Đề án Lí luận về lạm phát tiền tệ. Thực trạng và sự vận dụng ở Việt Nam

Mục Lục

A. LỜI MỞ ĐẦU 2

B. NỘI DUNG.

1. Lý luận cơ bản về lạm phát tiền tệ 3

1.1 Khái niệm về lạm phát 3

1.2 Phân loại về lạm phát 3

1.2.1 Xét về mặt định lượng 4

1.2.2 Xét về mặt định tính 4

1.3 Nguyên nhân gây ra lạm phát 5

1.3.1 Cung ứng tiền tệ và lạm phát 5

1.3.2 Chỉ tiêu công ăn việc làm cao và lạm phát 6

1.3.3 Thâm hụt ngân sách và lạm phát 7

1.3.4 Lạm phát theo tỷ giá hối đoái 7

2. Thực trạng về lạm phát tiền tệ của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua và sự vận dụng ở Việt Nam 8

2.1 Khái quát về lạm phát tiền tệ ở Việt Nam 8

2.2 Hậu quả của lạm phát tiền tệ 10

3. Giải pháp vận dụng tốt và khắc phục lạm phát 11

3.1 Những biện pháp tình thế 11

3.2 Những biện pháp chiến lược 12

C. KẾT LUẬN 13

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 14

 

 

