Đề án Luật thuế giá trị gia tăng và việc thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam giai đoạn 1999 - 2000

MỤC LỤC

Trang

Mở đầu 1

Phần I: Thuế giá trị gia tăng và luật thuế giá trị gia tăng của Việt nam 3

1. Lịch sử phát triển của thuế GTGT 4

2. Khái niệm và đặc điểm của thuế GTGT 4

II. Nội dung cơ bản của thuế GTGT 5

1. Đối tượng chịu thuế 5

2. Đối tượng nộp thuế 6

3. Căn cứ tính thuế 7

4. Phương pháp tính thuế 9

5. Quy định về hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá, dịch vụ 10

6. Hoàn thuế GTGT 10

7. Miễn, giảm thuế GTGT 12

8. Đăng ký, kê khai nộp thuế, quyết toán thuế 13

 

Phần II: Thực hiện luật thuế giá trị gia tăng ở Việt nam trong giai đoạn 1999- 2000 15

I- Thành tựu đã đạt được sau 2 năm áp dụng luật thuế GTGT ở Việt nam 16

1. Về đối tượng nộp thuế 16

2. Về thuế suất 17

3. Về khấu trừ thuế 18

4. Hoàn thuế 18

II- Một số tồn tại cần khắc phục trong việc thực hiện Luật thuế GTGT và hướng hoàn thiện Luật thuế GTGT 19

