Đề án Lí thuyết của chủ nghĩa Mác-LêNin về nền kinh tế thị trường và sự vận dụng lí thuyết đó với nước ta từ khi đổi mới đến nay

Trong lịch sử ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội thế giới, chính sách kinh tế mới của Lênin xuất hiện vào những năm đầu tiên, ở nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Từ đó, mỗi khi quá trình cách mạng gặp khó khăn, hay khi một nước vừa giành được chính quyền, bước vào chặng đường đầu thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, thì những người cách mạng lại nhớ tới chính sách kinh tế mới của Lênin.

Ý nghĩa của chính sách kinh tế mới được thể hiện trước hết ở việc khôi phục nền kinh tế Xô viết sau chiến tranh. .Chỉ trong một thời gian ngắn đã tạo ra một bước phát triển quan trọng biến “nước Nga” đói thành một nước có nguồn lương thực dồi dào. Từ đó khắc phục khủng hoảng chính trị, củng cố lòng tin nhân dân vào sự thắng lợi tất yếu và bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội.

 

doc47 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1567 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Lí thuyết của chủ nghĩa Mác-LêNin về nền kinh tế thị trường và sự vận dụng lí thuyết đó với nước ta từ khi đổi mới đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất. Nó mang lại phần thưởng cho những người làm tốt, làm giỏi và hình phạt cho những người làm ăn kém cỏi. Về phương diện này thì qui luật giá trị đảm bảo sự bình đẳng đối với người sản xuất. Tuy nhiên qui luật giá trị cũng có mặt trái của nó. Trong quá trình thực hiện sự bình tuyển đối với người sản xuất qui luật giá trị đã phân hóa người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo. Từ đó dẫn đến quan hệ đối kháng về lợi ích kinh tế giữa quan hệ kẻ giàu –người nghèo, quan hệ chủ-thợ, quan hệ tư sản-vô sản. Đây chính là một trong những khuyết tật của nền kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường. b. Qui luật cung cầu Cung cầu là sự khái quát hóa hai lực lượng cơ bản của thị trường là người bán và người mua người sản xuất và người tiêu dùng, của hai khâu trong quá trình tái sản xuất là sản xuất và tiêu dùng. Sức cầu : là hình thức biểu hiện biểu hiện của nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ trên thị trường được đảm bảo bằng khối lượng tiền tệ với giá cả nhất định. Nói cách khác cầu là nhu cầu có khả năng thanh toán. Giữa cầu và nhu cầu có mối liên hệ với nhau. Có thể có nhu cầu về hàng hóa, song nếu không có tiền đảm bảo theo giá cả nhất định của hàng hóa thì sẽ không xuất hiện cầu. Cầu hàng hóa phụ thuộc vào nhiều yếu tố mà trước hết là phụ thuộc vào nhu cầu mua sắm. Nếu nhu cầu mua sắm lớn thì có khả năng tăng cầu và ngược lại. Nhân tố khác ảnh hưởng tới cầu hàng hóa là khả năng mua sắm của chủ thể kinh tế. Sức cung : Cung là khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà các chủ thể kinh tế mang bán trên thị trường với giá cả nhất định. Giữa cung và giá cả có mối liên hệ với nhau. Nhìn chung khi giá cả hàng hóa tăng lên sẽ kích thích tăng sản xuất và do đó sẽ tăng cung. Cung cầu về hàng hóa và giá cả thị trường có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Giá cả thị trường là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa trên thị trường. Giá cả thị trường chính là giao điểm giá cả giữa người mua và người bán, gọi là giá cả cân bằng. ở điểm giá cả cân bằng cung cầu về số lượng hàng hóa cân bằng với nhau. Như vậy mối quan hệ tác động qua lại giữa cung cầu về số lượng hàng hóa với giá cả thị trường đã hình thành nên qui luật cung cầu. Qui luật cung cầu có tác dụng điều tiết sản xuất và tiêu dùng, biến đổi dung lượng và cơ cấu thị trường và quyết định giá cả thị trường . c. Qui luật cạnh tranh Cạnh tranh là động lực, là một trong những nguyên tắc cơ bản, tồn tại khách quan và không thể thiếu được của sản xuất hàng hóa. Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể tham gia sản xuất- kinh doanh với nhau nhằm giành những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ để thu được nhiều lợi ich nhất cho mình. Mục tiêu của cạnh tranh là giành lợi ích. lợi nhuận lớn nhất, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của chủ thể tham gia cạnh tranh. Canh trạnh bao gồm cạnh tranh chiếm các nguồn nguyên liệu, giành các nguồn lực sản xuất ; cạnh tranh về khoa học và công nghệ; cạnh tranh để chiếm các thị trường tiêu thụ, giành nơi đầu tư chiếm các hợp đồng; các đơn đặt hàng, cạnh tranh bằng giá cả và phi giá cả, bằng chất lượng hàng hóa và dịch vụ, bằng những dịch vụ lắp đặt, bảo hành, sữa chữa, bằng các phương thức thanh toán, bằng các thủ đoạn kinh tế và phi kinh tế... Cạnh tranh có nhiều loại : cạnh tranh giữa người mua và người bán, cạnh tranh giữa người bán với nhau hoặc giữa người mua với nhau : cạnh tranh trong nội bộ ngành, cạnh tranh giữa các ngành, cạnh tranh trong giới hạn quốc gia và quốc tế. Trong nền sản xuất hàng hóa cạnh tranh có vai trò to lớn. Nó buộc người sản xuất- kinh doanh phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng phương pháp công nghệ mới, nhạy bén, năng động, tổ chức quản lí có hiệu quả ... Thực tế cho thấy ở đâu có và lúc nào thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì ở đó thường trì trệ, bạo thủ, kém hiệu quả vì mất đi cơ chế có tác dụng đào thải cái lạc hậu, bình tuyển cái tiến bộ để thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Bên cạnh những vai trò to lớn đó, cạnh tranh cũng để lại những tác hại : cạnh tranh làm xuất hiện và phát triển các hình thức lừa đảo, đầu cơ, làm hàng giả, trốn lậu thuế, ăn cắp bản quyền, mua chuộc hối lộ, tung tin phá hoại uy tín đối thủ... vừa vi phạm pháp luật, vừa làm đồi bại các quan hệ xã hội. Cạnh tranh chạy theo lợi nhuận và lợi ích riêng làm các nguồn tài nguyên bị khai thác cạn kiệt, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, nền kinh tế luôn ở trạng thái bất ổn định vì khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát, làm tăng sự phân hoá giàu nghèo, những bất công xã hội. 6- Các ưu điểm và nhược điểm của nền kinh tế thị trường a .Ưu điểm Tác dụng đầu tiên và to lớn nhất của kinh tế thị trường đó là kích thích việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tăng năng suất lao động nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất . Kinh tế thị trường lấy lợi nhuận làm động lực hoạt động do đó để thu được lợi nhuận, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên áp dụng kỹ thuật mới, hợp lí hoá sản xuất làm cho năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội tăng lên. Nhờ đó mà nền kinh tế thị trường tuy mới ra đời đến nay khoảng 5 thế kỷ đã tạo ra một lực lượng sản xuất xã hội cao chưa từng thấy trong xã hội loài người. Bên cạnh đó kinh tế thị trường còn có tính năng động và khả năng thích ứng nhanh chóng. Điều này xuất phát từ một nguyên tắc