MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu .
1
Phần A . Lý thuyết chung về thuế . 2
I. Một số vấn đề cơ bản về thuế
1. 1. Khái niệm. .
2. 2. Phân loại
3. 3. Các yếu tố cấu thành một luật thuế . 2
2
2
2
II. Tính tất yếu của việc áp dụng hệ thống thuế ở Việt Nam . 4
1.Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước.
3. 2.Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế và đời sống xã hội . .
4. 3. Thuế góp phần thực hiện sự bình đẳng, điều hoà thu nhập đảm bảo công bằng xã hội 4
Phần B . Xu hướng cải cách thuế trên thế giới và một số biện pháp,
Kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống thuế ở Việt Nam .
7
I. Hệ thống thuế ở Việt Nam hiện nay
1.Thuế giá trị gia tăng. .
2.Thuế tiêu thụ đặc biệt
3.Thuế thu nhập doanh nghiệp .
4.Thuế xuất nhập khẩu .
5. Một số Luật thuế cơ bản khác
II. Tính tất yếu của việc áp dụng hệ thống thuế ở Việt Nam
1. Vai trò của hệ thống thuế ở nước ta hiện nay
2 .Những tồn tại và hạn chế trong hệ thống thuế ở Việt Nam. 7
30 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2116 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giảm thuế tiêu thụ đặc biệt. Mức giảm được tính theo tỷ lệ phần trăm thiệt hại về tài sản, nhưng không quá 50% số thuế phải nộp và số tiền thuế được giảm không quá 30% giá trị tài sản bị thiệt hại. Thời gian giảm thuế không quá 3 tháng kể từ sau thời điểm xảy ra thiệt hại và có xuất hàng.
- Cơ sở sản xuất mới thành lập hoặc cơ sở mở rộng sản xuất, áp dụng công nghệ sản xuất mới nếu nộp đủ thuế tiêu thụ đặc biệt mà bị lỗ được xét giảm thuế theo từng năm. Mức giảm thuế tương ứng với só lỗ của từng năm nhưng không quá 30% số thuế phải nộp của năm đó. Thời gian được xét giảm thuế không quá hai năm.
Đối với những cơ sở sản xuất quy mô nhỏ nếu khả năng không nộp đủ được theo mức quy định thì Bộ Tài Chính căn cứ vào tình hình thực tế quyết định mức và thời gian miễn thuế cho từng trường hợp cụ thể.
3.Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thuế thu nhập doanh nghiệp là thuế đánh vào thu nhập của các tổ chức cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Theo quy định tại Điều 33 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, thì Luật thuế TNDN có hiệu lực thi hành và thay thế Luật thuế lợi tức từ ngày 01/01/1999. Thuế TNDN là thuế trực thu.
Pham vi áp dụng:
Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 1 Luật thuế TNDN là tổ chức cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập.
Đối tượng không thuộc diện nộp thuế TNDN được quy định tại Điều 2 của Luật thuế TNDN gồm: Hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác v.v…
Căn cứ tính thuế TNDN là thu nhập chịu thuế và thuế suất.
- Thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và thu nhập khác như thu nhập thu được từ hoạt động kinh doanh ở nước ngoài của đối tượng nộp thuế. Thu nhập chịu thuế từ hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ bằng doanh thu trừ các khoản chi phí hợp lý có liên quan đến thu nhập chịu thuế.
- Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 10 Luật thuế TNDN là thuế suất tỷ lệ (%) áp dụng cho các nhóm đối tượng cụ thể.
Thời hạn thu, nộp thuế TNDN được quy định trong luật có tính đến quy mô và tính chất kinh doanh của các hoạt động kinh doanh có thu nhập thuộc diện chịu thuế. Điều 13 Luật thuế TNDN quy định cụ thể thời hạn nộp thuế đối với từng loại đối tượng. Chế độ quyết toán thuế tính theo năm dương lịch hoặc theo năm tài chính do cơ quan có thẩm quyền quyết định.
