MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG: 3
I- LÝ LUẬN CỦA V.I.LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NHÀ NƯỚC. 3
1.Những cơ sở đi đến Chủ nghĩa tư bản Nhà nước 3
2.Lý luận về Chủ nghĩa tư bản Nhà nước của Lênin 5
2.1.Chính sách kinh tế mới 5
3.Sự cần thiết khách quan và lợi ích của Chủ nghĩa tư bản Nhà nước 8
4.Những điều kiện để áp dụng thành công Chủ nghĩa tư bản Nhà nước 14
5.Những hình thức của Chủ nghĩa tư bản Nhà nước được Lênin vận dụng 15
6.Những kết quả thực tiễn của Chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở nước Nga 19
II- SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN CỦA LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NHÀ NƯỚC VÀO VIỆT NAM. 21
1. Sự cần thiết áp dụng Chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở Việt Nam 22
2.Những thuận lợi của chúng ta trong sử dụng Chủ nghĩa tư bản Nhà nước 24
3.Những khó khăn của chúng ta để sử dụng thành công Chủ nghĩa tư bản Nhà nước 26
4.Những hình thức của Chủ nghĩa tư bản Nhà nước được sử dụng ở Việt Nam 28
4.1 Những quan điểm chiến lược thống nhất 28
4.2. Các hình thức của Chủ nghĩa Tư bản Nhà nước ở Việt Nam hiện nay. 32
4.2.1. Hình thức liên doanh liên kết giữa Nhà nước với kinh tế tư nhân trong nước. 32
4.2. 2. Hình thức liên doanh với nước ngoài. 34
4.2.3. Hình thức tô nhượng. 36
4.2.4. Hình thức cho thuê. 38
4.2.5. Hình thức gia công đặt hàng. 38
4.2.6. Hình thức đại lý. 39
5.Tiếp tục mở rộng các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước: 40
5.1. Những điều kiện đảm bảo thành công của việc mở rộng và phát triển các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước: 40
5.2. Những biện pháp để tiếp tục mở rộng kinh tế tư bản Nhà nước 42
PHẦN KẾT LUẬN 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO 46
47 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1587 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Lý luận của Lênin về Chủ nghĩa Tư bản Nhà nước ở trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội và sự vận dụng lý luận đó ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ượng phảI bán thêm cho chính quyền Xô viết (nếu có yêu cầu ) từ 50% đến 1005 số lượng sản phẩm tiêu dùng cho các công nhân ở xí nghiệp tô nhượng cũng với giá bán như trên, làm như vậy để cảI thiện đời sống công nhân.
- Hình thức trả lương cho công nhân được qui định tuỳ từng hợp đồng. Về phương diện hình thức trả lương, nhà nước Xô Viết không hề trói buộc các nhà tư bản. Vấn đề đối với nhà nước là phảI biết thích ứng với các đIũu kiện sao cho có thể đấu tranh được với họ để cảI thiện đời sống của công nhân.
- Điều kiện về thuê mướn, về sinh hoạt vật chất, về trả lương cho các công nhân lành nghề và nhân viên người nước ngoài được qui định theo sự thoả thuận tự do giữa người nhận tô nhượng với những loại công nhân viên nói trên. Công Đoàn không có quyền đòi áp dụng những mức lương của Nga cũng như các luật lệ của Nga về thuê mướn nhân công đối với những công nhân đó. Đối với những công nhân Nga – chuyên gia có trình độ cao, nếu các xí nghiệp tô nhượng muốn mời thì phảI được sự đồng ý của các cơ quan chính quyền trung ương. Tinh thần chung là không để các các chuyên gia ưu tú nhất làm việc ở các xí nghiệp tô nhượng. Tuy không cấm hoàn toàn nhưng việc thi hành hợp đồng phảI được giám sát từ trên xuống và từ dưới lên.
- Phải tôn trọng pháp luật của nước Nga. Chẳng hạn như các đạo luật về đIũu kiện lao động , về kì hạn phát lương….Đặc biệt là: ngoàI những hàng tiêu dùng và những thiết bị máy móc nhập vào cho xí nghiệp tô nhượng, người nhận tô nhượng còn phảI nhập thêm cho ta, ví dụ 25% số cần thiết và bán lạI cho ta với giá thoả thuận.