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1650 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Lí luận về lạm phát tiền tệ. Thực trạng và sự vận dụng ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục Lục Lời mở đầu 2 Nội dung. Lý luận cơ bản về lạm phát tiền tệ 3 Khái niệm về lạm phát 3 Phân loại về lạm phát 3 Xét về mặt định lượng 4 Xét về mặt định tính 4 Nguyên nhân gây ra lạm phát 5 Cung ứng tiền tệ và lạm phát 5 Chỉ tiêu công ăn việc làm cao và lạm phát 6 Thâm hụt ngân sách và lạm phát 7 Lạm phát theo tỷ giá hối đoái 7 Thực trạng về lạm phát tiền tệ của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua và sự vận dụng ở Việt Nam 8 Khái quát về lạm phát tiền tệ ở Việt Nam 8 Hậu quả của lạm phát tiền tệ 10 Giải pháp vận dụng tốt và khắc phục lạm phát 11 Những biện pháp tình thế 11 Những biện pháp chiến lược 12 Kết luận 13 Danh mục tài liệu tham khảo 14 Lời mở đầu Lạm phát là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản và hết sức quan trọng mà mọi quốc gia đều phải quan tâm trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Lạm phát là một căn bệnh tiềm ẩn đối với các nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, nó xuất hiện khi nền kinh tế chứa đựng các dấu hiệu mất cân đối: mất cân đối giữa cung-cầu hàng hoá, mất cân đối giữa cung- cầu tiền tệ ...Lạm phát là một vấn đề lớn, khó và phức tạp nên mỗi khi nó xuất hiện lại đòi hỏi nhiều tâm trí và sức lực của các nhà kinh tế, các nhà khoa học, các nhà chính trị và các nhà quản lí nhằm tìm ra các biện pháp kiềm chế nó để tránh hậu quả do nó gây ra. Vậy lạm phát có tác động đến nền kinh tế như thế nào và phải chăng ngân hàng trung ương nên theo đuổi mục tiêu lạm phát bằng không? Để có nhận thức và hành động đúng về vấn đề lạm phát ở Việt Nam ta, em chọn đề tài: “Lí luận về lạm phát tiền tệ. Thực trạng và sự vận dụng ở Việt Nam” để nghiên cứu làm đề án môn học kinh tế chính trị. Nội Dung 1. Lí luận cơ bản về lạm phát tiền tệ. 1.1. Khái niệm về lạm phát. Có nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát: Theo Các Mác, trong Bộ Tư Bản: Lạm phát là việc tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa, dẫn đến giá cả tăng vọt. Theo nhà kinh tế học Samuelson: Lạm phát biểu thị một sự tăng lên trong mức giá chung. Theo ông: “ Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng- giá bánh mì, xăng dầu, xe ô tô tăng; tiền lương, giá đất, giá thuê tư liệu sản xuất tăng”. Theo các nhà kinh tế học cổ điển: Lạm phát tiền tệ là hiện tượng tăng cung tiền trong nền kinh tế, bơm thêm tiền vào lưu thông. Xuất phát từ phương trình lượng tiền: M.V=P.Y Trong đó: M: Lượng tiền trong lưu thông. V: Tốc độ chu chuyển của tiền. P: Mức giá chung. Y: Sản lượng thực tế. *Phương trình trên tương đương: %DM + %DV = %DP+ %DY Theo các nhà kinh tế tiền tệ trong dài hạn: V không đổi, Y luôn ở mức tiềm năng nên % DV = 0, % D =0 nên % DM = % DP có nghĩa là tỷ lệ tăng của cung tiền bằng tỷ lệ lạm phát, càng phát hành nhiều tiền càng lạm phát cao. Còn Milton Friedman thì cho rằng: “ Lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo dài ”. Theo ông: “ Lạm phát luôn luôn và bao giờ cũng là một hiện tượng tiền tệ ”. ý kiến đó của ông đã được đa số các nhà kinh tế học thuộc phái tiền tệ và phái Keynes tán thành. Để đo lường mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kì nhất định, các nhà thống kê sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ lạm phát được tính bằng phằn trăm thay đổi của mức giá chung so với thời kì trước. Tỉ lệ lạm phát cho thời kì t được tính theo công thức: pt =  x 100% Trong đó: pt: Tỉ lệ lạm phát của thời kì t Pt : Mức giá của thời kì t Pt -1: Mức giá của thời trước đó Để tính được tỉ lệ lạm phát, trước hết các nhà thống kê phải quyết định sử dụng chỉ số giá nào đó để phản ánh mức giá. Người ta thường sử dụng chỉ số điều chỉnh GDP (DGDP) và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để đo lường mức giá chung. Trên thực tế, các số liệu công bố chính thức về lạm phát thường được tính trên cơ sở CPI. 1.2. Phân loại lạm phát. 1.2.1. Xét về mặt định lượng. Lạm phát vừa phải: Nó được đặc trưng bởi giá cả tăng chậm và có thể dự đoán trước được. Đối với các nước đang phát triển, lạm phát ở mức một con số thường được coi là lạm phát vừa phải. Đó là mức lạm phát mà bình thường nền kinh tế trải qua và ít gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Lạm phát phi mã: Lạm phát trong phạm vi hai con số hoặc ba con số một năm thường được gọi là lạm phát phi mã. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực hiện cải cách. Nhìn chung lạm phát phi mã được duy trì trong một thời gian dài sẽ gây ra những biến dạng kinh tế ngiêm trọng. Siêu lạm phát: Là trường hợp lạm phát đặc biệt cao, nó có tỉ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng rất nhanh. Với siêu lạm phát, những tác động tiêu cực của nó đến đời sống và đến nền kinh tế trở nên nghiêm trọng: Kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng, thu nhập thực tế của người lao động giảm mạnh. 1.2.2. Xét về mặt định tính. Lạm phát cân bằng: Tỉ lệ lạm phát tăng tương ứng với thu nhập, do vậy lạm phát không ảnh hưởng đến đời sống của người lao động. Lạm phát không cân bằng: Tỉ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu nhập. Trên thực tế, lạm phát không cân bằng thường hay xảy ra nhất. Lạm phát dự kiến trước: lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối dài với tỷ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn, ổn định. Do vậy, người ta có thể dự đoán trước được tỷ lệ lạm pháp cho những năm tiếp sau. Lạm phát bất thường: lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó chưa hề xuất hiện. Nó thường gây ra cú sốc cho nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền đương đại. 1.3. Nguyên nhân gây ra lạm phát. 1.3.1. Cung ứng tiền tệ và lạm phát. Những phân tích của Keynes về tác động của việc tăng chi tiêu của Chính phủ hoặc cắt giảm thuế làm tăng tổng cầu, do đó đẩy giá cả lên cao. Nhưng việc tăng lên của tỷ lệ lạm phát trong trường hợp này chỉ là tạm thời. Một phân tích khác của phái Keynes về những cú sốc tiêu cực lên tổng cung (như việc tăng giá dầu, đấu tranh đòi tăng lương của công nhân...) cũng sẽ làm giá cả tăng lên. Nhưng nếu cung tiền tệ không tiếp tục tăng lên để tác động lên tổng cầu thì đến một lúc nào đó, tổng cung lại quay trở lại vị trí ban đầu. Do vậy sự tăng giá trong trương hợp này cũng chỉ là nhất thời. Như vậy lạm phát cao có thể xảy ra chỉ với một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao. 1.3.2. Chỉ tiêu công ăn việc làm cao và lạm phát Một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng mà đa số Chính phủ các nước theo đuổi cũng thường gây ra lạm phát, đó là mục tiêu công ăn việc làm cao. Có 2 loại lạm phát là kết quả của chính sách trên đó là lạm phát phí-đẩy và lạm phát cầu- kéo. Lạm phát phí-đẩy: xảy ra do các cú sốc cung bất lợi đẩy chi phí sản xuất lên cao. Do chi phí sản xuất cao đẩy đường tổng cung dịch chuyển sang trái và lên trên, trong khi tổng cầu chưa kịp thay đổi làm cho giá cả tăng, sản lượng giảm, thất nghiệp tăng. Vì muốn duy trì một mức công ăn việc làm cao hơn hiện tại, Chính Phủ sẽ thực hiện các chính sách làm tăng tổng cầu để đưa nền kinh tế trở về mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức giá lúc này cũng tăng lên. Nhưng những tác động làm tăng tổng cầu chỉ là tăng từng đợt, không thể sử dụng trong thời gian dài. Như vậy, việc di chuyển liên tục đường tổng cầu chỉ có thể là việc tăng cung ứng tiền liên tục, do đó lạm phát phí-đẩy cũng là một hiện tượng tiền tệ. Lạm phát cầu-kéo: do cú sốc từ phía cầu: chính sách kích cầu làm tổng cầu tăng dịch chuyển xuống dưới và sang phải, trong khi tổng cung chưa kịp thay đổi, giá cả tăng lên, sản lượng tăng. Tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên dẫn đến tiền lương, tổng cung giảm, nền kinh tế quay về mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng ở mức giá cao hơn. Lúc này, tỷ lệ thất