Ngoài các quy định về thời hạn và nội dung thực hiện chế độ quyết toán thuế, Luật thuế TNDN còn có các quy định về quyết toán thuế trong trường hợp cơ sở kinh doanh sát nhập, chia tách, giải thể, phá sản.
Chế độ miễn, giảm thuế: Luật thuế thuế thu nhập doanh nghiệp có các quy định miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng theo từng nhóm đối tượng được miễn, giảm thuế (Điều 17, 18, 19, 20, 21).
4. Thuế xuất, nhập khẩu.
Thuế xuất nhập khẩu là thuế thu đối với hàng hoá xuất nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới nước mình. Luật thuế xuất nhập khẩu hiện hành được quốc hội thông qua ngày 26/12/1991 và sửa đổi bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế xuất nhập khẩu được quốc hội thông qua ngày 5/7/1993.
Đối tượng điều chỉnh của thuế xuất nhập khẩu là quan hệ thu nộp thuế xuất nhập khẩu giữa nhà nước với các tổ chức và cá nhân có hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu , biên giới Việt Nam , kể cả hàng hoá từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước. Theo qui định của luật thuế xuất nhập khẩu hiện hành thuế xuất nhập khẩu là thuế gián thu.
Phạm vi áp dụng của thuế xuất nhập khẩu :
Đối tượng nộp thuế xuất nhập khẩu là các tổ chức và cá nhân có hàng hoá được phép xuất, nhập khẩu thuộc diện chịu thuế. Đối tượng nộp thuế xuất nhập khẩu có thể là tổ chức, cá nhân trong nước thuộc mọi thành phần kinh tế và cũng có thể là cá nhân, tổ chức nước ngoài.
Hàng hoá thuộc diện chịu thuế xuất nhập khẩu phải là hàng hoá được phép xuất, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam , kể cả hàng hoá từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất hoặc từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước.
Đối với các hàng hoá xuất, nhập khẩu trái phép, hàng hoá cấm xuất, nhập khẩu không thuộc phạm vi áp dụng luật thuế xuất nhập khẩu mà xử lý bằng các biện pháp cưỡng chế hành chính, tư pháp theo qui định của pháp luật.
Căn cứ tính thuế xuất nhập khẩu.
Theo điều 6 Luật thuế xuất nhập khẩu căn cứ tính thuế xuất nhập khẩu bao gồm: Số lượng từng mặt hàng ghi trong tờ khai hàng xuất, nhập khẩu; Giá tính thuế; Thuế suất của mặt hàng chịu thuế quy định trong biểu thuế.
Giá tính thuế xuất nhập khẩu được áp dụng theo từng trường hợp hàng xuất, nhập khẩu theo những phương thức khác nhau.
Biểu thuế xuất nhập khẩu bao gồm các thuế suất tỷ lệ (%) áp dụng cho từng mặt hàng xuất, nhập khẩu. Thuế suất áp dụng để tính thuế đối với hàng xuất, nhập khẩu gồm thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi.
- Thuế suất thông thường là thuế suất được quy định tại biểu thuế.
- Thuế suất ưu đãi được quy định bằng 70% thuế suất thông thường được áp dụng đối với hàng xuất, nhập khẩu với những nước có ký kết điều khoả ưu đãi trong quan hệ buôn bán với Việt Nam hoặc trong những trường hợp do chính phủ quyết định.
Thời hạn thu, nộp thuế xuất, nhập khẩu.
Điều 17 Luật thuế xuất nhập khẩu quy định cụ thể thời hạn đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ kê khai và nộp thuế, riêng đối với hàng thuế xuất nhập khẩu phi mậu dịch và tiểu ngạch biên giới đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ nộp thuế xuất nhập khẩu ngay khi xuất khẩu hàng ra nước ngoài hoặc nhập hàng vào Việt Nam.
Chế độ miễn, giảm, hoàn lại thuế xuất nhập khẩu.