- Phải nghiêm chỉnh tuân theo những qui tắc khoa học và kỹ thuật phù hợp với pháp luật của nước Nga và của nước ngoài. ĐIũu này phảI được qui định tỉ mỉ trong các hợp đồng, bởi vì đặc trưng copư bản của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là ở chỗ nó không có khả năng chăm lo tới việc sử dụng đất đai và sức lao động một cách khoa học và đúng đắn. Những qui tắc khoa học và kỹ thuật là biện pháp đấu tranh chống hiện tượng đó.
Hình thức thứ hai được áp dụng thời Lênin là hợp tác xã. Thoạt đầu Lênin quan niệm hợp tác xã là một hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Sau đó trong một tác phẩm người lại viết "cần phải viện đến một cái gần giống như chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Tôi muốn nói đến chế độ hợp tác xã" tiếp theo ngay sau đó Lênin lại nói "thường thường trong hoàn cảnh nước ta chế độ hợp tác xã là hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa xã hội". Trong các ý kiến của Lênin thì hợp tác xã dần càng khác nhau. Điều này là do những thời điểm lịch sử khác nhau. Ban đầu Lênin coi hợp tác xã là một "hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước nhưng ít đơn gian hơn, có hình thù ít rõ rệt hơn, phức tạp hơn và vì thế trong thực tế nó đặt chính quyền Xô Viết trước những khó khăn lớn hơn". Sau này từ thực tiễn nước Nga Lênin đã phân biệt hai chế độ hợp tác xã tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Chế độ hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ Xô Viết được coi là một hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Chế độ hợp tác xã theo kiểu thứ nhất là sự kết hợp những xí nghiệp tư bản tư nhân với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống, đây là một bước chuyển từ hình thái đại sản xuất này sang hình thái đại sản xuất khác. Trong một nước tư bản chủ nghĩa hợp tác xã là những tổ chức tư bản tập thể. Còn trong điều kiện kinh tế mới tức chính quyền Xô Viết hình thành kiểu xí nghiệp hợp tác xã, đây là sự kết hợp những xí nghiệp tư bản tư nhân (xây dựng trên đất đai thuộc về xã hội) với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống. Còn một con đường khác là con đường của chủ nghĩa tư bản hợp tác xã. Đây là tổ chức bao gồm hàng ngàn thậm chí hàng triệu tiểu nghiệp chủ, nó là nước chuyển tư nền tiểu sản xuất sang đại sản xuất. Lênin quan niệm về sau là con đường theo chế độ này hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa xã hội.
Hình thức thứ ba là hình thức đại lý uỷ thác. "Nhà nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách một nhà buôn trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của Nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ.
Hình thức thứ tư là Nhà nước cho tư bản thuê những xí nghiệp, vùng mỏ, vùng đất... hình thức này phân biệt với tô nhượng ở chỗ đối tượng thuê là tư bản trong nước.
Hình thức thứ năm là cho nông dân thuê những hầm mỏ nhỏ . Đây cũng là kiểu cho thuê nhượng đối tượng thuê - theo cách nói của Lênin là các tiểu tư bản. Qua thực tiễn vùng mỏ Đôn Bát, Lênin rút ra một hình thức nữa của chủ nghĩa tư bản nhà nước: cho nông dân thuê những hầm mỏ nhỏ. Qua việc làm này, Lênin rút ra hai kết luận-một hiện tượng ngược đời: chính ở những hầm mỏ nhỏ cho nông dân thuê, sản xuất lại đặc biệt phát triển hơn là những xí nghiệp lớn nhất trước kia là của tư bản, ngang hầnh với các xí nghiệp tư bản ở Tây Âu. Những quan hệ của chủ nghĩa tư bản nhà nước được phát triển. Những nông dân hoạt động theo kiểu nộp tô cho nhà nước
Hình thức thứ sáu là Công ty hợp doanh. Hình thức này tồn tại trong lĩnh vực thương nghiệp, nó được thành lập theo thể thức chính quyền Xô Viết tư bản trong và ngoài nước cùng góp vốn.
Trên đây là một số hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước được thực hiện dưới thời của Lênin. Sự thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở thời Lênin đã mang lại những kết quả to lớn cả về mặt thực tiễn cũng như mặt lý luận.