1. Về phạm vi áp dụng 20

2. Vấn đề thuế suất 22

3. Về phương pháp tính thuế và thu thuế 23

4. Hoàn thuế GTGT 25

5. Giảm thuế GTGT đối với cơ sở kinh doanh 26

Kết luận 27

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1398 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Luật thuế giá trị gia tăng và việc thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam giai đoạn 1999 - 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giá tính thuế. 3.2. Thuế suất Luật thuế GTGT phân biệt 4 mức thuế suất khác nhau: 0%, 5%, 10%, và 20% áp dụng đối với từng nhóm mặt hàng sản xuất hoặc nhập khẩu. Việc quy định các mức thuế suất khác nhau thể hiện chính sách điều tiết thu nhập và hướng dẫn tiêu dùng đối với hàng hoá, dịch vụ. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, mặt bằng kinh doanh của các ngành nghề chưa đồng nhất, nên phân biệt mức thuế suất thuế GTGT khác nhau đối với từng nhóm mặt hàng là cần thiết. Hàng hoá xuất khẩu bao gồm cả hàng gia công xuất khẩu (xuất khẩu ra nước ngoài hoặc xuất vào khu chế xuất) được áp dụng mức thuế suất 0% nhằm thực hiện việc hoàn thuế đã thu ở khâu trước và khuyến khích xuất khẩu. Những hàng hoá, dịch vụ không thiết yếu, phục vụ trực tiếp cho sản xuất và tiêu dùng được áp dụng mức thuế suất thấp là 5%. Các hàng hoá, dịch vụ không thiết yếu, cần điều tiết có mức thuế suất cao là 20%. Các hàng hoá, dịch vụ thông thường áp dụng mức thuế suất thông thường 10%. Nếu cơ sở sản xuất, kinh doanh nhiều loại hàng hoá, dịch vụ chịu các mức thuế suất khác nhau thì phải tổ chức hạch toán riêng doanh thu từng loại hàng hoá, dịch vụ kinh doanh theo từng mức thuế suất quy định đối với từng loại hàng hoá, dịch vụ. Nếu không hạch toán được như vậy thì doanh nghiệp phải tính thuế GTGT theo mức thuế suất cao nhất của hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở có sản xuất kinh doanh trên tổng doanh thu của tất cả hàng hoá, dịch vụ bán ra trong kỳ. 4. Phương pháp tính thuế Thuế GTGT mà cơ sở kinh doanh phải nộp được tính theo một trong hai phương pháp: phương pháp khấu trừ và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. 4.1. Phương pháp khấu trừ thuế 4.1.1. Đối tượng áp dụng Các đơn vị, tổ chức kinh doanh chấp hành tốt công tác hạch toán kinh tế và chế độ sử dụng hoá đơn chứng từ. Ưu điểm của phương pháp khấu trừ thuế: - Đơn giản hoá được quá trình tính và thu thuế bằng cách chỉ cần tập hợp các hoá đơn bán và mua hàng đã tính sẵn số thuế đầu ra và số thuế đầu vào trên đó. - Đảm bảo thu được đủ số thuế cần điều tiết ở người mua hàng cuối cùng là vì đây thực chất là phương pháp lùi số đã nộp để xác định số phải nộp. (Việc tính theo phương pháp trực tiếp có thể kết quả sẽ không khớp nếu tính GTGT ở các khâu không chính xác). 4.1.2. Xác định thuế GTGT phải nộp Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào Xác định thuế GTGT đầu ra theo công thức: Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra - Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó Thuế GTGT đầu vào được xác định bằng tổng số thuế GTGT được thanh toán được ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT hàng hoá nhập khẩu. 4.2. Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT 4.2.1. Đối tượng áp dụng - Cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt Nam. - Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng từ làm căn cứ tính theo phương pháp khấu trừ thuế. - Cơ sở kinh doanh mua bán vàng bạc, đá quí, ngoại tệ. 4.2.2. Xác định thuế GTGT phải nộp Số thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế x Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó Thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế = Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra - Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương đương 5. Quy định về hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá, dịch vụ - Việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ đều phải có hoá đơn, chứng từ theo qui định của pháp luật. - Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế phải sử dụng hoá đơn GTGT và phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố qui định, trong đó ghi rõ giá bán, khoản phụ thu, phí thu thêm, khoản thuế GTGT, giá thanh toán. Trong trường hợp hoá đơn không ghi khoản thuế giá trị gia tăng thì thuế GTGT được xác định bằng giá thanh toán theo hoá đơn nhân với thuế suất thuế GTGT. - Đối với các loại tem, vé được coi là chứng từ thanh toán đã in sẵn giá thanh toán thì giá thanh toán tem, vé đó đã bao gồm thuế GTGT. 6. Hoàn thuế GTGT 6.1. Đối tượng và các trường hợp được hoàn thuế GTGT a. Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế nếu có số thuế đầu vào được khấu trừ của 3 tháng liên tục lớn hơn số thuế đầu ra. Những cơ sở kinh doanh xuất khẩu mặt hàng theo thời vụ hoặc theo từng kỳ với số lượng lớn, nếu phát sinh số thuế GTGT đầu vào của hàng hoá xuất khẩu lớn so với số thuế đầu ra thì được xét hoàn thuế GTGT từng kỳ. b. Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, có đầu tư mua sắm tài sản cố định, có số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn: - Đối với cơ sở đầu tư mới đã đăng ký nộp thuế nhưng chưa có doanh thu bán hàng phát sinh để tính thuế GTGT đầu ra, nếu thời gian đầu tư từ 1 năm trở lên được xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Trường hợp số thuế được hoàn lớn thì được xét hoàn thuế từng quí. Trường hợp cơ sở mới đầu tư nhưng chưa thành lập doanh nghiệp hoặc chưa đăng ký nộp thuế thì không thuộc đối tượng được hoàn thuế. - Đối với cơ sở kinh doanh đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, nếu số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư đã khấu trừ theo 3 tháng mà chưa được khấu trừ hết thì dc hoàn lại số thuế chưa được khấu trừ này. Cơ sở thuộc đối tượng được quy định hoàn thuế trên đây phải lập hồ sơ xin hoàn thuế, ngoài các hồ sơ theo qui định chung, cơ sở phải gửi kèm theo luận chứng hay dự án đầu tư. c. Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản có thuế GTGT nộp thừa. d. Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế trong trường hợp có quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; Quyết định của Bộ trưởng bộ Tài chính yêu cầu phải hoàn thuế cho cơ sở kinh doanh. 6.2. Thẩm quyền giải quyết hoàn thuế Chi cục thuế giải quyết hoàn thuế đối với các cá nhân kinh doanh do chi cục quản lý; Cục thuế giải quyết hoàn thuế đối với các đối tượng do cục thuế quản lý; Bộ trưởng bộ Tài chính giải quyết đối với các trường hợp đặc biệt và các Tổng công ty 90/TTg, 91/TTg. 6.3. Thời hạn xét giải quyết hoàn thuế Thời hạn xét giải quyết hoàn thuế cho cơ sở đối với cơ quan thuế là 15 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ, trường hợp đặc biệt không được kéo dài quá 30 ngày. Nếu cần bổ xung hồ sơ hoặc không được xét hoàn thuế thì cơ quan thuế phải thông báo cho cơ sở biết trong thời hạn là 10 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ. Kho bạc có trách nhiệm làm thủ tục hoàn trả tiền thuế cho cơ sở trong thời hạn là 5 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoàn thuế của cơ quan thuế. 7. Miễn, giảm thuế GTGT Việc miễn giảm thuế là để bảo hộ sản xuất, đặc biệt là sản xuất trong nước. Bởi lẽ sản xuất trong nước còn kém, chất lượng của nhiều hàng hoá, dịch vụ chất lượng còn thua những sản phẩm cùng loại của nước ngoài nên sức cạnh tranh kém. Nếu chịu cùng mức thuế đối với những sản phẩm cùng loại của nước ngoài thì sẽ có giá tương đương, nhưng người tiêu dùng lại không lựa chọn vì chất lượng thua. Do