Hàng xuất, nhập khẩu được miễn thuế xuất nhập khẩu trong các trường hợp quy định trong Điều 10 Luật thuế xuất nhập khẩu. Ngoài ra Điều 11 Luật thuế xuất nhập khẩu còn quy định các trường hợp được xét miễn thuế đối với một số hàng hoá ví dụ như hàng nhập khẩu chuyên dùng cho an ninh quốc phòng, nghiên cứ khoa học và giáo dục, đào tạo v.v..
Điều 12 Luật thuế xuất nhập khẩu quy định được xét giảm thuế trong trường hợp hàng hoá trong quá trình vận chuyển, bốc xếp bị hư hỏng, mất mát có lý do xác đángđược cơ quan giám định Nhà nước về hàng xuất, nhập khẩu chứng nhận.
Trong các trường hợp như hàng đã nộp thuế nhưng thực tế không xuất, nhập khẩu vào Việt Nam hoặc trong các trường hợp được pháp luật quy định thì đối tượng nộp thuế được trả lại một phần hoặc toàn bộ số thuế xuất nhập khẩu đã nộp.
5. Một số Luật thuế cơ bản khác.
5.1 Thuế thu nhập cá nhân.
Thuế thu nhập cá nhân là thuế đánh vào thu nhập của người có thu nhập cao.Thu nhập chịu thuế là đối tượng tính thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Thu nhập chịu thuế được quy định làm thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Thuế suất áp dụng để thu thuế thu nhập cá nhân là thuế suất tỷ lệ (%). Biểu thuế được quy định phân biệt theo hai loại thu nhập và theo hai nhóm đối tượng nộp thuế: công dân Việt Nam, cá nhân định cư tại Việt Nam và đối tượng là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam, công dân Việt Nam lao động, công tác ở nước ngoài.
5.2 Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Ngày 10/7/1993 Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 3 ban hành Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp. Đối tượng điều chỉnh của Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp là quan hệ thu nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp giữa nhà nước với các cá nhân sử dụng đất sản xuất nông nghiệp hoặc các tổ chức cá nhân được giao quyền sử dụng đất nông nghiệp. Căn cứ tính thuế sử dụng đất nông nghiệp là diện tích, hạng đất và định thuế suất một năm (kg thóc/ha) – thuế suất.
5.3 Một số Luật thuế khác.
-Thuế tài nguyên: Là thuế đánh lên hoạt động khai thác tài nguyên thuộc chủ quyền của Việt Nam của các tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế.
-Thuế môn bài:Là khoản thu của ngân sách nhà nước áp dụng đối với tất cả các pháp nhân và thể nhân kinh doanh.
-Thuế chuyển quyền sử dụng đất: Là thuế đánh lên thu nhập phát sinh từ hoạt động chuyển quyền sử dụng đất trong xã hội.
II.Tính tất yếu của việc áp dụng hệ thống thuế ở Việt Nam.
1. Vai trò của hệ thống thuế ở nước ta hiện nay.
Từ khi ra đời đến nay, hệ thống thuế ở Việt Nam đã có nhiều sửa đổi bổ xung nhằm từng bước tháo gỡ những vướng mắc trong sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội. Các luật thuế mới đã góp phần khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước. Nổi bật nhất là chính sách thuế đối với hoạt động xuất khẩu: thuế xuất thuế giá trị gia tăng bằng 0% và hàng nhập khẩu được hoàn thuế thuế giá trị gia tăng đã nộp, đây thực chất là hình thức trợ giá của Nhà nước đối với hàng xuất khẩu. Thuế suất hàng xuất khẩu đối với gạo, than đá, sản phẩm từ gỗ rừng trồng, bàn ghế, sản phẩm chế biền từ kim loại cũng được giảm nhẹ.