6.Những kết quả thực tiễn của Chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở nước Nga
Sau khoảng hơn một năm thực hành đến tháng 11/1922, Lênin đã trình bày khái quát những thành tựu của chính sách kinh tế mới nói chung và chủ nghĩa tư bản Nhà nước nói riêng như sau:
Về hình thức giai cấp nông dân, từ hình thức đói kém và một số nông dân bất mãn với chế độ cộng sản thời chiến thì đến lúc này nông dân đã thoát khỏi nạn đói và còn nộp thuế lương thực hàng trăm triệu put.
Đời sống công nhân được cải thiện, công nhân không còn bất bình nữa. Công nghiệp nhẹ được phát triển, công nghiệp năng gặp phải nhiều khó khăn khi áp dụng hình thức tô nhượng do các nước đế quốc giàu có vẫn muốn bóp chết nước xã hội chủ nghĩa non trẻ nên không có những khoản vay lớn được. Tuy nhiên nhờ có chính sách kinh tế mới mà đã thu được một số vốn lớn hơn 20 triệu put vàng để cứu vãn công nghiệp nặng.
Qua các tài liệu tự đánh giá về chính sách chủ nghĩa tư bản Nhà nước cho đến năm 1924, nhìn chung là mang lại những đóng góp tích cực, làm sống động nền kinh tế nước Nga Xô Viết. Hình thức tô nhượng với nước ngoài đã đem lại nhiều kết quả cao. Nhiều ngành công nghiệp quan trọng đã phát triển, kỹ thuật, thiết bị hiện đại được đưa vào sản xuất cùng kinh nghiệm quản lý tiên tiến đã mang lại hiệu quả sản xuất cao. Nguồn ngoại tệ đất nước được tăng thêm, ngoại thương với các nước Phương Tây được phát triển .Thông qua hoạt động của các Công ty hợp doanh mà những người cộng sản Nga đã thực sự học được cách buôn bán. Hoạt động của các xí nghiệp cho thuê, các xí nghiệp hồn hợp đã giúp nước Nga Xô Viết duy trì được hoạt động bình thường ở các cơ sở kinh tế, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, việc làm cho người lao động. Hình thức đại lý và các hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong các lĩnh vực sản xuất, tín dụng và tiêu thụ đã góp phần hỗ trợ thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh quá trình trao đổi và lưu thông hàng hoá tiền tệ, làm sống động nền sản xuất hàng hoá nhỏ, qua đó cải biến những người tiểu nông, nối liền quan hệ công -nông nghiệp, thành thị-nông thôn.
So với mục tiêu đã đặt ra thì những kết quả thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước dưới thời Lênin vẫn còn thấp. Ví như trong những năm 1923-1924 (năm cuối cùng của Lênin) tỷ trọng của thành phần kinh tế tư bản Nhà nước chỉ chiếm 1% tổng sản phẩm cả nước. Năm 1923, các xí nghiệp tô nhượng mới chỉ sản xuất được khối lượng sản phẩm trị giá 35,1triệu rúp. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng quan trọng nhất là chủ nghĩa đế quốc vẫn tìm mọi cách bóp chế Nhà nước Xô Viết nền đầu tư hợp tác không đạt kết quả như mong muốn.
Tuy nhiên kết quả quan trọng nhất đó là chủ nghĩa tư bản thực sự đã trở thành một phần đặc trưng của chính sách "kinh tế mới" và nhờ có chính sách "kinh tế mới" mà chính quyền Xô Viết vẫn giữ được vị trí vững chắc trong nông nghiệp và công nghiệp và có khả năng để tiếp tục đưa nền kinh tế nước Nga tiến lên.
Tổng kết lại chúng ta thấy : Nguyên tắc cơ bản của chính sách kinh tế mới là lợi dụng thị trường, lợi dụng thương nghiệp, lưu thông tiền tệ để kiến thiết chủ nghĩa xã hội. Chính sách đó đảm bảo cho việc kết hợp giữa công nghiệp xã hội chủ nghĩa và tập thể hoá nông nghiệp ở Nga được thành công.
Kết luận
Ta đã nghiên cứu những lý luận cơ bản của V.I.Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước, và những biện pháp thực hành cụ thể ở Nước Nga Xô Viết. Từ thực tế những thành công ở Nước Nga chúng ta cũng thấy được con đường đúng đắn để đi qua giai đoạn quá độ với nhiều vấn đề và nhiều mâu thuẫn. Lý luận của Lênin thông qua đó còn đánh đổ những tư tưởng sai lầm, và những luận điểm tiêu cực của những kẻ chống phá cách mạng.