nghiệp lại cao hơn mục tiêu mà các nhà hoạch định chính sách đặt ra. Do đó, họ lại tiếp tục thực hiện chính sách làm tăng tổng cầu, quá trình này cứ tiếp diễn và đẩy giá cả lên cao hơn. Tuy nhiên, việc tăng liên tục của tổng cầu chỉ có thể là kết quả của một quá trình tăng cung ứng tiền tệ liên tục. Vậy lạm phát cầu-kéo cũng là một hiện tượng tiền tệ. 1.3.3. Thâm hụt ngân sách và lạm phát. Để khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước, Chính Phủ có thể thực hiện bằng 2 cách: một là phát hành trái phiếu Chính Phủ ra thị trường tài chính để vay vốn từ trong dân chúng; hai là phát hành tiền với các nước đang phát triển, do thị trường vốn còn hạn chế việc phát hành trái phiếu Chính Phủ là khó thực hiện. Con đường duy nhất đối với họ là “sử dụng máy in tiền”. Vì thế, khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách nhà nước của các quốc gia đó tăng cao thì tiền tệ sẽ tăng nhanh và lạm phát tăng. ở các nước kinh tế phát triển (Mỹ), thị trường vốn phát triển. Vì vậy khối lượng lớn trái phiếu Chính Phủ có thể bán ra. Tuy nhiên nếu cứ liên tục phát hành trái phiếu ra thị trường, cầu về vốn vay sẽ tăng, do đó lãi suất sẽ tăng cao. Để hạn chế việc tăng năng suất, Ngân hàng trung ương sẽ phải mua vào trái phiếu đó, điều này lại làm cho cung tiền tệ tăng. Do vậy, tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước cao, sẽ là nguồn gốc tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát. 1.3.4. Lạm phát theo tỷ lệ tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động vào tâm lý của người sản xuất trong nước, muốn kéo giá hàng lên theo mức tăng của tỷ giá hối đoái. Thứ hai, khi tỷ giá tăng, giá nguyên liệu, hàng nhập khẩu cũng tăng cao, việc này thường gây ra phản ứng dây chuyền làm tăng giá cả ở rất nhiều hàng hoá khác. Như vậy, tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng là do nguyên nhân gây lạm pháp. 2. Thực trạng về lạm pháp tiền tệ của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua và sự vận dụng ở Việt Nam. 2.1. Khái quát về lạm phát tiền tệ của Việt Nam. Ngay sau khi thực hiện đổi mới, nước ta đã vấp phải một thách thức lớn: nền kinh tế bị mất ổn định nghiêm trọng. Giai đoạn 1986-1988 là những năm lạm phát phi mã tỷ lệ lạm phát tăng lên 3 con số (1986: 774,7%; 1987: 223,1%; 1988: 393,8%) với những hậu quả khôn lường: triệt tiêu động lực tiết kiệm và đầu tư, làm đình trệ sự phát triển lực lượng sản xuất, thất nghiệp tăng nhanh, đời sống dân cư suy giảm. Năm 1989 với chương trình ổn định mà nội dung chủ yếu là áp dụng chính sách lãi suất thực dương, Việt Nam đã thành công trong việc ngăn chặn đứng siêu lạm phát. Song kết quả này đã không bền vững. Lạm phát cao đã quay trở lại trong 2 năm sau đó vì thâm hụt ngân sách quá lớn và được tài trợ chủ yếu bằng phát hành tiền. Từ năm 1992, Chính Phủ Việt Nam theo đuổi chính sách tài khoá và tiền tệ thận trọng: thâm hụt ngân sách được duy trì ở mức thấp và đặc biệt đã không tài trợ bằng phát hành tiền, lãi suất thực dương liên tục được duy trì. Nhờ vậy mà lạm phát được kiểm soát và tăng trưởng kinh tế cao. Tuy nhiên, từ năm 1999 nước ta lại phải đối mặt với một thách thức mới: lạm phát giá thấp đi cùng với đà tăng trưởng kinh tế chậm lại. Với chủ trương kích cầu kịp thời, nền kinh tế nước ta dần dần khởi sắc với tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao. Sau một thời gian dài được kiềm chế ở mức thấp, lạm phát đổi bùng lên trong năm 2004. Theo số liệu tổng cục thống kê, chỉ số gia tăng tiêu dùng năm 2004 tăng 9,5% trong đó chỉ số giá nhóm lương thực thực phẩm tăng cao nhất 15,6%, nhóm dược phẩm y tế tăng 9,1%, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 7,4%, các nhóm hàng tăng từ 2,2-5,9%. Đây là mức tăng giá cao nhất trong 9 năm qua và cũng là năm đầu tiên kể từ năm 1999 tỷ lệ lạm phát vượt ngưỡng do Quốc hội đề ra (5%). Thực ra lạm phát cao trong năm 2004 không phải là hiện tượng riêng có của Việt Nam mà là một hiện tượng kinh tế mang tính chất toàn cầu: lạm phát