Thuế thu nhập doanh nghiệp được áp dụng theo mức ưu đãi, thấp nhất là 25% đối với các dự án đầu tư có giá trị xuất khẩu trên 30% tổng giá trị hàng hoá và có thể được miễn thuế TNDN bổ sung nếu có giá trị hàng xuất khẩu trên 50%. Các ưu đãi về thuế trên đã thiết thực giúp các doanh nghiệp giảm được giá vốn hàng xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc cạnh tranh về giá của hàng xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
Đồng thời với việc giảm thuế quan theo chương trình của CEPT, Chính phủ đã diều chỉnh nâng thuế suất thuế nhập khẩu đối với 132 mặt hàng, chủ yếu là hàng tiêu dùng trong nước đã sản xuất được nhằm thực hiện chính sách bảo hộ sản xuất nội địa một cách hợp lý.
Các Luật thuế mới đã góp phần khuyến khích đầu tư, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Thuế giá trị gia tăng được căn cứ vào giá trị mới tăng thêm của hàng hoá dịch vụ phát sinh trong quá trình lưu thông đến tiêu dùng. Chính việc xác định đối tượng chịu thuế chỉ là giá trị mới tăng thêm qua từng khâu của quá trình sản xuất lưu thông nên đã khắc phục được tính trùng lặp của luật thuế doanh thu. Trong lúc đầu chuyển đổi từ thuế doanh thu có 11 mức thuế suất sang thuế giá trị gia tăng có 4 mức thuế suất, một số doanh nghiệp phải nộp thuế giá trị gia tăng cao hơn thuế doanh thu nên gặp nhiều khó khăn do chưa có điều kiện sắp xếp lại tổ chức hoạt động, quản lý phù hợp với cơ chế mới. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các Bộ đã tăng cường chỉ đạo, bám sát tình hình, kịp thời đề ra nhiều biện pháp tháo gỡ khó khăn mang tính chất tình thế. Hơn 10 nhóm ngành hàng, dịch vụ được bổ xung vào danh mục thuộc diện không phải nộp thuế giá trị gia tăng; giảm 50% mức thuế cho 18 ngành hàng dịch vụ; mở rộng diện được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào theo tỷ lệ ấn định, đặc biệt với mặt hàng nông lâm thuỷ sản, đối với mặt hàng tồn kho theo chủ trương của chính quyền địa phương; giảm thuế đối với mọi ngành nghề phải nộp thuế giá trị gia tăng cao hơn thuế doanh thu mà bị lỗ; giảm thuế suất nhập khẩu cho 559 mặt hàng là vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước. Các công trình đầu tư, xây dựng cơ bản cũng được nhiều ưu đãi về thuế. Các doanh nghiệp mua sắm tài sản cố định có thuế giá trị gia tăng đều được khấu trừ hoặc được hoàn đủ thuế đã nộp. Mặt khác, thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dung nhập khẩu thuộc loại trong nước chưa sản xuất được để đầu tư thành tài sản cố định theo dự án thì không thuộc diện nộp thuế giá trị gia tăng. Các dự án xây dựng cơ bản sử dụng nguồn vốn ODA cũng không phải nộp thuế giá trị gia tăng. Với việc thực hiện nghị định 78-NĐ/CP giảm 50% mức thuế giá trị gia tăng đối với sản phẩm xây dựng cơ bản, sau khi được khấu trừ thuế đầu vào, các doanh nghiệp xây dựng còn phải nộp thuế trung bình khoảng 1- 2% giá trị công trình, thậm chí còn được hoàn thuế.
Nhà nước cũng quy định miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đầu cho các doanh nghiệp sản xuất, vận tải, xây dựng mới thành lập và giảm 50% thuế phải nộp trong 2 năm tiếp theo. Nếu doanh nghiệp thành lập ở vùng có khó khăn thì được kéo dài thời gian miễn và giảm thuế trong 2 năm nữa. Riêng đối với doanh nghiệp đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề, vùng kinh tế được ưu đãi đầu tư sẽ được hưởng mức thuế suất thấp hơn so với các dự án bình thường; ngoài ra còn được miễn thuế trong thời gian 4 năm đầu kể từ khi hoạt động có thu nhập tính thuế và giảm 50% thuế trong 9 năm tiếp theo. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp còn quy định miễn giảm thuế đối với các trường hợp đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao năng lực sản xuất, di chuyển cơ sở kinh doanh.