của nền kinh tế thị trường đó là : người nào đưa ra thị trường hàng hóa trước tiên người đó sẽ thu được nhiều lợi nhuận. Mặt khác, nếu nhận thức được sản phẩm của mình không có người mua hay lượng cầu đang giảm dần, thì người sản xuất sẽ không sản xuất nữa. Điều đó dẫn tới sự tiết kiệm hao phí lao động xã hội. Vì vậy trong kinh tế thị trường luôn luôn diễn ra sự đổi mới. Nhiều sản phẩm trước đây vẫn bán nay mất đi vì không có nhu cầu, nhiều sản phẩm mới với chất lượng, quy cách, phẩm chất ngày càng hoàn thiện hơn xuất hiện. Ngoài ra trong kinh tế thị trường có rất nhiều hàng hóa và dịch vụ. Đó là một nền kinh tế dư thừa chứ không phải là một nền kinh tế thiếu hụt. Do vậy nền kinh tế thị trường tạo điều kiện vật chất thõa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu, vật chất, văn hóa và sự phát triển toàn diện của con người. b. Nhược điểm Tuy nhiên bên cạnh những ưu thế, kinh tế thị trường cũng có những khiếm khuyết của nó. Đó trước hết là tình trạng khủng hoảng và thất nghiệp. Khủng hoảng sản xuất thừa là đặc trưng của nền kinh tế phát triển. ở đây hàng hóa sản xuất ra cung vượt cầu có thể thanh toán dẫn đến tình trạng dư thừa hàng hóa. Tình trạng này sẽ làm cho hàng loạt công ti bị phá sản gây ra lãng phí cho xã hội. Gắn liền với khủng hoảng là thất nghiệp, một căn bệnh nan giải của kinh tế thị trường. Việc gia tăng tình trạng thất nghiệp đã đẩy nhiều người lâm vào cảnh cuộc sống khó khăn dẫn đến tăng hố ngăn cách giàu nghèo trong xã hội và làm xuất hiện những mâu thuẫn giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Một hậu quả khác của nền kinh tế thị trường là tình trạng làm ô nhiễm môi trường, không khí, nguồn nước tàn phá đất đai, rừng đầu nguồn vì mục đích lợi nhuận. Song việc thu được nhiều lợi nhuận chỉ có lợi cho cá nhân còn sự tàn phá môi trường thì xã hội phải gánh chịu. Cuối cùng là tình trạng độc quyền xoá bỏ tự do cạnh tranh làm nền kinh tế mất tính hiệu quả. Tất cả những hạn chế đó đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế để đảm bảo sự ổn định, công bằng và hiệu quả. II- Sự phát triển của Lênin về kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội Quan điểm của Lênin về kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội Không bao lâu sau cách mạng tháng Mười việc thực hiện kế hoạch xây dựng xã hội chủ nghĩa của Lênin bị gián đoạn bởi cuộc nội chiến 1918-1920. Bọn địa chủ và bọn tư bản bị lật đổ đã nổi dậy chống chính quyền Xô viết. Từ bên ngoài có sự can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc do Anh, Pháp cầm đầu hòng bóp chết nhà nước Xô viết còn non trẻ. Cuộc nội chiến và can thiệp của nước ngoài làm cho nước Nga càng thêm khó khăn chồng chất. Để đối phó với tình hình đó, Lênin đã áp dụng chính sách cộng sản thời chiến. Nội dung cơ bản của chính sách này là trưng thu lương thực thừa của nông dân, xoá bỏ quan hệ hàng hóa tiền tệ, xóa bỏ việc mua bán lương thực tự do trên thị trường, thực hiện chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và bộ máy nhà nước. Chính sách cộng sản thời chiến đã đóng vai trò quan trọng thắng lợi của nhà nước Xô viết. Tuy nhiên, khi hoà bình lập lại, chính sách cộng sản thời chiến không còn thích hợp. Nó trở thành nhân tố kìm hãm sản xuất. Việc thực hiện chính sách trưng thu lương thực thừa đã làm mất động lực đối với nông dân. Việc xoá bỏ quan hệ hàng hóa tiền tệ làm mất tính năng động của nền kinh tế vốn