ở Trung Quốc là 3,4% (năm 2003: 1,2%), Đài Loan là 1,5% (năm 2003: -0,3%), Malaixia là 1,5% (năm 2003: 1,1%), Thái Lan là 2,8% (năm 2003: 1,8%). Lạm phát cao ở Việt Nam trong năm 2004, một phần do lạm phát cao ở nước ngoài đã lan truyền vào nền kinh tế Việt Nam qua cả hai kênh xuất khẩu và nhập khẩu. Với kênh xuất khẩu, theo tính toán của Bộ thương mại tính trung bình giá hàng xuất khẩu của Việt Nam năm 2004 đã tăng 8% so với năm 2003. Sự gia tăng giá xuất khẩu làm tăng giá thu mua trong nước và góp phần làm tăng mức giá chung trên thị trường nội địa. Đồng thời, khi thu nhập của các nhà sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu được cải thiện, họ sẽ mua nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn, điều này tiếp tục làm tổng cầu tăng. Kết quả là cả mức giá và sản lượng đều tăng cao hơn. Đây là một lí do quan trọng làm cho nền kinh tế trong năm 2004 vừa tăng trưởng nhanh hơn, vừa trải qua lạm phát cao hơn. Còn kênh nhập khẩu, giá của nhiều vật tư quan trọng nhập khẩu như: phôi thép, hạt nhựa, hoá chất sản xuất tân dược, xăng dầu, khí đốt hoá lỏng, phân bón hoá học, clinker, phụ liệu nghành dệt may...đã tăng đáng kể trong năm 2004. Các doanh nghiệp đều tìm cách đưa chi phí cao hơn vào giá cả và do đó đẩy giá cả nhiều mặt hang trong nước tăng lên Tuy nhiên, thực tế cho thấy các nước Châu á khác cũng chịu những tác động khách quan bên ngoài tương tự như Việt Nam, nhưng mức lạm phát của họ chỉ dưới 5%. Do vậy lạm phát cao ở Việt Nam trong năm 2004 nhất định phải có sự đóng góp quan trọng của các nhân tố bên trong mà dưới đây là những lực lượng cơ bản. Thứ nhất, dịch cúm gà lan rộng làm cho nước ta thiệt hại hơn 1.300 tỷ đồng, làm giảm 1% tăng trưởng GDP. Giá thịt gà tăng cao cùng với những lo ngại về sự an toàn sử dụng thực phẩm, người dân đã chuyển mạnh sang sử dụng các loại thực phẩm thay thế. Nhưng do nguồn cầu về các loại thực phẩm này ít co giãn trong ngắn hạn nên giá của chúng đã tăng mạnh trong năm 2004. Số liệu thống kê cho thấy giá thực phẩm cao là nguồn chủ yếu gây ra tình trạng lạm phát cao bất thường trong năm 2004. Thứ hai, tâm lí tăng lương và đưa tiền mới có mệnh giá lớn vào lưu hành cũng tạo yếu tố tâm lí bất lợi, làm tăng tốc độ chu chuyển của tiền và do đó làm tăng giá. Thứ ba, việc điều hành quản lí của Nhà Nước còn chưa theo kịp yêu cầu, nhất là trong hệ thống phân phối lưu thông (điển hình là thép và thuốc chữa bệnh) đã tạo kẽ hở cho các nhà cung ứng thông đồng nhằm giữ hàng để đầu cơ tăng giá. 2.2. Hậu quả của lạm phát tiền tệ. Một trong những mục tiêu chính sách kinh tế vĩ mô hàng đầu của các quốc gia là ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát vì khi để lạm phát xảy ra thì sau đó để chống lại nó phải chịu một phí tổn rất lớn. Lạm phát làm cho tiền tệ không còn giữ được chức năng thước đo giá trị, do đó xã hội không thể tính toán hiệu quả, điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của mình . Tiền tệ và thuế là hai công cụ quan trọng nhất để Nhà Nước điều tiết nền kinh tế đã bị vô hiệu hoá, vì tiền mất giá nên không ai tin vào đồng tiền nữa, các biểu thuế không thể điều chỉnh kịp với mức độ tăng bất ngờ của lạm phát . Do vậy tác động điều chỉnh của thuế bị hạn chế. Lạm phát làm phân phối lại thu nhập, làm cho một số người nắm giữ các hàng hoá có giá cả tăng đột biến giàu lên nhanh chóng. Và những người có các hàng hoá mà giá cả của chúng không tăng hoặc tăng chậm và những người giữ tiền bị nghèo đi. Lạm phát cao ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội của quốc gia: hoạt động kinh tế méo mó, biến dạng nghiêm trọng, gây tâm lí xã hội phức tạp và làm lãng phí trong sản xuất. Chính vì tác hại trên, việc kiểm soát lạm phát trở thành một trong những mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên lạm phát không hoàn toàn tiêu cực, nếu duy trì được lạm phát ở mức vừa phải và điều tiết được thì lạm phát sẽ trở thành một công cụ điều tiết kinh tế (ví dụ như lạm phát ở Mỹ và cộng hoà liên bang Đức năm 1960). 