Các Luật thuế mới đã bước đầu tác động đến công tác quản lý của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Việc thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường hạch toán kinh tế và thực hiện nghiêm ngặt chế độ mua bán phải có hoá đơn, chứng từ nhằm xây dựng môi trường trong sạch trong hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trường. Trường hợp doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, muốn được khấu trừ thuế giá trị gia tăng ở khâu đầu vào thì khi mua vật tư nguyên liệu, bán thành phẩm đòi hỏi cơ sở phải sử dụng và ghi chép đúng quy định trên hoá đơn thuế giá trị gia tăng. Với việc quy định mức thuế suất của luật thuế giá trị gia tăng so với thuế doanh thu đã tạo cho chính sách thuế đơn giản và dễ thực hiện hơn.
2.Những tồn tại và hạn chế trong hệ thống thuế ở Việt Nam.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trên chặng đường hội nhập hệ thống thuế Việt Nam vẫn gặp phải một số vướng mắc, tồn tại cần đổi mới và hoàn thiện. Các luật thuế vẫn còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước mà biểu hiện rõ nhất là các đạo luật thường xuyên phải sửa đổi bổ sung.Các sắc thuế còn quá phức tạp, chưa bao quát hết các nguồn thu, phạm vi điều tiết vĩ mô của thuế còn hẹp, còn nhiều đối tượng, nhiều hoạt động sản xuất, kinh doanh chưa chịu sự điều phối và quản lý của thuế và do vậy các đối tượng này trở thành rào cản làm hạn chế tác dụng và loại trừ tác động của công cụ thuế.
Hệ thống chính sách thuế hiện hành chưa có sự thống nhất, hỗ trợ lẫn nhau giữa các sắc thuế, việc sử dụng các sắc thuế còn tách rời nhau. Đặc biệt là việc xây dựng các mức thuế suất còn chưa sát với tình hình thực tế, rõ ràng nhất là khi áp dụng các mức thuế suất của thuế giá trị gia tăng thì một số doanh nghiệp đã gặp khó khăn trong việc hạch toán kinh tế. Việc phải đi vay ngân hàng để nộp thuế giá trị gia tăng đang là mối lo ngại lớn của các doanh nghiệp.Trong từng sắc thuế còn chứa đựng tính không ổn định, không công bằng, chưa thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Luật thuế giá trị gia tăng khi thực hiện vẫn có nhiều vướng mắc, phải sửa đổi bổ sung nhiều lần làm cho các doanh nghiệp không nắm bắt kịp thời. Mặt khác việc thường xuyên thay đổi thuế suất của thuế nhập khẩu hiện nay tuy phù hợp với thay đổi trước mắt của nền kinh tế nhưng lại phản ánh chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam mang tính tình thế đối phó ngắn hạn, gây khó khăn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh trong việc hạch toán kinh tế. Trong chủ chương xây dựng chiến lược lâu dài, thuế thu nhập doanh nghiệp mặc dù thống nhất áp dụng ở mức thuế suất 32% nhưng chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nưóc còn các doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài vẫn hưởng thuế suất ưu đãi (25%) và phải nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Như vậy có thể nói rằng việc tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài trong cơ chế cạnh tranh của chính sách thuế vẫn chưa thực hiện được.