Chính sách kinh tế mới của Lênin có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, trước hết nó khôi phục được nền kinh tế sau chiến tranh. Từ đó nó khắc phục khủng hoảng chính trị, củng cố lòng tin cho nhân dân vào sự thắng lợi tất yếu và bản chất tốt đẹp của CNXH theo những nguyên lý mà Lênin vạch ra.
Chính sách kinh tế mới của Lênin đánh dấu một bước phát triển mới về lý thuyết nền kinh tế XHCN. Theo tư tưởng này, nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ, việc duy trì và phát triển quan hệ hành hoá - tiền tệ, quan tâm tới lợi ích kinh tế cá nhân trước hết là của nông dân là những vấn đề có tính nguyên tắc trong việc xây dựng mô hình kinh tế XHCN.
Chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với các nước phát triển theo định hướng XHCN, trong đó có Việt Nam.
Lý luận của Người là di sản quí báu mà Người để lại cho chúng ta, nhiệm vụ của nước ta là phải vận dụng, phát triển lý luận đó vào thực tiễn nước nhà như thế nào? Bây giờ chúng ta xem xét sự vận dụng chủ nghĩa tư Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
II- Sự vận dụng lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước vào Việt Nam.
Những lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước có một ý nghĩa vô cùng quan trọng cho những nước đi lên chủ nghĩa xã hội muốn bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản. Nhưng lý luận của Người cần được vận dụng một cách hợp lý vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Không thể đưa nguyên xi vào mô hình chủ nghĩa tư bản Nhà nước đã được áp dụng ở Liên Xô vào áp dụng ở một môi trường, ở một quốc gia khác được. Thực tế đã chứng minh khi các nước Đông Âu xây dựng chủ nghĩa xã hội đã sao chép mô hình của Liên Xô và kết quả là khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô sụp đổ thì kéo theo sự sụp đổ ở các nước này và hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới không còn.
Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước phải được lấy làm cơ sở để từ đó mỗi nước có sự ứng biến linh hoạt khi áp dụng. Luận điểm quan trọng nhất làm cơ sở xuất phát để nghiên cứu đó là: Việc chuyển sang chủ nghĩa xã hội cần thiết phải có một loạt nhữg bước quá độ như chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Điều này ta đã xem xét ở phần trước.
1. Sự cần thiết áp dụng Chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở Việt Nam
Thực tiễn của công cuộc đổi mới được tiến hành ở Việt Nam trong những năm qua đã chứng minh rằng trong bối cảnh quốc tế hiện thời, Việt Nam không có điều kiện để bỏ qua hoàn toàn chủ nghĩa tư bản để quá độ trực tiến lên chủ nghĩa xã hội mà chỉ có khả năng rút ngắn giai đoạn phát triển đó, phương pháp rút ngắn là phải sử dụng chủ nghĩa tư bản. Đảng cộng sản Việt Nam chủ trương trong quá trình đổi mới là phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường cho phép tự do buôn bán trao đổi hàng hoá, chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài, góp vốn hợp tác, liên doanh với tư bản nước ngoài, phát triển doanh nghiệp tư nhân ... Điều này tất yếu dẫn đến sự phục hồi chủ chủ nghĩa tư bản. Nhưng như Lê nin đã khẳng định rằng không phải thủ tiêu nó mà tìm cách hướng nó vào chủ nghĩa tư bản Nhà nước, đó là biện pháp hữu hiệu nhất. Một thực tế có thể nhận thấy ngay là nước ta chưa có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội dựa trên lực lượng sản xuất phát triển cao. Nước ta muốn xây dựng được chủ nghĩa xã hội phải tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất nhưng nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất còn nhỏ lẻ nên phải đi bằng con đường gián tiếp, phải sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước để hạn chế tính tự phát trong sản xuất và chiến lược phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong thời kỳ quá độ không thể không phát triển kinh tế tư bản Nhà nước, lực lượng sản xuất của nước ta còn hết sức lạc hậu. Muốn có cơ sở vật chất kỹ thuật cho bước quá độ thì phải mau chóng công nghiệp hoá để hiện đại lực lượng sản xuất. Dưới góc nhìn của lịch sử công nghiệp hoá là nhiệm vụ của chủ nghĩa tư bản. Nhưng Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà không qua chủ nghĩa tư bản để giảm bớt những đau thương có thể xảy ra. Để sự lựa chọn này thành công và đồng thời để có thể tiến hành công nghiệp hoá mau chóng thì buộc phải sử dụng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đặt dưới sự kiểm kê kiểm soát của Nhà nước chuyên chính vô sản và để hiện đại hoá lực lượng sản xuất, phải gắn công nghiệp hoá, hiện đại hóa với việc sử dụng rộng rãi các hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Dưới hình thức tư bản Nhà nước chẳng những Việt Nam thu hút được tư bản nước ngoài mà còn thu hút được tư bản trong nước bằng cách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, hùn vốn liên doanh để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển hơn nữa. Nhờ đó có thể thu hút vốn và hiện đại hoá công nghệ và năng lực quản lý của các nhà đầu tư tư nhân, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, nhờ đó ta có thể huy động tối đa mọi tiềm năng, tận dụng mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như cho các chương trình khác.