3. Giải pháp vận dụng tốt và khắc phục lạm phát. 3.1. Những biện pháp tình thế. Những biện pháp này được áp dụng với mục tiêu giảm tức thời “cơn sốt lạm phát”, trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài. Các biện pháp này thường được áp dụng khi nền kinh tế lâm vào tình trạng siêu lạm phát. Thứ nhất, thực thi chính sách đóng băng tiền tệ tức là phải giảm lượng tiền giấy trong nền kinh tế như ngừng phát hành tiền vào lưu thông. Tỷ lệ lạm phát tăng cao, ngay lập tức ngân hàng trung ương phải dùng các biện pháp có thể đưa đến tăng cung ứng tiền tệ như ngừng thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng, dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, không phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách Nhà Nước, tăng lãi suất tiền gửi, đặc biệt là lãi suất tiền gửi tiết kiệm dân cư. Thứ hai, thi hành “chính sách tài chính thắt chặt” như tạm hoãn những khoản chi chưa cần thiết trong nền kinh tế, cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu đến mức có thể được. Thứ ba, tăng quỹ hàng hoá tiêu dùng để cân đối với lượng tiền có trong lưu thông bằng cách khuyến khích tự do mậu dịch, giảm nhẹ thuế quan và các biện pháp khác để thu hút hàng hoá từ nguồn vào. Thứ tư, đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài. Thứ năm, cải cách tiền tệ. Đây là biện pháp cuối cùng phải xử lý khi tỷ lệ lạm pháp lên quá cao mà các biện pháp trên chưa mang lại hiệu quả mong muốn. 3.2. Những biện pháp chiến lược. Đây là biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Các biện pháp chiến lược thường được áp dụng là: Thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thông hàng hoá. Bên cạnh đó, Chính Phủ cần phải chú trọng phát triển các nghành các hoạt động làm tăng thu ngoại tệ như xuất khẩu hàng hoá, phát triển nghành du lịch... Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc cắt giảm chi tiêu thường xuyên của ngân sách nhà nước trên cơ sở đó giảm bội chi ngân sách Nhà Nước. Tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách nhà nước trên cơ sở tăng các khoản thu cho ngân sách Nhà Nước một cách hợp lý, thống nhất thu đặc biệt là thất thu đặc biệt từ thuế, nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách Nhà Nước. Kết Luận Thông qua những phân tích ở trên đã giúp chúng ta hiểu được một phần nào về bản chất hiện tượng lạm phát tiền tệ cũng như vấn đề lạm phát tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn qua. Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình tăng trưởng và phát triển trở lại trong thời gian dài thiểu phát từ năm 1999 đến năm 2003 thì đến giai đoạn 2004-2005 lại lâm vào thời kì lạm phát mới. Mặc dù trong giai đoạn 2004 và đầu năm 2005 tình trạng lạm phát đang ở mức kiểm soát được, nhưng nguy cơ bùng phát lạm phát cao vẫn de dọa sự ổn địng và phát triển kinh tế Việt Nam. Trong đời sống hàng ngày, lạm phát là một trong những vấn đề kinh tế vĩ mô đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của các nhà chính trị và công chúng. Do lạm phát tăng cao và kéo dài đã gây ra những hậu quả lớn trong đời sống kinh tế của nhân dân lao động và cho sự tăng trưởng kinh tế. Chính Phủ các quốc gia cần phải có những biện pháp hữu hiệu để phong ngừa và khắc phục lạm phát. Danh mục tài liệu tham khảo. 1. Bàn về tỷ lệ lạm phát tối ưu ở Việt Nam-Nguyễn Văn Công. Tạp chí tài chính 3/2005. 2. Giáo trình lý thuyết tài chính-tiền tệ. Nhà xuất bản thống kê Hà Nội 2002 3. Kinh tế Việt Nam 2004. Nhà xuất bản khoa hoc và kỹ thuật. 4. Làm gì để thúc đẩy tăng cường và kiềm chế lạm phát năm 2005-Huy Minh. Tạp chí kinh tế và dự báo 3/2005. 5. Lạm phát-hành trình và giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam-TS Lê Quốc Lý. Nhà xuất bản tài chính-Hà Nội 2005. 6. Nguyên lý kinh tế học vĩ mô. Nhà xuất bản lao động-xã hội 2005. 7. Xung quanh quan niệm mới về lạm phát tiền-Châu Đình Phương. Tạp chí Tài Chính 3/2005.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28138.doc
Tài liệu liên quan