Hệ thống thuế của Việt Nam hiện nay được sử dụng như một công cụ phục vụ quá nhiều chính sách xã hội điều này làm mất đi tính trung lập của thuế. Ví dụ như chính sách thuế xuất nhập khẩu hiện nay đang áp dụng quá nhiều mức thuế suất do phải phục vụ quá nhiều mục tiêu. Cùng với việc theo đuổi các mục tiêu xã hội là việc quy định chế độ miễn giảm thuế quá rộng rãi với nhiều mức thuế suất khác nhau đã làm cho chính sách thuế thêm phức tạp, thiếu minh bạch, thiếu hiệu quả và đôi khi tạo kẽ hở cho một số mặt hàng núp bóng các đối tượng thuộc diện được miễn giảm thuế để trốn thuế lậu thuế
Đặc biệt hệ thống thuế Việt Nam hiện nay còn tồn tại nhiều mặt chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa đảm bảo tương thích tương đồng với các chính sách thuế trong khu vực và trên thế giới. Cơ cấu thuế suất của biểu thuế nhập khẩu hiện hành gồm 12 mức thuế suất dàn trải từ 0% đến 100% cùng với quy định thuế suất theo tỷ lệ nội địa hoá làm cho biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam so với các nước trong khu vực là tương đối phức tạp và đây còn là vấn đề rất khó khăn trong việc cắt giảm thuế quan xuống mức 0%-5% khi Việt Nam thực hiện cam kết theo chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung với thời hạn cuối cùng là năm 2006. Về giá tính thuế, hiện nay chúng ta đang áp dụng chế độ tính giá tối thiểu và nằm trong dang mục Nhà nước quản lý. Quy định này trong điều kiện đặc thù của Việt Nam hiện nay là tương đối phù hợp tuy nhiên khi Việt Nam tham gia WTO thì việc áp dụng giá tính thuế tối thiểu sẽ vi phạm quy định về xác định trị giá tính thuế theo giá giao dịch thực của GATT/WTO. Bên cạnh đó việc bảo hộ còn dàn trải, thiếu sự chọn lọc, chưa tính đến lợi thế so sánh của nền kinh tế, sử dụng nhừng biện pháp bảo hộ đối với những ngành sản xuất mà thực tế còn thiếu tiềm năng. Do đó các ngành được bảo hộ không những không lớn mạnh mà còn trở thành gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Đồng thời chúng ta còn chưa tính đến việc bảo hộ một mặt đã tạo tâm lý ỷ lại cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước không chịu vươn lên đổi mới trang thiết bị, công nghệ sản xuất và quản lý để tăng sức cạnh tranh của hành Việt Nam, mở rộng thị trường tiêu thụ ra bên ngoài, mặt khác làm cho việc phân bổ nguồn lực kém hiệu quả, chưa phát huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình phân công lao động quốc tế khi Việt Nam gia nhập vào các tổ chức tài chính quốc tế và khu vực.
Đối với thuế giá trị gia tăng, tồn tại nổi lên là nhiều ngành nghề gặp khó khăn do phải nộp thuế giá trị gia tăng cao hơn thuế doanh thu. Việc giảm 50% thuế giá trị gia tăng phải nộp nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp phải nộp thuế giá trị gia tăng cao, một cách tràn lan, thiếu căn cứ đã tạo nên tâm lý chờ đợi của nhiều doanh nghiệp, có quá nhiều khiếu nại kêu ca, khiến cho cơ quan chức năng lúng túng bị động.Ưu điểm nổi bật của thuế giá trị gia tăng là khắc phục được việc thu thuế trùng lặp. Thế nhưng trên thực tế việc không cho khấu trừ thuế đầu vào (hoặc cho khấu trừ khoán theo tỷ lệ cố định là 3%) đối với trường hợp chỉ có hoá đơn bình thường mà thực chất là hàng đã được nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp, là còn duy trì chế độ thuế trùng lắp cao hơn thuế doanh thu vì thuế suất thuế giá trị gia tăng cao. Ngược lại việc khấu trừ khống đối với nông, lâm, thuỷ sản mua của cơ sở sản xuất, khai thác trực tiếp đã tạo nên nhiều sơ hở để cơ sở kinh doanh