Đề án Mô hình tổ chức bộ máy Kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam

Kiểm toán nhà nước Việt Nam được thành lập ngày 11/7/1994 theo Nghị định số 70/CP của Chính phủ.

Ngày 24/01/1995, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 61/TTg quy định về điều lệ tổ chức, hoạt động; cơ cấu tổ chức; nhiệm vụ và quyền hạn và những vấn đề liên quan khác của Kiểm toán nhà nước khi mới thành lập. Ngày 13/8/2003, Chính phủ ban hành Nghị định 93/2003/NĐ-CP, có bổ sung và sửa đổi, thay thế Nghị định 70/CP, ngày 11/7/1994, đã quy định rõ hơn về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán nhà nước.

Nhằm hoàn thiện hơn nữa Kiểm toán nhà nước tại Việt Nam, nâng cao hiệu quả hoạt động của Kiểm toán nhà nước, đáp ứng những đòi hỏi mới, Luật Kiểm toán nhà nước đã được Quốc hội khoá XI nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 7, ngày 14/6/2005, và sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Địa vị pháp lý của Kiểm toán nhà nước Việt Nam ngày càng được nâng cao và hoàn thiện

 

doc50 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3562 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Mô hình tổ chức bộ máy Kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiếp là Uỷ ban kinh tế và ngân sách những vấn đề liên quan đến việc ban hành các đạo luật thuộc lĩnh vực kinh tế và Ngân sách Nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật có tính chuyên môn và hiệu lực tài chính; Báo cáo và tư vấn cho Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ, và các địa phương về thực trạng nguồn tài chính, tác động của nó cùng với các giải pháp đề ra; ● Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chuyển hồ sơ sang cơ quan bảo vệ pháp luật xử lí những vi phạm pháp luật của cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân đã được làm rõ thông qua hoạt động kiểm toán; ● Tham gia ý kiến với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc lập, quyết định và phân bổ Ngân sách Nhà nước hàng năm đảm bảo các nguyên tắc của tính tuân thủ, tính hợp lý, khả thi và tiết kiệm; ● Quyết định các dự án đầu tư về Kiểm toán Nhà nước thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật; tham gia thẩm định các đề án, dự án quan trọng thuộc chuyên môn, nghiệp vụ theo yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; ● Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và xử lí vi phạm trong hoạt động Kiểm toán Nhà nước đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền xử lí của Kiểm toán Nhà nước; ● Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực Kiểm toán Nhà nước: hợp tác với các cơ quan Kiểm toán Nhà nước của các quốc gia khác trong INTOSAI và ASOSAI. Chuẩn hóa theo tiêu chuẩn quốc tế về Kiểm toán Nhà nước và Kiểm toán viên nhà nước; ● Tổ chức, chỉ đạo thực hiện công tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động Kiểm toán Nhà nước; ● Quản lí về tổ chức bộ máy, biên chế; thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỉ luật đối với cán bộ, công nhân, viên chức thuộc phạm vi quản lí của Kiểm toán Nhà nước; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức; tổ chức công tác thông tin, tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật về Kiểm toán Nhà nước; ● Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của Kiểm toán Nhà nước theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính nhà nước. Tạo điều kiện để khai thác nguồn thu, tránh thất thoát, quản lí sử dụng tốt ngân sách, tăng tính minh bạch, công khai và sức thuyết phục của các thông tin về Ngân sách Nhà nước; ● Trình Chính phủ dự toán ngân sách hàng năm của Kiểm toán Nhà nước, quản lí tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân sách được phân