi tăng thêm cho xây dựng cơ bản.
Từ năm 1993-1995 đầu tư xã hội tăng mạnh, trong đó có đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ cho nền kinh tế mới phát triển.
Tất cả những điều này đẩy đường tổng cầu lên cao, làm giá cả tăng cao.
Lạm phát thời kỳ này xảy ra còn do chi phí đảy : Vào thời kỳ này, giá cả n số mặt hàng được điều chỉnhnhư giá xi măng, giá điện, giá xăng, làm cho chi phí đầu vào tăng mạnh, mqcs cung giảm , đẩy giá cả lên cao, gây lên lạm phát chi phí dẩy.
Các biện pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này
Trong giai đoạn này, các chính sách tiền tệ mà NHNN áp dụng để nhằm kiềm chế và kiểm soát lạm phát đều nhằm mục đích giảm mức cung tiền tệ . Cụ thể NHNN đã áp dụng một số các biện pháp sau đây:
Một là: NHNN đã bán trái phiếu , tín phiếu gần 2000 tỷ VNĐ kỳ hạn 2-3 thángmà người mua là các ngân hàng thương mại(NHTM) đồng thời cũng để khuyến khích các NHTM tích cực huy động vốn.
Hai là: NHNN hạ mức tín dụng và kiểm soát chặt chẽ hạn mức tín dụngtái cấp vốn đối với các NHTM và hạn mức của NHTM đối vx nền kinh tế . Ban hành Quyết định số 43QĐ- NHNN cho phép các tổ chức tín dụng(TCTD) được mua bán hạn mức tín dụng lẫn nhau trong phạm vi chỉ tiêu được giao.Biện pháp này của NHNN nhằm để hạn chế hệ số nhân tiền, qua đó kiểm soát sự gia tăng tổng phương tiện thanh toán, kiềm chế lạm phát . Tuy nhiên hạn mức tín dụng chỉ được phân bổ đói với một số NHTM nên phần nầo hạn chế tính công bằng trong cạnh tranh.
Ba là: buộc các TCTD phải thực hiện dự trữ bắt buộc mở rộng, năm 1995 quy định tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền thanh toán được thống nhất vào một tài khoản, tỉ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng cho tất cả các TCTD là 10% cho các loại tiền gửi dưới một năm, và trong cơ cấu tièn gửi bắt buộc phải có 70% gửi tại NHNN và các TCTD phải thường xuyên duy trì đầy đủ số tiền dự trữ bắt buộc tại NHNN theo từng ngày, kiên quyết xử phạt đối với những TCTD không chấp hành theo quy định này.
Bốn là: Trong hệ thống ngân hàng đã triển khai thực hiện tốt QĐ396/TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý ngoại hối. NHNN điều hành tốt việc cung ứng tiền phục vụ cho mục tiêu mua bán ngoại tệ nên nhìn chung tỉ giá ngoại tệ ổn định, cầu giả tạo về ngoại tệ, vàng, một số mặt hàng khác giảm xuống làm chogc nhiều mặt hàng giảm xuống, lạm phát được kiểm soát .
Năm là: nâng lãi suất chiết khấu làm giảm việc vay của các NHTM
Tất cả đều làm mức tăng cung tiền tệ bị hạn chế mạnh mẽ và lãi suất tăng lên, chi tiêu giảm, cầu giảm , giá cả giảm .
Đồng thời NHNN còn áp dụng một số biện pháp khác, nhờ vậy tốc độ lạm phát đã giảm xuống từ 12,7% năm 1996 xuống còn 4,6% năm 1997 và 3,65 năm 1998.
Giai đoạn từ 1999 đến nay
2.3.1Giai đoạn 1999-2001
2.3.1.1Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát
Cuộc khủng hoảng tài chính -tiền tệ Châu á bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 làm cho nước ta chịu sức ép ngày càng tăng. Kinh tế trải qua hiện tượng giảm giá liên tục, sức mua giảm sút, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu có dấu hiệu suy giảm , sản xuất trong nước rơi vào tình trạng trì trệ, hàng hóa ứ đọngnhiều, tỉ lệ thất nghiệp ra tăng ...
Một trong những biểu hiện của sự suy giảm nền kinh tế là hiện tượng giảm phát. Vậy giảm phát là gì?
Giảm phát là sự giảm giá liên tục của mức giá chung theo thời gian.
Tình hình kinh tế
_ giá cả thị trưòng có xu hướng giảm
+ năm 1999 giá cả thị trưòng có nhiều diễn biến bất thường : giá cả liên tục giảm trong 8 tháng liền, từ tháng 3 đến tháng 12. Đặc biệt tháng 10 năm 1999 CPI giảm 0,8% so với tháng 12 năm 1998. Chỉ số giá lương thực tháng 10 năm 1999 sút giảm 10,5% so với tháng 12 năm 1998 , sự sụt giảm giá lương thực làm cho CPI chung hầu như không tăng ( do tỉ trọng của hàng lương thực trong rổ hàng hóa lớn).
+ Năm 2000, CPI cả năm giảm 0,6% so với năm 1999.