lợi dụng thông đồng trốn lậu thuế ( kể cả đối với hàng tiêu thụ nội địa và hàng xuất khẩu), không tạo được lợi ích cho nông dân, ngư dân. Từ việc quy định có nhiều trường hợp dược giảm thuế và nhiều tỷ lệ khấu trừ khác nhau luật thuế đã bị xói mòn với nhiều mức thuế suất mới, thêm nhiều phức tạp khó khăn cho công tác quản lý. Hàng hoá thuộc diện đánh thuế tiêu thụ đặc biệt không phải nộp thuế giá trị gia tăng cũng gây trở ngại cho việc khấu trừ đầu vào ở khâu lưu thông. Thuế giá trị gia tăng được sửa đổi bổ sung qua nhiều văn bản cũng gây khó khăn cho việc tra cứu của cán bộ thuế và nhà doanh nghiệp khi xác định thuế suất. chế độ hoá đơn chưa được thi hành nghiêm chỉnh với nhiều thủ đoạn trốn lậu tuế tinh vi từ hoá đơn giả đến hoá đơn “đen”, ghi doanh thu trên liên hoá đơn lưu tại cơ sở và trên liên giao cho khách chênh lệch đến hàng chục hàng trăm lần… đang trở thành con dao hai lưỡi trong công tác quản lý thu thuế. Theo tài liệu thống kê sơ bộ 9/1999 đến 9/2000 chỉ riêng ở 15 tỉnh, thành phố đã kiểm tra phát hiện 1.278 tờ hoá đơn giả các loại có tổng số tiền hàng ghi hoá đơn trên 22,5 tỷ đồng với số thuế gian lậu là 82,9 triệu đồng.
Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, vướng mắc từ lâu vẫn tồn tại là khái niệm về chi phí hợp lý được trừ đi khi xác định thu nhập tính thuế – một yếu tố quan trọng trong thuế thu nhập doanh nghiệp. Do chưa có quy địng rõ ràng thoả đáng nên thường xuyên phát sinh mâu thuẫn và phải hiệp thương giữa doanh nghiệp và cơ quan thuế, còn nhiều sơ hở cho việc vận dùng tuỳ tiện tiêu cực. Nhiều khoản chi cần thiết chưa được công nhận là chi phí kinh doanh trong đó có trang bị đồng phục đối với một số doanh nghiệp đặc thù cũng là vấn đề vướng mắc của một số doanh nghiệp. Việc tính thuế một lần trên toàn bộ số tiền khách hàng tạm ứng thuê tài sản dài hạn (5- 10 năm) cũng có phần chưa hợp lý. Nhiều doanh nghiệp hoạt động trong nhiều ngành không thể hạch toán riêng lỗ lãi để áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp khác nhau (32% hoặc tạm thời áp dụng thuế suất 25%) phải chịu thuế suất cao nhất (32%) cũng đã tạo nên những khó khăn nhất điịng cho cơ sở sản xuất. Về nguyên tắc thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp được áp dụng phổ biến 32% thu nhập tính thuế, nhưng do còn nhiều khoản chi phí không được trừ hoặc không được trừ đủ, thực thị trườngế có nhiều doanh nghiệp bị động viên đến 40 – 50% thu nhập kinh doanh. Vấn đề khá nổi cộm là thuế thu nhập doanh nghiệp bỏ sung 25% đối với doanh nghiệp có thu nhập còn lại cao hơn 12% giá trị vốn hiện có tại thời điểm quyết toán thuế năm do lợi thế khách hàng mang lại như địa điểm kinh doanh thuận lợi, ngành nghề kinh doanh ít bị cạnh tranh…mà đó lại là những tiêu chí rất trừu tượng, mơ hồ, cán bộ thuế muốn vận dụng giải thích thế nào cũng đều đúng. Quy định như trên đã phần nào làm nhụt vươn lên khắc phục khó khăn của doanh nghiệp, kìm hãm sản xuất của các thành phần kinh tế trong nước. Chính ssách thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất quá trênh lệch ( giữa 32% với 25% thậm chí cả 10%, 15%, 20% được áp dụng trong thời gian dài và thuế suất bổ xung) trên thực tế đã làm giảm một động lực quan trọng đối với doanh nghiệp Nhà nước, đang phải cạnh trang gay gắt trong quấ trình hội nhập mà thời gian chuẩn bị cạnh tranh không còn dài. Thuế thu nhập doanh nghiệp đối với kinh tế trang trại đã từng nổi lên như một vấn đề thời sự nóng bỏng hiện cũng cần được giải quyết một cách thoả đáng rõ ràng.