dĩ mới bước vào giai đoạn phát triển. Vì vậy khủng hoảng kinh tế chính trị diễn ra rất sâu sắc. Đứng trước tình hình đó, Lênin đã chủ trương thay thế chính sách kinh tế cộng sản thời chiến bằng chính sách kinh tế mới – NEP . Bởi vì chính sách cộng sản thời chiến hoàn toàn không phải là một giai đoạn tất yếu trong chính sách kinh tế thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó chỉ là một chính sách tạm thời. Như vậy Lênin đã khẳng định sự tồn tại của kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội thông qua chính sách kinh tế mới mà thực chất là sử dụng quan hệ hàng tiền, đặt thương nghiệp và thị trường lên hàng đầu. 2. Nội dung chính sách chính sách kinh tế mới của LêNin Các nội dung của NEP là một hệ thống gồm nhiều mắt khâu liên hoàn, có mối liên hệ bên trong như một dây chuyền, không thể thiếu khâu nào. Tất cả các khâu tạo thành cơ chế kinh tế cho phép nhà nước tháo gỡ khó khăn, điều hành sự vận động kinh tế - xã hội Cơ chế kinh tế NEP gồm mấy nội dụng chủ yếu sau: Thứ nhất : Thay thế chính sách trưng thu lương thực bằng chính sách thuế lương thực Trong điều kiện nước Nga lúc ấy, giai cấp nông dân và nông nghiệp là nguồn nuôi sống xã hội. Sản xuất và đời sống xã hội phụ thuộc vào nông nghiệp. Khó khăn lớn mà nhà nước vấp phải là thiếu lương thực. Vì vậy mục đích trực tiếp của thuế lương thực là một trong những biện pháp cấp tốc, cương quyết nhất, cần thiết nhất, để cải thiện đời sống nhân dân và nâng cao lực lượng sản xuất của họ. Thực hiện thuế lương thực, xóa bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa có nghĩa là chuyển từ biện pháp hành chính sang thuần tuý sang biện pháp kinh tế, thuế lương thực có vai trò quá độ đó. Theo chính sách này người nông dân chỉ phải nộp thuế lương thực với một mức cố định trong nhiều năm. Mức thuế này căn cứ vào điều kiện đất đai canh tác. Nói cách khác thuế lương thực chính là địa tô mà người nông dân người nông dân canh tác trên ruộng đất sở hữu toàn dân phải trả cho nhà nước. Số lương thực còn lại người nông dân được tự do trao đổi mua bán trên thị trường Thuế lương thực là đòn xeo mạnh mẽ khôi phục nông nghiệp sau chiến tranh, biểu hiện yêu cầu của tính qui luật đầu tiên của quá trình khôi phục kinh tế, vì : “Thuế lương thực sẽ giúp vào việc cải thiện đời sống nông dân. Bởi vì nông dân sẽ bắt tay vào làm việc một cách hăng say hơn, và đó là điều chủ yếu”. Thứ hai : Khôi phục và phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, khôi phục và tổ chức lại nền sản xuất công nghiệp phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp và nông dân. Muốn cải thiện đời sống nông dân và công nhân thì không thể dựa vào nền nông nghiệp gia trưởng mang tính chất tự cung tự cấp mà chỉ có thể dựa vào nền nông nghiệp hàng hóa. Thực hiện cơ chế kinh tế hàng hóa thay cho cơ chế giao nộp, trưng thu dựa trên mệnh lệnh trong thời kì “chính sách cộng sản thời chiến” đã đáp ứng được nhu cầu nhiều mặt của sản xuất và tiêu dùng của nông dân và xã hội. Thông qua trao đổi hàng hóa, thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nông nghiệp khuyến khích sản xuất nông nghiệp vừa đi vào chuyên canh vừa phát triển kinh doanh tổng hợp. Mặt khác đây chính là con đường để nhà nước giải quyết vấn đề lương thực một cách chắc chắn đồng thời tạo điều kiện khôi phục và phát triển kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp làm sống động lại các ngành