+ Sáu tháng đầu năm 2001 CPI vẫn giảm , CPI tháng 6/2001 giảm 0,3% so với tháng 6/2000 và giảm 0,7% so với tháng 12/2000. CPI giảm liên tục trong 3 tháng liên tiếp,tháng 3 giảm 0,7%, tháng 4 giảm 0,5%, tháng 5 giảm 0,2%. Kết quả là đến cuối năm 2001 nhờ nhiều nỗ lực , chúng ta đã đẩy được tỉ lệ lạm phát lên 0,8%.
_ Tình trạng ứ đọng sản phẩm, sản xuất cầm chừng xảy ra ở một số sản phẩm và một số khu vực, đặc biệt là khu vực nhà nước :
+ Số hàng tồn kho của Tổng công ty 90-91 trong 6 tháng đầu năm 1999 đã lên tới 60.000 tỷ đồng.
+ Theo báo cáo của IMF có đến 60% doanh nghiệp nhà nước bị thua lỗ, trong đó 16% là thua lỗ triền miên. Tình trạng các công ty tư nhân cũng không có gì khá hơn. Trong năm 1998 và 6 tháng đầu năm 1999 có hàng ngàn xí nghiệp thua lỗ phải đóng cửa, các xí nghiệp lớn thì hoạt động cầm chừng.
+ tỉ lệ thất nghiệp năm 1999 ở Hà Nội là 10,3% và ở thành phố Hồ Chí Minh là 7,04%...
_ Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm : từ tốc độ tăng trưởng GDP năm 1996 là 9,34% xuống còn 8,15% năm 1997, 5,8% năm 1998, 4,8% năm 1999 và 6,75% năm 2000.
Nguyên nhân:
Một là : giá hàng nông sản giảm mạnh, đặc biệt là giá lương thực, cà phê, hạt tiêu, hạt điều làm giảm thu nhập của nông dân, ảnh hưởng tới sức mua hàng công nghiệp. Từ năm 1998 đến 6 tháng đầu năm 2001 chiư số giá lương thực liên tục giảm : năm 1999gm 7,8%, năm 2000 giảm 7,9%, 6 tháng đầu năm 2001 giảm 5,7%. Giá những hàng hóa trên giảm không chỉ làm cho CPI chung giảm mà nó còn gián tiếp làm cho sức mua và giá cả đầu vào các hàng hóa và dịch vụ khác giảm theo
Hai là: nhìn chung hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam chất lượng thấp, giá thành cao nên không có điều kiện cạnh tranh được với hàng nhập khẩu, đặc biệt là hàng nhập khẩu trốn lậu thuế, do đó giá cả hàng hóa công nghiệp và dịch vụ đang có xu hướng giảm giá để có thể cạnh tranh được với hàng hóa nhập khẩu.
Ba là : cơ cấu tăng trưởng kinh tế giữa khu vực công nghiệp và nông nghiệp là không hợp lý, làm ch thu nhập và theo đó là sức mua của nông dân, là bộ phận dân cư lớn nhất nước không tăng lên được .
Bốn là: tình trạng vốn ứ đọng ở các ngân hàng phản ánh người có tiền không muốn bỏ vốn vào đầu tư. Nợ khó đòi và nợ quá hạn ở các ngân hàng lớn.
Năm là : đầu tư nước ngoài suy giảm mạnh. Tốc độ giảm trung bình khoảng 24%/ năm trong giai đoạn 1997-2000
Sáu là, tỉ lệ tăng trưởng giá trị xuất khẩu giảm sút do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á .
Bảy là: trong khi nước ta đang duy trì ổn định tỉ giá thì các đồi tác thương mại trong khu vực phá giá đồng tiền làm cho nhiều mặt hàng trong nước đắt hơn hàng ngoại, chúng ta lâm vào thế cạnh tranhko thuận lợi so với bên ngoài.
Tám là : hậu quả của hiệu ứng lây lan do suy thoái và giảm phát khu vực.
Chín là : sự chậm trễ trong việc cải tiến những chính sách vĩ mô của Chính phủ , làm cho nước ta đạt được ít kết quả trong cạnh tranh. Vai trò điều tiết của nhà nước còn rất nhiều hạn chế.
2.3.1.2 Những biện pháp nhằm nâng cao sức mua của các tầng lớp dân cư(tăng cầu)
_ Chương trình giải quyết việc làm được đẩy mạnh
Trong năm 2000, đã thu hút và tạo việc làm cho khoảng 1,3 triệu người , tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn khoảng 6,5% so với 7,4% năm 1999, sử dụng lao động ở nông thôn được nâng lên.
_ Chương trình xóa đói giảm nghèo được triển khai
Năm 1999 giảm được 34 vạn hộ nghèo, năm 2000 giảm được 30 vạn hộ.
_ Hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm. Để khắc phục tình trạng trì trệ trong tiêu thụ hàng hóa , Chính phủ đã dưa ra những biện pháp tình thế như sau:
+ Cho áp dụng cơ chế vay vốn ngân hàng để mua sắm và việc thực hiện mua trả góp.
+ Đưa một số hàng hóa vào dự trữ quốc gia.
+ Hạ giá bán một số sản phẩm, nhất là các sản phẩm còn tồn đọnh lớnhc các sản phẩm thiết yếu có nhu cầ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35403.doc