vậy Chính phủ thực hiện việc miễn giảm thuế đối với một số mặt hàng là để đảm bảo sản xuất. a. Giảm thuế GTGT cho các cơ sở sản xuất, xây dựng, vận tải, thương mại, du lịch, ăn uống những đầu áp dụng thuế GTGT mà bị lỗ do số thuế GTGT phải nộp lớn hơn số thuế tính theo mức thuế doanh thu trước đây. Mức xét giảm đối với từng cơ sở kinh doanh tương ứng với số lỗ đó do nguyên nhân trên nhưng tối đa không quá số thuế GTGT mà cơ sở kinh doanh phải nộp được xét giảm thuế. Số thuế GTGT phải nộp đối với cơ sở áp dụng tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xác định bằng số thuế đầu ra trừ số thuế đầu vào được khấu trừ và hoàn lại của năm được giảm thuế (trừ trường hợp do đầu tư tài sản cố định có số thuế GTGT được khấu trừ lớn) Thời gian giảm thuế GTGT được xét từng năm, tính theo năm dương lịch và chỉ thực hiện trong 3 năm đầu, kể từ năm 1999 đến hết năm 2001. b. Một số sản phẩm hàng hoá, dịch vụ sản xuất, kinh doanh đang gặp khó khăn được giảm 50% mức thuế: Sản phẩm cơ khí; than đá, than cốc; máy vi tính; sản phẩm hoá chất cơ bản; vật liệu nổ; sản phẩm là nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh, phòng bệnh thuộc diện chịu thuế GTGT nhóm thuế suất 10%; dụng cụ dùng cho người tàn tật; … c. Miễn, giảm thuế GTGT đối với các cá nhân kinh doanh: Hộ kinh doanh cá thể nghỉ kinh doanh trong tháng từ 15 ngày trở lên được xét giảm 50% số thuế phải nộp của tháng, nếu nghỉ cả tháng thì được miễn nộp thuế của tháng đó. Ngoài ra hàng hoá, dịch vụ của những cá nhân kinh doanh có mức thu nhập bình quân tháng thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định đối với công chức Nhà nước thì không phải nộp thuế GTGT. 8. Đăng ký, kê khai nộp thuế, quyết toán thuế 8.1. Đăng ký nộp thuế a. Cơ sở kinh doanh kể cả các cơ sở trực thuộc của cơ sở đó phải đăng ký nộp thuế GTGT với cơ quan thuế trực tiếp quản lý theo hướng dẫn của cơ quan thuế. Đối với cơ sở kinh doanh mới thành lập, thời gian đăng ký nộp thuế GTGT chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong trường hợp sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản hoặc thay đổi kinh doanh, cơ sở kinh doanh phải khai báo với cơ quan thuế chậm nhất là 5 ngày trước khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản hoặc thay đổi kinh doanh. b. Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng nếu thực hiện đầy đủ chế độ chứng từ, hoá đơn, sổ kế toán, tự nguyện đăng ký áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế thì cơ quan thuế xem xét để thực hiện. 8.2. Kê khai thuế GTGT phải nộp ngân sách Nhà nước a. Cơ sở kinh doanh phải kê khai nộp thuế GTGT từng tháng và nộp tờ khai thuế cho cơ quan thuế trong vòng 10 ngày đầu của tháng tiếp theo. Trong trường hợp không phát sinh thuế đầu vào, thuế đầu ra, cơ sở kinh doanh vẫn phải kê khai và nộp tờ khai thuế cho cơ quan thuế. Cơ sở kinh doanh phải kê khai đầy đủ, đúng mẫu tờ khai thuế và chịu trách nhiệm về tính chính xác của việc kê khai. b. Cơ sở kinh doanh, người nhập khẩu hàng hoá phải kê khai và nộp tờ khai thuế GTGT theo từng lần nhập khẩu cùng với việc kê khai thuế nhập khẩu với cơ quan thu thuế nơi có cửa khẩu nhập hàng hoá. c. Cơ sở kinh doanh buôn chuyến phải kê khai và nộp thuế theo từng chuyến hàng với cơ quan thuế nơi mua hàng, trước và khi vận chuyển hàng đi. d. Cơ sở kinh doanh nhiều loại hàng hoá, dịch vụ có mức thuế suất thuế GTGT khác nhau phải kê khai thuế GTGT theo từng mức thuế suất quy định đối với từng loại hàng hoá, dịch vụ; nếu cơ sở kinh doanh không xác định được theo từng mức thuế suất thì phải tính và nộp thuế theo mức thuế suất cao nhất của hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở có sản xuất, kinh doanh. Bộ Tài chính quy định mẫu tờ khai thuế và hướng dẫn việc kê khai. 8.3. Nộp thuế