kinh tế và toàn bộ sinh hoạt xã hội ở thành thị và nông thôn. Còn trong công nghiệp, quá trình khôi phục được bắt đầu từ công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm, là những ngành gắn bó với nông nghiệp về nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Các ngành công nghiệp nặng được khôi phục chậm hơn. Vốn đầu tư phần lớn được nhà nước hướng vào phát triển cơ sở năng lượng. Quá trình khôi phục công nghiệp đi liền với việc sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và chuyển từ cơ chế quản lí tập trung bằng mệnh lệnh sang cơ chế hạch toán kinh tế theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Do tập trung sản xuất hợp lí và cân đối nên đã sớm tạo được nguồn tích lũy và kết quả là nền sản xuất công nghiệp đã đạt được nhịp độ cao chưa từng có, mức tăng sản phẩm trung bình hằng năm là 41%, đến 1926, công nghiệp lớn đã vược trước mức chiến tranh. Thứ ba : Tổ chức quá trình lưu thông theo quan điểm NEP. Quan điểm mới của NEP đối với lĩnh vực này là chuyển nền kinh tế từ trạng thái hỗn loạn sang quỹ đạo tái sản xuất bình thường, từ phân phối trực tiếp và bao cấp sang kinh tế hàng hóa.Do đó thương nghiệp trở thành cái mắt xích đặc biệt cần nắm vững trong dây chuyền quản lí, điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Mục đích cao nhất của NEP ở bước ngoặt cách mạng là thiết lập liên minh kinh tế giữa hai giai cấp là nông dân và công nhân trong điều kiện nông nghiệp lạc hậu phân tán thì thương nghiệp là mối liên hệ duy nhất có thể có giữa hàng chục triểu tiểu nông với giai cấp vô sản, là điều kiện để cho nông nghiệp và công nghiệp có thể tái sản xuất được. Để hướng quá trình lưu thông hàng hóa đi thẳng tới nhu cầu, nhà nước đã sử dụng nhiều hình thức thương nghiệp với một cơ cấu thương nghiệp đảm bảo phat huy vai trò thương nghiệp nhà nước. Một khâu chủ đạo trong cơ cấu thương nghiệp là tổ chức các hình thức thương nghiệp nhà nước ở thành phố lớn (cửa hàng bách hóa tổng hợp), tổ chức các xanh-đi-ca (thương nghiệp để tiêu thụ và cung ứng) của các tờ-rớt công nghiệp. Các xanh-đi-cung cầu này đóng vai trò to lớn làm chủ thị trường buôn bán. Do đó tư thương bị loại dần ra khỏi lĩnh vực bán buôn và đến cuối thời kì khôi phục thì bị loại hoàn toàn. Tổ chức quá trình lưu thông, ngoài thương nghiệp ra giao thông vận tải là khâu quan trọng. Khi nền kinh tế chuyể sang quỹ đạo NEP, tổng sản lượng xã hội tăng lên nhanh chóng, khối lượng vận chuyển tăng nhiều và đa dạng nhưng ngành giao thông vận tải đang bị khó khăn về hai mặt : bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh và bị đặt trong cơ chế tập trung hoá cao. Do đó vấn đề tổ chức lại giao thông vận tải được coi là một vấn đề quan trọng thiết yếu trong quá trình tái sản xuất xã hội . Thứ tư : ổn định tiền tệ, củng cố nền tài chính Khôi phục kinh tế theo quan điểm NEP đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các vấn đề tài chính tiền tệ. Các xí nghiệp đi vào hạch toán kinh tế không đòi hỏi kinh phí từ ngân sách nhà nước, đồng thời lại nộp một phần lợi nhuận vào ngân sách. Hoạt động ngoại thương phục hồi, bắt đầu bổ sung dữ trữ vàng cho nhà nước xô-viết. Đó là một mặt của tình hình, nhưng mặt khác, các hoạt động sản xuất và lưu thông càng mở rộng, kinh tế hàng hóa khôi phục và phát triển thì càng đòi hỏi phải giải quyết vấn đề tài chính tiền tệ một cách cấp bách. Quá trình chấn chỉnh công tác tài chính được