bổ theo đúng quy định của pháp luật. Kể từ ngày 01/01/2006, Khi Luật Kiểm toán nhà nước có hiệu lực, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán nhà nước Việt Nam được quy định cụ thể trong Điều 15 và Điều 16 của Luật này, về cơ bản là sự kế thừa những tư tưởng được thể hiện trong các Nghị định nêu trên của Chính phủ, trong đó có những thay đổi phù hợp với điều kiện mới khi Kiểm toán nhà nước trực thuộc Quốc hội. 2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Kiểm toán nhà nước Việt Nam. 2.2.1. Sự cần thiết phải thành lập Kiểm toán nhà nước tại Việt Nam. Trong quá trình đổi mới, mặt trái của nền kinh tế thị trường ngày càng bộc lộ rõ và sâu sắc, đặc biệt nạn tham nhũng, sử dụng không hiệu quả làm thất thoát tài sản công, chi tiêu ngân sách lãng phí, sai mục đích, sai chế độ... là những vấn đề nổi cộm và nhức nhối nhất. Tình hình đó đòi hỏi cấp thiết phải có một cơ quan nhà nước với vai trò và chức năng là người kiểm tra tài chính công cao nhất, giúp đỡ cho Quốc hội, Chính phủ trong việc điều hành nền tài chính quốc gia. Tuyên bố Lima (Peru, 10/1977) cũng nhấn mạnh “...nhất thiết mỗi quốc gia phải có một Cơ quan Kiểm toán tối cao mà tính độc lập của nó phải được xác lập bằng pháp luật...”. Như vậy, sự ra đời của Kiểm toán nhà nước tại Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với tiến trình đổi mới đất nước và thông lệ quốc tế; nó là một tất yếu khách quan là sản phẩm trí tuệ của quá trình đổi mới, đáp ứng sự đòi hỏi cấp bách của thực tiễn, nhằm tăng cường kiểm soát của Nhà nước trong việc quản lý và sử dụng Ngân sách Nhà nước và tài sản quốc gia. 2.2.2. Cơ sở pháp lý cho việc tổ chức, hoạt động của Kiểm toán nhà nước Việt Nam. Kiểm toán nhà nước Việt Nam được thành lập ngày 11/7/1994 theo Nghị định số 70/CP của Chính phủ. Ngày 24/01/1995, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 61/TTg quy định về điều lệ tổ chức, hoạt động; cơ cấu tổ chức; nhiệm vụ và quyền hạn và những vấn đề liên quan khác của Kiểm toán nhà nước khi mới thành lập. Ngày 13/8/2003, Chính phủ ban hành Nghị định 93/2003/NĐ-CP, có bổ sung và sửa đổi, thay thế Nghị định 70/CP, ngày 11/7/1994, đã quy định rõ hơn về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán nhà nước. Nhằm hoàn thiện hơn nữa Kiểm toán nhà nước tại Việt Nam, nâng cao hiệu quả hoạt động của Kiểm toán nhà nước, đáp ứng những đòi hỏi mới, Luật Kiểm toán nhà nước đã được Quốc hội khoá XI nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 7, ngày 14/6/2005, và sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Địa vị pháp lý của Kiểm toán nhà nước Việt Nam ngày càng được nâng cao và hoàn thiện. 2.2.3. Các giai đoạn phát triển của Kiểm toán nhà nước ở Việt Nam. 2.2.3.1. Giai đoạn Kiểm toán nhà nước trực thuộc Chính phủ. Ngày 11/7/1994, Kiểm toán nhà nước Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 70/CP của Chính phủ. Với quyết định số 61/TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 24/01/1995, và Nghị định số 93/2003/NĐ-CP của Chính phủ, tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước Việt Nam được kiện toàn và hoàn thiện. Theo đó, “Kiểm toán Nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng kiểm toán, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước các cấp và báo cáo tổng quyết toán ngân sách nhà nước; báo cáo quyết toán, báo cáo tài chính của các cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng ngân sách nhà nước; kiểm toán tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế trong việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước và tài sản công theo kế hoạch kiểm toán hàng năm được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và các nhiệm vụ kiểm toán đột xuất do