Thuế GTGT nộp vào ngân sách Nhà nước theo quy định sau: a. Cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT đầy đủ, đúng hạn vào ngân sách Nhà nước theo thông báo nộp thuế của cơ quan thuế. b.Cơ sở kinh doanh, người nhập khẩu hàng hoá phải nộp thuế GTGT theo từng lần nhập khẩu. c. Trong kỳ tính thuế, cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế, nếu có số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra thì được khấu trừ vào kỳ tính thuế tiếp theo. d. Thuế GTGT nộp vào ngân sách Nhà nước bằng đồng Việt nam. 8.4. Quyết toán thuế Cơ sở kinh doanh phải thực hiện quyết toán thuế hàng năm với cơ quan thuế. Năm quyết toán thuế được tính theo năm dương lịch. Trong kỳ hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày kết thúc năm, cơ sở kinh doanh phải nộp báo cáo quyết toán thuế cho cơ quan thuế và phải nộp đủ số còn thiếu vào ngân sách Nhà nước trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nộp báo cáo quyết toán, nếu nộp thừa thì được trừ vào số thuê phải nộp kỳ tiếp theo. Trong trường hợp sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản, cơ sở kinh doanh phải thực hiện quyết toán thuế cho cơ quan thuế trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày có quyết định sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản. Phần II: Thực hiện luật thuế giá trị gia tăng ở Việt nam trong giai đoạn 1999- 2000 Về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn, thuế GTGT đã chứng tỏ những ưu việt hơn hẳn so với hình thức thu cũ của nó là thuế doanh thu. Nó đã đóng góp một vai trò quan trọng trong chính sách điều tiết kinh tế của Nhà nước và đảm bảo một phần thu ngân sách khá lớn. Tuy nhiên, vì chúng ta mới áp dụng được hơn hai năm nên có thể nói là mới qua giai đoạn thử nghiệm nên không thể tránh khỏi những bất cập ban đầu. Trong quá trình triển khai, chúng ta đã có nhiều văn bản sửa đổi bổ sung và hướng dẫn thi hành của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Bộ tài chính: - Uỷ ban thường vụ Quốc hội có Nghị quyết số 90/1999/NQ- UBTVQH10 ngày 3/9/1999; Nghị quyết số 240/2000/NQ- UBTVQH10 ngày 27/10/2000 về việc sửa đổi, bổ xung danh mục hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT và thuế suất thuế GTGT đối với một số hàng hoá, dịch vụ. - Chính phủ có Nghị định số 79/2000/NĐ- CP ngày 29/12/2000 hướng dẫn chi tiết thực hiện Luật thuế GTGT và cụ thể hoá các Nghị quyết nói trên của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Nghị định này ban hành thay thế các Nghị định hướng dẫn về thuế GTGT của Chính phủ đã ban hành trước đây. - Bộ tài chính đã ban hành Thông tư số 122/2000/TT-BTC ngày 29/12/2000 hướng dẫn Nghị định số 79/2000/NĐ- CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ. Thông tư này thay thế các thông tư hướng dẫn về thuế GTGT của Bộ tài chính đã ban hành trước đây. Nhờ có sự sửa đổi bổ xung này mà luật thuế GTGT ngày càng hoàn thiện và sát thực tế. Do đó, qua 2 năm thực hiện, luật thuế GTGT đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. I- Thành tựu đã đạt được sau 2 năm áp dụng luật thuế GTGT ở Việt nam Sau 2 năm thực hiện luật thuế GTGT, tình hình kinh tế - thị trường có những bước chuyển biến rõ rệt: việc sử dụng hoá đơn, chứng từ giao dịch, mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ đã tăng cường, công tác hạch toán kinh tế và hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp được thúc đẩy…đồng thời, đáp ứng được các yêu cầu ổn định sản xuất, không làm ảnh hưởng lớn đến kế hoạch thu ngân sách và ổn định thị trường. Có được kết quả tích cực như vậy là do sự chỉ đạo sát sao của Đảng, công tác triển khai thực hiện của Chính phủ và Bộ tài chính, nắm bắt kịp thời vướng mắc phát sinh và đề ra các giải pháp thực tiễn. Ngay từ khi mới bắt đầu