Từ Đại hội VI của Đảng ta đã quyết định chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nền kinh tế thị trường phải chấp nhận các quy luật của thị trường. Có mua bán, trao đổi tất yếu sẽ đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Quan hệ chủ nghĩa tư bản tồn tại và phát triển thì tất yếu sẽ có tính tự phát của nó.. Để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa thì nhất thiết phải hướng các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Phải dung nạp chủ nghĩa tư bản trong và ngoài nước dưới sự kiểm soát và hướng dẫn của Nhà nước. Nếu không cho tư bản tư nhân theo con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước chẳng những chúng ta không hướng nó theo xã hội chủ nghĩa mà đôi khi còn làm nó đi lệch lạc sang chủ nghĩa tư bản. Sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước ta sẽ nâng cao trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất, đồng thời sử dụng được những thành tựu về khoa học và kinh tế của nhân loại vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Để phát triển kinh tế thì nước ta không thể không hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong điều kiện hiện nay, khi mà chủ nghĩa tư bản đang tạm thời thắng thế, muốn các nước này chấp nhận hội nhập với nước ta là một vấn đề nan giải vì giữa hai bên có bản chất chế độ chính trị khác nhau, nước ta muốn hội nhập được chỉ có thể bằng con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước không những để cho các nước tư bản chấp nhận quan hệ với nước ta và ta có thể lợi dụng được những cái tiến bộ của họ mà còn giúp cho chúng ta huy động được những lợi thế cho quá trình hội nhập.
Một sự cần thiết nữa để áp dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước vào nước ta là để đạt mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Muốn cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh thì phải có một quá trình phát triển bền vững. Chính chủ nghĩa tư bản Nhà nước là cứu cánh giúp cho đất nước được những thành tựu trong thời gian qua khi mà nước ta đang mắc phải hai khó khăn thiếu thốn và trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu.
Đồng thời trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả của thành phần kinh tế tư bản Nhà nước trong nền kinh tế kế hoạch hoá nhiều thành phần chẳng những giúp chúng ta đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, rút ngắn quá trình khắc phục tình trạng tụt hậu mà còn tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và góp phần cải thiện đời sống cho họ.
Với tất cả những lý do trên thì có thể nói hiện nay Việt Nam không thể không vận dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước để hoàn thành thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên cũng cần phải nhấn mạnh một điều là không nên tuyệt đối hoá vai trò của kinh tế tư bản Nhà nước, xem nó là cứu cánh duy nhất cho thời kỳ quá độ, phải lấy kinh tế Nhà nước làm chủ đạo, phát triển kinh tế hợp tác xã, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế này dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
2.Những thuận lợi của chúng ta trong sử dụng Chủ nghĩa tư bản Nhà nước
Học thuyết về kinh tế tư bản Nhà nước của Lênin là lý luận cho đường lối của thời kỳ quá độ của các nước tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội. Học thuyết đó cần được vận dụng linh hoạt cho các điều kiện hoàn cảnh cụ thể khác nhau. Nước ta có những thuận lợi lớn để sử dụng được thành công chủ nghĩa tư bản Nhà nước.