thực hiện với nhiều biện pháp như kiểm kê và kiểm soát có tác dụng tính toán nhu cầu thực tế về tài chính của xí nghiệp, kiểm soát việc chi tiêu, hạn chế các chi phí sản xuất và chi phí cho bộ máy. Còn đối với công tác ổn định tiền tệ cũng được tiến hành với nhiều biện pháp khác nhau như thay đổi đơn vị tiền tệ, thực hiện cải cách tiền tệ ... Nhờ đó ngân sách nhà nước liên tục bội thu, công tác phát hành trở thành nguồn vốn tín dụng ngắn hạn cho nền kinh tế, chứ không phải trang trải cho bội chi, ngân sách. Tài sản ngân hàng nhà nước không ngừng tăng (từ 10 -1923 đến 10 -1925 đã tăng 5 lần). 3- ý nghĩa của chính sách kinh tế mới và sự vận dụng vào nước ta Trong lịch sử ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội thế giới, chính sách kinh tế mới của Lênin xuất hiện vào những năm đầu tiên, ở nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Từ đó, mỗi khi quá trình cách mạng gặp khó khăn, hay khi một nước vừa giành được chính quyền, bước vào chặng đường đầu thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, thì những người cách mạng lại nhớ tới chính sách kinh tế mới của Lênin. ý nghĩa của chính sách kinh tế mới được thể hiện trước hết ở việc khôi phục nền kinh tế Xô viết sau chiến tranh. .Chỉ trong một thời gian ngắn đã tạo ra một bước phát triển quan trọng biến “nước Nga” đói thành một nước có nguồn lương thực dồi dào. Từ đó khắc phục khủng hoảng chính trị, củng cố lòng tin nhân dân vào sự thắng lợi tất yếu và bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Chính sách kinh tế mới của Lênin còn đánh dấu một bước phát triển mới về lí thuyết nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo tư tưởng này, nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức quá độ, việc duy trì và phát triển kinh tế hàng hóa tiền tệ, quan tâm tới lợi ích kinh tế cá nhân trước hết là của nông dân là những vấn đề có tính chất nguyên tắc trong việc xây dựng mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nhờ có NEP nên lí luận chủ nghĩa xã hội khoa học lần đầu tiên trở thành hiện thực . Lênin không những đặt nền móng lí luận mà còn nêu ra mẫu mực về chiến lược và sách lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa từ điểm xuất phát khác nhau. Phản ánh đúng đắn đòi hỏi của qui luật ra đời và phát triển chủ nghĩa xã hội trong điều kiện thời đại mới, tư tưởng kinh tế học Lêninvà toàn bộ học thuyết của Người đang soi sáng hướng dẫn mỗi bước tiến lên của các quá trình cách mạng các nước ở trình độ khác nhau. Từ đó chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với các nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta. Những quan điểm kinh tế của Đảng ta nhất là từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đến nay đã thể hiện sự nhận thức vận dụng quan điểm của Lênin trong chính sách kinh tế mới. Tất nhiên do thời gian và không gian cách xa nhau, trải qua những biến động khác nhau, nên nhận thức và vận dụng có thể khác nhau ở bước đi, nội dung và biện pháp cụ thể khi tiến hành ở nước ta. Chiến lược vận dụng chính sách kinh tế mới vào nước ta tập trung ở những điểm sau : Trước hết đó là việc vận dụng tư duy lí luận- chính trị vào hoạt động thực tiễn Trong thực trạng kinh tế nước ta để vận dụng tốt tư duy lí luận – chính trị vào thực tiễn thì yêu cầu đầu tiên là phải đánh giá đúng tình hình thực trạng kinh tế xã hội. Đồng thời trong hoạt động thực tiễn, ngoài phương pháp