thực hiện, thuế GTGT đã trở thành nguồn thu quan trọng. Chỉ trong 2 năm chúng ta đã thu được hơn 70.000 tỷ đồng và đảm bảo 20%- 25% trong cơ cấu thu của ngân sách Nhà nước. Đồng thời nó đã góp phần khuyến khích đầu tư, xuất khẩu và bảo vệ sản xuất trong nước. 1. Về đối tượng nộp thuế Sửa đổi, bổ sung một số khoản như khoản 4, khoản 7, khoản 10, khoản 13, khoản 20, khoản 22, khoản 23 của điều 4 quy định tại danh mục hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Cụ thể như sau: Bổ sung “hoạt động kinh doanh chứng khoán” vào cuối khoản 7 thành “dịch vụ tín dụng, quỹ đầu tư, hoạt động kinh doanh chứng khoán vào danh mục hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế, khuyến khích huy động nguồn vốn dài hạn trong nước và nước ngoài để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, vì xét về bản chất, hoạt động kinh doanh chứng khoán cũng là một hình thức tín dụng tài chính. Bổ xung đối với “quà biếu, quà tặng cho cá nhân ở Việt nam theo mức quy định của Chính phủ” vào khoản 20 cho phù hợp Luật thuế xuất nhập khẩu, vì theo quy định tại Luật thuế này, quà biếu, quà tặng cho cá nhân ở Việt nam có giá trị đến 100USD thì không phải chịu thuế xuất nhập khẩu. Để giúp đối tượng chịu thuế GTGT áp dụng thuế suất 0% và doanh nghiệp được khấu trừ hoặc hoàn thuế GTGT đầu vào nhằm hạ thấp chi phí và giá bán sản phẩm dịch vụ, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 2. Về thuế suất Do áp dụng từ 11 mức thuế suất thuế doanh thu xuống còn bốn mức thuế suất thuế GTGT khiến cho nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, cho nên, sửa đổi, bổ xung mức thuế suất thuế GTGT đối với một số hàng hoá, dịch vụ trên cơ sở đề nghị của các ngành, các địa phương và các doanh nghiệp, nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc là: giảm mức thuế suất đối với một số hàng hoá, dịch vụ nhưng chỉ trong các mức thuế đã quy định tại Luật, không bổ xung làm tăng thêm mức thuế suất và phù hợp việc giảm số mức thuế suất trong những năm tiếp theo. Những hàng hoá, dịch vụ nào cần tạm thời hạ mức thuế suất, phải xem xét kỹ trong mối quan hệ giữa sản xuất trong nước với nhập khẩu, giữa cơ sở sản xuất kinh doanh và áp dụng thống nhất cho cả hàng hoá nhập khẩu, giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh ở trong nước. Việc thay đổi mức thuế suất không vì giảm thuế đối với một số hàng hoá dịch vụ khác, không làm ảnh hưởng lớn đến nguồn thu của ngân sách Nhà nước. Trên thực tế đã có nhiều ngành kiến nghị về khung thuế suất. “Tại sao ngành may gia công xuất khẩu không được hưởng thuế suất 0%”. Trước đây thuế doanh thu đối với hoạt động uỷ thác gia công xuất khẩu hàng may mặc hoặc gia công chịu thuế suất 0%, khi áp dụng thuế GTGT, tổng cục thuế có công văn 1332 ngày 12/3/1999 cũng hướng dẫn hàng uỷ thác xuất khẩu được hưởng mức thuế suất 0% nhưng thực tế thì công văn trên chỉ nói đến uỷ thác xuất khẩu được hưởng mức thuế suất 0% mà không nói đến uỷ thác gia công xuất khẩu, nên các doanh nghiệp hàng may phải chịu thuế suất 10% gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Khắc phục tình trạng này Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ đã có quy định “Hàng hoá gia công chuyển tiếp, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài áp dụng thuế suất thuế GTGT 0%”. Để phù hợp và thống nhất với việc điều chỉnh khoản 22, 23 điều 4 đã nêu phần trên nên có bổ sung, sửa đổi là “áp dụng mức thuế suất 0% đối với hàng hoá xuất khẩu, bao gồm của hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt xuất khẩu: phần mềm máy tính xuất khẩu, sủa chữa máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải cho nước ngoài và dịch vụ xuất khẩu lao động” Điều chỉnh mức thuế suất từ 10% xuống 5% đối với hàng hoá dịch vụ là: sản phẩm