PHẦN C . XU HƯỚNG CẢI CÁCH THUẾ TRÊN THẾ GIỚI VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THUẾ
Ở VIỆT NAM.
I. Xu hướng cải cách thuế trên thế giới những năm cuối thế kỷ XX.
Có thể nói rằng hệ thống thuế trên thế giới vào những năm cuối thập kỷ 90 đã có những điểm rất khác biệt so với hệ thống thuế của những năm 80. Cải cách thuế trong những năm cuối của thế kỷ XX không chỉ đơn giản là sự cân nhắc tối ưu giữa mục tiêu hiệu quả và công bằng trong điều kiện của một nền kinh tế “đóng” mà còn bị chi phối mạnh mẽ bởi những nhân tố mới nảy sinh trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường của nước ta nói riêng và tiến trình toàn cầu hoá đang diễn ra một cách nhanh chóng trên thế giới. Những khác biệt này một mặt phản ánh sự chuyển hướng chính sách trong cải cách thuế nhằm đạt tới sự tối ưu trong điều kiện nền kinh tế “mở” mặt khác lại hàm ý nhiều vấn đề cần giải quyết đối với cải cách thuế trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Những xu hướng nổi bật trong cải cách thuế trên thế giới vào những năm cuối của thế kỷ XX có thể nhận thấy qua xu hướng ngày càng tăng về tỷ lệ động viên thông qua thuế so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP). Bất chấp những cố gắng của nhiều chính phủ trên thế giới trong việc cắt giảm gánh nặng thuế, tỷ lệ động viên thông qua thuế vẫn có xu hướng tăng lên. Trong số trên 20 nước thuộc khối các nước phát triển OECD, chỉ có hai nước là HàLan và Na Uy là có tỷ lệ động viên từ thuế so với GDP giảm vào giữa những năm 1980-1995, những nước còn lại thì tỷ lệ này so với GDP tăng đáng kể. Trong khoảng thời gian từ năm 1965 đến 1995, gánh nặng thuế trong khối các nước OECD đã liên tục tăng từ khoảng 27% GDP lên tới gần 40% GDP, tỷ lệ này đặc biệt cao ở một số nước như Bỉ, Đan Mạch, Thuỵ Điển, Phần Lan ( trên 45% GDP ).
Thuế suất biên đối với thuế thu nhập cá nhân tiếp tục giảm thấp. Do những thành tựu nghiên cứu của những năm 80 cả về mặt lý thuyết lẫn thực tiễn, đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng tỷ lệ thuế suất biên càng cao sẽ gây méo mó càng lớn đối với nền kinh tế. Tỷ lệ thuế cao sẽ không khuyến khích lao động và tiết kiệm nhưng đồng thời lại kích thích việc lợi dụng những kẽ hở thuế. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến trào lưu cắt giảm thuế suất biên trung bình khoảng trên 10% vào những năm cuối của thập kỷ 80 và xu thế vẫn được duy trì và đi vài ổn định trong những năm 90.
Cơ sở đánh thuế thu nhập được mở rộng để bù đắp số thuế giảm do việc cắt giảm thuế suất. Ở đa số các nước thực hiện việc cắt giảm thuế suất biên đối với thuế thu nhập cá nhân, nguồn tài chính thiếu hụt được bù đắp bằng việc mở rộng cơ sở đánh thuế, việc này được thực hiện bằng hai cách. Cách thứ nhất là tăng cường đánh thuếvào những khoản thu nhỏ, lãi thấp mà trươcs đây chưa đưa vào diện chịu thuế. Cách thứ hai là loại bỏ hoặc hạn chế những khoản ưu đãi, miễn giảm, khấu trừ không cần thiết. Đa số các nước phát triển áp dụng b
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0141.doc