Trước hết là những thuận lợi thuộc về yếu tố chủ quan. Một đảm bảo quan trọng nhất đó là sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam-đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trải qua một quá trình đấu tranh gian khổ và lâu dài, Đảng ta đã trở thành người lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của nước nhà. Đảng đại diện cho ý chí quyền lợi của giai cấp công nhân và đoàn thể nhân dân lao động. Có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng mới có thể dung nạp được chủ nghĩa tư bản, đảm bảo chủ nghĩa tư bản không gây tác hại cho quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của nước nhà. Toàn thể nhân dân một lòng theo Đảng là nguồn sức mạnh lớn lao để đi đến thành công. Sức mạnh của toàn dân tộc được phát huy dưới sự chỉ đạo của Đảng có thể vượt qua mọi trở ngại để đi đến thành công.
Thuận lợi chủ quan thứ hai là những yếu tố nguồn lực, gồm hai nguồn lực quan trọng nhất là tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động xã hội. Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, nằm ở trung tâm khu vực kinh tế được đánh giá là năng động nhất thế giới, có điều kiện quan hệ với các nước trên thế giới cũng như hội nhập cùng nền kinh tế thế giới. Là nước nhiệt đới gió mùa thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp, lâm nghiệp và hải thủy sản đa dạng. Đặc biệt nước ta có nguồn tài nguyên nhiên liệu, khoáng sản phong phú, là một thị trường hấp dẫn để thu hút đầu tư nước ngoài... tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Việt Nam cũng có một nguồn lao động dồi dào với giá lao động rẻ khiến các nhà đầu tư nước ngoài chú ý đến.
Những nguyên nhân khách quan chính là những nét đặc trưng của thời đại ngày nay. Đó là sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang tạo ra một lực lượng sản xuất mới có tính chất và trình độ cao hơn rất nhiều so với lực lượng sản xuất cũ. Các nước trên thế giới ngày càng phụ thuộc nhau hơn do trình độ xã hội hoá mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Điều này cho phép chúng ta có thể áp dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật và công nghệ phục vụ cho sự phát triển nước nhà. Và chính chủ nghĩa tư bản Nhà nước là công cụ để ta có thể có được những thành tựu đó. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra cho đất nước ta cả những thách thức bên cạnh những thời cơ. Nếu như không nắm bắt được với nhịp độ phát triển của nó thì nước ta có thể bị tụt hậu lại so với thế giới. Một đặc trưng khác nữa của thời đại ngày nay là xu thế đối thoại và hợp tác hoá. Đất nước ta có điều kiện cho việc bình thường hoá quan hệ với các nước trước đây vốn là thù địch, thuận lợi cho việc du nhập chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài, từ các nước tư bản phát triển. Tuy nhiên trong quá trình hợp tác quan hệ, ta phải luôn cảnh giác với âm mưu "diễn biến hoà bình" , dã tâm của các nước đế quốc vẫn không thay đổi.
Tóm lại, trong đIều kiện hiện tạI Việt Nam có nhiều những mặt mạnh trong thu hút tư bản nước ngoài. Cái mà chủ nghĩa tư bản thế giới cần là sự chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường thì chúng ta đã bắt đầu.Về khách quan, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường là cáI quan trọng nhất quyết định xu hướng hoà nhập của nền kinh tế thế giới, quyết định triển vọng phát triển của nền kinh tế nước ta. Công cuộc đổi mới của chúng ta đã thu được những thành tựu ban đầu rất quan trọng. Nhà nước ta đã thiết lập được nhiều mối quan hệ kinh tế với bên ngoàI và đã có những chính sách kinh tế đối ngoạI được nước ngoàI đánh giá klà rộng mở và thức thời. Nước ta cũng có một số tàI nguyên quí giá, là một thị trường không phảI nhỏ. Đặc biệt là sự ổn định chính trị là cáI mà nước ngoàI có thể tin cậy để đầu tư lâu dài.
Đó là những điều kiện mà nước ta có được trong thời đại ngày nay, thuận lợi hơn rất nhiều so với thời Lênin. Hay nói cách khác đây chính là tính hiện thực của những khả năng. Tuy nhiên trong tính hiện thực đó thì nước ta còn tồn tại nhiều khó khăn, thách thức.