phân tích mâu thuẫn, còn phải vận dụng phương pháp xem xét hệ thống, từ đó có những biện pháp đồng bộ có trọng điểm như một cơ chế, trong đó mắt xích đặc biệt cần nắm chắc để chuyển biến tình hình theo hướng tích cực. Chính Lênin đã sử dụng phương pháp trên để chỉ ra thương nghiệp là mắt xích quan trọng nhất cần đem toàn lực ra để nắm lấy. Ngoài ra phải vận dụng quan hệ hàng hóa tiền tệ vào đổi mới cơ chế quản lí kinh tế ở nước ta. Quá trình đổi mới cơ chế quản lí kinh tế ngày càng đòi hỏi nhận thức và vận dụng có kết quả qui luật giá trị các quan hệ hàng tiền. Đây là một vấn đề có ý nghĩa lí luận và thực tiễn quan trọng trong quá trình đổi mới ở nước ta. Chương II : Sự vận dụng lí thuyết kinh tế thị trường của chủ nghĩa Mác- Lênin đối với nước ta từ khi đổi mới đến nay. Đặc điểm kinh tế - xã hội ở Việt Nam trước đổi mới. Sau khi chiến tranh kết thúc, đất nước ta bước vào thời kì qúa độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn này cả nước ta đã phải chịu đựng những đảo lộn kinh tế và xã hội với qui mô lớn, lâu dài, với những diễn biến trong tình hình thế giới có mặt không thuận lợi. Đây chính là thời kì mà mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp bộc lộ một cách toàn diện mặt tiêu cực của nó mà hậu quả tập trung là cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội sâu sắc vào cuối những năm 70 đầu những năm 80. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh giá tình hình đất nước ta từ năm 1976 đến năm 1980 là thời kì kinh tế nền kinh tế ở trạng thái trì trệ. Trên mặt trận kinh tế, đất nước ta đứng trước nhiều vấn đề gay gắt. Kết quả thực hiện kế hoạch kinh tế 5 năm (1976-1980) chưa thu hẹp được những mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân. Sản xuất chậm phát triển trong khi dân số tăng nhanh. Thu nhập của quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng xã hội, một phần tiêu dùng xã hội phải dựa vào vay và viện trị, nền kinh tế chưa tạo được tích lũy. Lương thực, vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu. Tình hình cung ứng vật tư, tình hình giao thông vận tải rất căng thẳng. Nhiều xí nghiệp sử dụng công suất ở mức thấp. Chênh lệch lớn giữa thu và chi tài chính, giữa hàng và tiền, giữa xuất khẩu và nhập khẩu.Thị trường và vật giá không ổn định. Số người lao động chưa sử dụng còn đông. Đời sống nhân dân lao động còn gặp nhiều khó khăn. Tình hình trì trệ ấy có nguyên nhân khách quan như nền kinh tế đang gánh chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh lâu dài, phải đối phó với hai cuộc chiến tranh biên giới để bảo vệ Tổ quốc, viện trợ từ bên ngoài giảm so thời kì chiến tranh. Nhưng nguyên nhân chủ yếu làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về kinh tế và xã hội vẫn là mô hình kinh tế không phù hợp với qui luật kinh tế khách quan. Mô hình kinh tế đó đã phát triển ở mức cao và được áp dụng trong phạm vi cả nước cho nên hậu quả càng nặng nề trên qui mô lớn. Từ thực tế và phong trào quần chúng đặt ra một cách nghiêm túc về những vấn đề lí luận buộc chúng ta phải xem xét, lí giải tìm động lực cho sự phát triển . Nhìn thẳng vào sự thực Đảng ta đã sớm có chuyển biến, bắt đầu uốn nắn những lệch lạc trong phong trào hợp tác hoá, công nghiệp hóa đến việc thay đổi thể chế chính sách. Nghị quyết Trương ương lần thứ sáu (khoá IV) được đánh dấu như một cái mốc trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế : Cho sản xuất bung ra : thừa nhận quan hệ hàng hóa tiền tệ ; cho tự do lưu thông . Chi thỉ 100 của Ban Bí thư cho phép khoán sản phẩm trong nông nghiệp ; Quyết định 25CP của Chính Phủ cho phép thực hiện kế hoạch ba phần trong các xí nghiệp công nghiệp. Vấn đề giá cả, cốt lõi của cơ chế cũ được coi là đột phá khẩu đầu tiên triên khai mạnh mẽ những thử nghiệm về giá cả 1981, tổng điều chỉnh giá lương tiền 1985, bỏ phân phối theo định lượng, bù giá vào lương ở các tỉnh phía Nam..là những khám phá từ thực tế. Tuy nhiên những ý tưởng mới hình thành chỉ có tính chất tìm kiếm thích nghi, điều chỉnh cục bộ, chưa trở thành những quan điểm có hệ thống của Đảng. Điều đáng ghi nhận nhất ở thời kì này là tư duy mới từng bước được hình thành và phát triển, biểu hiện chủ yếu ở Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu của ban Chấp hành Trung ương khóa IV, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa V và cuối cùng là Nghị quyết Bộ Chính trị khóa V về các quan điểm kinh tế . Đến đây quan niệm cốt lõi của mô hình kinh tế mới về cơ bản đã hình thành. Sự phát triển tiên tiến này đã dẫn đến bước nhảy vọt trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI về mô hình kinh tế mới, và đường lối đó đã đi vào cuộc sống nhanh chóng vì đó là một đường lối đúng, được chuẩn bị trước không chỉ về mặt nhận thức, lí luân mà cả về mặt tổ chức thực hiện. II- Sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam từ đổi mới đến nay 1- Sự cần thiết khách quan phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sự tồn tại của kinh tế hàng hóa là một tất yếu khách quan. Bởi vì trong nền kinh tế nước ta lực lượng sản xuất xã hội còn rất thấp, đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, sự phân công lao động xã hội gắn với sự tồn tại nhiều chủ sở hữu khác nhau như các chủ thể kinh tế độc lập. Trong điều kiện đó, việc trao đổi sản phẩm giữa các chủ thể kinh tế với nhau không thể thực hiện theo nguyên tắc nào khác là nguyên tắc trao đổi ngang giá, tức là thực hiện sự trao đổi hàng hóa thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành hàng hóa ở nước ta, trong thời kì quá độ muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất thì phải xã hội hóa và chuyên môn hóa lao động. Quá trình ấy chỉ có thể diễn ra một cách thuận lợi trong một nền kinh tế hàng hóa. Sản xuất càng xã hội hóa, chuyên môn hóa thì càng đòi hỏi phát triển sự hiệp tác và trao đổi hoạt động trong xã hội, càng phải thông qua sự trao đổi hàng hóa giữa các đơn vị để đảm bảo những nhu cầu thiết yếu của các loại hoạt động sản xuất khác nhau. Chỉ có đẩy mạnh sản xuất hàng hóa mới làm cho nền kinh tế nước ta phát triển năng động. Kinh tế tự nhiên, do bản chất của nó, chỉ duy trì tái sản xuất giản đơn. Trong cơ chế kinh tế cũ, vì coi thường qui luật giá trị nên các cơ sở kinh tế cũng thiếu sức sống và động lực sản xuất. Sử dụng sản xuất hàng hóa là sử dụng qui luật giá trị, qui luật này buộc mỗi người sản xuất phải chịu trách nhiệm vầ hàng hóa do mình làm ra. Chính vì thế nên kinh tế trở nên sống động. Mỗi người sản xuất đều chịu sức ép buộc phải quan tâm tới sự tiêu thụ trên thị trường, sao cho sản phẩm của mình được xã hội thừa nhận và cũng từ đó họ mới có thu nhập. Phát triển sản xuất hàng hóa có thể đào tạo ngày càng nhiều cán bộ quản lí có trình độ cao, vì để

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28877.doc
Tài liệu liên quan