luyện, cán, kéo, kim loại đen, kim loại mầu, kim loại quý, khuôn đúc các loại; máy vi tính, cụm linh kiện máy vi tính; vật liệu nổ, que hàn, đá mài, cao su sơ chế, ống thuỷ tinh trung tính, giấy in báo, bình bơm thuốc trừ sâu, chân tay giả… Đó là những sản phẩm thuộc tư liệu sản xuất ra các sản phẩm khác và một số sản phẩm mang tính chất thiết yếu như phương tiện dùng cho người tàn tật. 3. Về khấu trừ thuế Trước đây, trong luật thuế GTGT đã qui định cho khấu trừ thuế GTGT đầu vào từ 1%-5% đối với nông sản, thủy sản mua trực tiếp của người sản xuất, khai thác không có hoá đơn nhưng có bảng kê. Sau đó, Nghị định 102, Nghị định 78 của Chính phủ đã mở rộng cho khấu trừ đối với một số mặt hàng khác. Việc mở rộng diện khấu trừ thực chất là giảm số thuế GTGT phải nộp cho một số cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhưng trên thực tế đã phát sinh một số mâu thuẫn phức tạp trong thực hiện và không khuyến khích việc sử dụng hoá đơn chứng từ, phát sinh hiện tượng tiêu cực. Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ đã quy định cụ thể mức khấu trừ thuế đầu vào như sau: Trường hợp mua hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn bán hàng được khấu trừ theo tỷ lệ 3% tính trên giá trị hàng hoá, dịch vụ ghi trên hoá đơn. Đối với một số mặt hàng mua trực tiếp của người sản xuất, phế liệu mua của người thu gom không có hoá đơn mà chỉ có bảng kê thì được khấu trừ theo tỷ lệ 2% giá trị hàng hoá mua vào trên bảng kê và được áp dụng cho cả doanh nghiệp trong nước và xuất khẩu. 4. Hoàn thuế Để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trong kinh doanh ( khi tình hình bán ra bị ngưng trệ, doanh nghiệp gặp khó khăn do hàng bán bị xuống giá…) và đặc biệt khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá, tạo điều kiện cạnh tranh trên thị trường thế giới, chúng ta đã quy định việc hoàn thuế. Sau hơn 2 năm thực hiện Luật thuế GTGT , công tác hoàn thuế đã có một bước “nhảy vọt” nhờ những quy định hết sức thông thoáng trong thông tư 93/1999/TT - BTC do Bộ tài chính ban hành ngày 28/7/99 để hướng dẫn việc thực hiện hoàn thuế GTGT. Theo thống kê của Tổng cục thuế, chỉ tính riêng số thuế được hoàn của tháng 9/1999 ước bằng số thuế đã hoàn của trong 6 tháng đầu năm 1999 cộng lại. Đến hết năm 1999, số thuế được hoàn lên tới gần 1800 tỷ đồng. Việc thực hiện hoàn thuế GTGT đã thúc đẩy các doanh nghiệp tổ chức việc hạch toán kế toán được chính xác thuế GTGT đầu vào, đầu ra; doanh thu của từng loại hàng chịu thuế theo từng mức thuế suất và khi mua hàng hoá, cơ sở kinh doanh quan tâm hơn đến hoá đơn, chứng từ và các chi tiêu trên hoá đơn GTGT để hưởng quyền khấu trừ và hoàn thuế. Trong quá trình thực hiện luật thuế GTGT đã có nhiều kiến nghị về vấn đề hoàn thuế đó là công tác hoàn thuế quá chậm và quá nhiều thủ tục phiền hà của các chi cục thuế. Đã có ý kiến của nhiều doanh nghiệp cho rằng cơ quan thuế thu thuế rất nhanh nhưng hoàn thuế quá chậm và quá nhiều thủ tục rắc rối. Công ty mây tre đan xuất khẩu Việt nam (BAROTEX) phản ánh: “ Cơ quan thuế đã hai năm nay chưa hoàn trả hoặc khấu trừ thuế GTGT cho Công ty BAROTEX, với số thuế nợ đọng lên đến 1 tỷ 900 triệu đồng. Trong khi đó riêng doanh nghiệp đã phải hoàn tất trên 300 bộ hồ sơ xin hoàn thuế …”. Thực chất là trong thủ tục thực hiện hoàn thuế, quỹ hoàn thuế không ảnh hưởng gì đến ngân sách của cơ quan thuế địa phương nên không có lý do gì hoàn chậm thuế. Để giải quyết tình trạng trả chậm cho các doanh nghiệp, cơ quan thuế đã áp dụng phương pháp “hoàn thuế trước, kiểm tra sau” nếu phát hiện sai sót thì sử lý sau. Việc sửa đổi, bổ sung để Luật thuế GTGT thêm hoàn thiện có ý nghĩa rất quan trọng đối với các doanh nghiệp cũng như Nhà nước. Tuy đã có nhiều văn bản sửa đổi song Luật thuế này vẫn không thể