3.Những khó khăn của chúng ta để sử dụng thành công Chủ nghĩa tư bản Nhà nước
Trước hết, một thực tế là nước ta đang là một nước nghèo, có thu nhập quốc dân tính trên đầu người đứng vào hàng những nước thấp nhất thế giới. Nhiệm vụ phát triển kinh tế là rất nặng nề, trình độ khoa học kỹ thuật còn kém xa với các nước tư bản phát triển. Nước ta còn rất thiếu đội ngũ tri thức cũng như đội ngũ kinh doanh hiện đại. Đó là do chúng ta xuất phát từ một nền kinh tế chủ yếu là tự nhiên, tự cung tự cấp, hiện vật.Do vậy, cáI thiếu thốn nhất và từ đó gây nhiều khó khăn nhất trong quản lí nền kinh tế nói chung , quản lí sự hồi sinh, dung nạp chủ nghĩa tư bản nói riêng là chưa có thói quen làm ăn theo kiểu buôn bán, thiếu tri thức. Toàn thế giới đang lao vào cuộc chạy đua vào những ngành công nghệ cao, kỹ thuật cao, nên hố sâu ngăn cách về đội ngũ khoa học, kỹ thuật là vấn đề khó khăn của chúng ta trong hội nhập kinh tế. Những khó khăn này ảnh hưởng lớn đến việc du nhập chủ nghĩa tư bản. Bên cạnh đó, sự chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước của các thế lực phản động trong và ngoài nước cũng là một trở ngại lớn. Chúng mưu toan thực hiện “diễn biến hoà bình” và hướng công cuộc đổi mới của chúng ta đI chệch khỏi con đường xã hội chủ nghĩa. NgoàI ra, những mặt tráI của quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước là những vấn đề xã hội hết sức phức tạp, đến mức có thể gây ra những bất bình của cả một tầng lớp đan cư nào đó trước sự dung nạp, du nhập chủ nghĩa tư bản. Chúng ta luôn phảicân nhắc cẩn thận , xem xét hậu quả, cáigiá phải trả cho những vấn đề này.
Nhìn chung lại, việc thực hành chủ nghĩa Nhà nước ở nước ta có cả những khó khăn cũng như những thuận lợi. Những khó khăn là không nhỏ và chúng ta cũng phải xác định là sẵn sàng trả giá để phát triển. Vấn đề là làm sao cho cái giá phải trả là nhẹ nhất. Phải có những bước đi khôn ngoan để vượt qua được những khó khăn và tận dụng tối đa những thuận lợi để vận dụng thành công chủ nghĩa tư bản Nhà nước phục vụ cho công cuộc tiến lên xã hội chủ nghĩa thành công.
Sử dụng kinh tế tư bản Nhà nước là một trong những điều kiện quyết định thành công cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định "kinh tế tư bản Nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước và tư bản, tư nhân trong và ngoài nước. Kinh tế tư bản Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý.... của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ, cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước..."
4.Những hình thức của Chủ nghĩa tư bản Nhà nước được sử dụng ở Việt Nam
4.1 Những quan điểm chiến lược thống nhất
- Phát triển và xây dựng một thị trường văn minh:
ý tưởng về Chủ nghĩa tư bản Nhà nước với tư cách là một bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt nguồn từ nhận thức rằng không thể trực tiếp chuyển lên chủ nghĩa cộng sản từ một nước chưa tạo được nền móng kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà phải thông qua con đường gián tiếp - qua trap đổi hàng hóa - như Lênin nói. Tự do trao đổi được coi là chiếc "đòn xeo chủ yếu của chính sách kinh tế mới","chiếc gậy chống" để đứng lên. Trải qua rất nhiều năm, có thể nói từ thời Lênin và sau khi Lênin mất đến nay cuộc tranh luận vẫn kéo dài xung quanh vấn đề về tính chất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa : hàng hóa hay phi hàng hóa. Quan điểm tính chất phi hàng hóa đã ngự trị suốt mấy chục năm, đó là một sai lầm nghiêm trọng . Ngày nay đã có sự thống nhất về tính chất hàng hóa của nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ; về xu hướng toàn cầu hóa của nền kinh tế hàng hóa. Cũng đã có sự thống nhất về cơ bản rằng cần phải xây dựng một nênf kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, rằng quyền lực của thị trường hạn chế được tối đa quyền hành quan liêu, nhưng bản thân nó chỉ có thể hoạt động trong khuôn khổ pháp luật được con đường chính trị thiết lập và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28042.doc