tránh khỏi những tồn tại phát sinh trong quá trình thực hiện. II- Một số tồn tại cần khắc phục trong việc thực hiện Luật thuế GTGT và hướng hoàn thiện Luật thuế GTGT Thực tế cho thấy ngay cả các nước từ lâu đã áp dụng thuế GTGT và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn cũng đều phải trải qua những giai đoạn nhất định để hoàn thiện dần những qui định pháp lý về loại thuế này. Trong điều kiện Việt nam, áp dụng thuế GTGT là việc làm có tính chất đột phá trong tiến trình cải cách căn bản và lâu dài hệ thống thuế nên không thể tránh khỏi những bất cập ban đầu. Chúng ta cần biết nắm bắt và kế thừa những nguyên tắc chung cũng như những kinh nghiệm và xu hướng hoàn thiện thuế GTGT của thế giới để vận dụng vào tình hình cụ thể của đất nước. Những điểm căn bản cần phải nghiên cứu và thường xuyên hoàn thiện tập trung vào một số vấn đề sau: 1. Về phạm vi áp dụng Xác định đúng đắn và rõ ràng hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT và hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT là việc làm đầu tiên có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nó có quan hệ đến chính sách, quan điểm của Nhà nước đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Trên thực tế có thể tồn tại 2 loại đối tượng chịu thuế GTGT là đối tượng chịu thuế bắt buộc và đối tượng chịu thuế tự nguyện. Loại đối tượng chịu thuế bắt buộc trước hết bao gồm tất cả các trường hợp đáp ứng một cách tự nhiên các điều kiện phát sinh thuế GTGT. Đó là những điều kiện chung phổ biến nhất thể hiện bản chất của sắc thuế này: - Các nghiệp vụ nảy sinh từ hoạt động kinh tế: là việc giao hàng và cung ứng dịch vụ. - Các nghiệp vụ có thu tiền: được quan niệm là hoạt động có tồn tại đối khoản tương ứng (tiền, tài sản, dịch vụ) đổi lại từ người mua hàng hoá hoặc người hưởng dịch vụ, bất kể phần đó lớn hay nhỏ. Mặt khác cần phải có một mối liên hệ trực tiếp giữa dịch vụ đã cung cấp và khoản đối ứng đó. - Những nghiệp vụ do người đóng thuế GTGT thực hiện. Loại hoạt động chịu thuế bắt buộc còn là những hoạt động do những điều khoản riêng của Luật quy định phải chịu thuế GTGT: tự cung ứng hàng hoá, dịch vụ; các hoạt động có tính chất quốc tế, một số hoạt động về bất động sản… Bên cạnh các hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT, các nước còn có quy định các hàng hoá, dịch vụ không phải nộp thuế GTGT. Đó là các hoạt động có tính chất đặc biệt mà Nhà nước không đặt vấn đề điều tiết tiêu dùng. Về nguyên tắc, đối tượng không thuộc diện chịu thuế GTGT thì không được khấu trừ số thuế GTGT của các hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng cho hoạt động của mình. Xác định những hoạt động không thuộc diện chịu thuế cũng là một vấn đề hết sức phức tạp bởi vì không phải khi nào được miễn chịu thuế GTGT cũng có lợi. Trong những trường hợp nó gây bất lợi cho người được miễn cũng như những đối tượng liên quan. ảnh hưởng đó luôn bắt nguồn từ cơ chế khấu trừ thuế. Ta sẽ thấy điều này thông qua ví dụ minh hoạ sau: Giả sử trong một chu trình kinh tế có 3 giai đoạn: sản xuất, bán buôn, bán lẻ. Để đơn giản, giả định đối với người sản xuất không có thuế GTGT đầu vào, thuế suất thuế GTGT là 10%. Người sản xuất bán sản phẩm ra với giá chưa có thuế cho người bán buôn là 100đ, người bán buôn lại bán cho người bán lẻ với giá 140đ để có được tỷ lệ lợi nhuận gộp lại là 40%. Người bán lẻ bán cho người tiêu dùng với giá 210đ để đạt được tỷ lệ lợi nhuận gộp là 50% trên giá mua. - Trường hợp thứ nhất: không có miễn trừ thuế. Khâu Giá bán (không có thuế) Thuế GTGT đầu ra Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ trên giá mua Thuế GTGT phải nộp Sản xuất Bán buôn Bán lẻ 100 140 210 10 14 21 0 1

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35154.doc
Tài liệu liên quan