Thủ tướng Chính phủ giao hoặc do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.” Trong hơn mười năm qua, Kiểm toán nhà nước đã chủ động vươn lên và khẳng định sự cần thiết hình thành và phát triển Kiểm toán nhà nước ở Việt Nam; đáp ứng yêu cầu không thể thiếu được của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua hoạt động thực tiễn, Kiểm toán nhà nước đã xứng đáng là công cụ bảo vệ sự minh bạch của nền tài chính quốc gia, góp phần quan trọng vào quá trình quản lý, điều hành và sử dụng Ngân sách Nhà nước; đặc biệt là vai trò phòng ngừa và răn đe những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng trong đời sống kinh tế - xã hội. 2.2.3.2. Kiểm toán nhà nước Việt Nam khi Luật Kiểm toán Nhà nước có hiệu lực. ● Sự cần thiết chuyển Kiểm toán nhà nước sang thuộc Quốc hội. Điều 84, Hiến pháp năm 1992 nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu rõ: “Quốc hội là cơ quan quyết định những chính sách cơ bản của quốc gia trong đó có quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, quyết định dự toán Ngân sách Nhà nước và phân bổ Ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán Ngân sách Nhà nước”. Chức năng và nhiệm vụ của Quốc hội trong lĩnh vực Ngân sách Nhà nước đã được quy định rõ ràng và chi tiết trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, từ nhiều năm nay, các cơ quan của Quốc hội vẫn còn thiếu một lượng thông tin cần thiết từ cơ quan Kiểm toán nhà nước, một cơ quan có nghiệp vụ chuyên môn, có khả năng phân tích, đánh giá việc quản lý và sử dụng Ngân sách Nhà nước nói riêng và nguồn tài sản công nói chung, để có thể đưa ra những quyết định về Ngân sách Nhà nước. Do thiếu mối liên hệ chặt chẽ với Kiểm toán Nhà nước nên các Uỷ ban của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội thực hiện quyền hạn trong lĩnh vực tài chính, Ngân sách Nhà nước từ trước tới nay chỉ mang tính hình thức. Thực tế hoạt động của Quốc hội trong thời gian qua, số đại biểu Quốc hội có chuyên môn trong lĩnh vực tài chính là rất ít, đa số các đại biểu Quốc hội đều không có khả năng, hoặc không có điều kiện, thời gian để phân tích, đánh giá các tài liệu về tài chính và Ngân sách Nhà nước một cách toàn diện và đầy đủ. Vì những lý do như trên, việc tổ chức cơ quan Kiểm toán nhà nước làm nhiệm vụ chuyên môn giúp Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các Uỷ ban khác của Quốc hội trong việc thẩm tra, quyết định dự toán Ngân sách Nhà nước và phê chuẩn tổng quyết toán Ngân sách Nhà nước là hết sức cần thiết. Việc chuyển cơ quan Kiểm toán nhà nước sang thuộc Quốc hội là phù hợp với yêu cầu thực tế. Ngày 14/6/2005, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XI nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Kiểm toán nhà nước. Điều 13, Địa vị pháp lý của Kiểm toán nhà nước, tại luật này quy định: “Kiểm toán nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân thủ pháp luật”. ● Mô hình Kiểm toán nhà nước trực thuộc Quốc hội. Theo Mục 3: “Tổ chức của Kiểm toán nhà nước”, Chương 2, Luật Kiểm toán nhà nước, “Kiểm toán nhà nước được tổ chức và quản lý tập trung thống nhất, gồm bộ máy điều hành, kiểm toán nhà nước chuyên ngành, kiểm toán nhà nước khu vực và các đơn vị sự nghiệp. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể cơ cấu tổ chức của Kiểm toán nhà nước”. Nghị quyết số 916/2005/NQ-UBTVQH, ngày 15/9/2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, quy định về cơ cấu tổ chức của Kiểm toán nhà nước, mô hình Kiểm toán nhà nước Việt Nam có thể được thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ 2.2. Mô hình tổ chức Kiểm toán nhà nước Việt Nam trực thuộc Quốc hội. QUỐC HỘI TỔNG KIỂM TOÁN Các đơn vị tham mưu thuộc bộ máy điều hành Văn phòng Kiểm toán nhà nước Vụ chế độ và kiểm soát chất lượng kiểm toán Tạp chí kiểm toán Trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ Các đơn vị Kiểm toán nhà nước chuyên ngành Các đơn vị Kiểm toán nhà nước khu vực Các đơn vị sự nghiệp Vụ tổng họp Vụ tổ chức cán bộ Vụ pháp chế Trung tâm tin học Vụ quan hệ quốc tế Theo Mục 2 “Tổng Kiểm toán nhà nước, Phó Tổng Kiểm toán nhà nước” Chương 2, Luật Kiểm toán nhà nước, Tổng Kiểm toán nhà nước là người đứng đầu Kiểm toán nhà nước, chịu trách nhiệm về tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước trước pháp luật, trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ. Tổng Kiểm toán nhà nước do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sau khi trao đổi thống nhất với Thủ tướng Chính phủ; tiêu chuẩn Tổng Kiểm toán Nhà nước do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định. Nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán nhà nước là bảy năm, có thể được bầu lại nhưng không quá hai nhiệm kỳ. Giúp việc cho Tổng Kiểm toán nhà nước là các Phó Tổng Kiểm toán nhà nước. “Phó Tổng Kiểm toán nhà nước là người giúp Tổng Kiểm toán Nhà nước, được Tổng Kiểm toán nhà nước phân công chỉ đạo một số mặt công tác và chịu trách nhiệm trước Tổng Kiểm toán Nhà nước về nhiệm vụ được phân công. Khi Tổng Kiểm toán nhà nước vắng mặt, một Phó Tổng Kiểm toán nhà nước được Tổng kiểm toán Nhà nước ủy nhiệm lãnh đạo công tác của Kiểm toán Nhà nước. Phó Tổng Kiểm toán nhà nước do Tổng Kiểm toán nhà nước đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Phó Tổng Kiểm toán nhà nước là bảy năm. Kiểm toán nhà nước gồm 21 vụ và các đơn vị tương đương cấp vụ, trong đó có 6 đơn vị tham mưu thuộc bộ máy điều hành, 7 Kiểm toán nhà nước chuyên ngành, 5 Kiểm toán nhà nước khu vực và 3 đơn vị sự nghiệp. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các đơn vị do Tổng kiểm toán Nhà nước quy định cụ thể. Việc chuyển cơ quan Kiểm toán nhà nước từ trực thuộc Chính phủ (cơ quan hành pháp, trực tiếp điều hành việc thu - chi Ngân sách, quản lý và sử dụng nguồn tài sản công) sang thuộc Quốc hội (cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước) đã đảm bảo tính độc lập tương đối của Kiểm toán nhà nước trong việc thực hiện chức năng là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất. Đồng thời, được tổ chức là một cơ quan thuộc Quốc hội, những thông tin qua kiểm toán mà Kiểm toán nhà nước cung cấp sẽ giúp Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các Uỷ ban khác có liên quan nắm bắt chính xác và kịp thời hơn tình hình quản lý và sử dụng Ngân sách, từ đó đề ra được những quyết định, những chính sách đúng đắn trong công việc thẩm tra, quyết định dự toán Ngân sách và phê chuẩn tổng quyết toán Ngân sách Nhà nước. 2.3. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước Việt Nam trong thời gian qua. 2.3.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Kiểm toán nhà nước Việt Nam trực thuộc Chính phủ. Kiểm toán nhà nước Việt Nam được thành lập và tổ chức theo Nghị định 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ, và điều lệ tổ chức hoạt động của Kiểm toán nhà nước. Nghị định số 93/2003/NĐ-CP ngày 23/8/2003 của Chính phủ ban hành đã tăng cường, hoàn thiện thêm một bước cơ cấu tổ chức của Kiểm toán nhà nước. Kiểm toán nhà nước Việt Nam là cơ quan trực thuộc Chính phủ, là công cụ kiểm tra tài chính công cao nhất của Nhà nước. Hiện nay, Kiểm toán nhà nước có 16 tổ chức giúp Tổng kiểm toán thực hiện chức năng, nhiệm vụ, 11 kiểm toán nhà nước ở trung ương và 5 kiểm toán nhà nước khu vực, cùng với 3 tổ chức sự nghiệp, với 680 cán bộ, công chức, kiểm toán viên trong biên chế. Mô hình tổ chức bộ máy Kiểm toán nhà nước Việt Nam được thể hiện trong sơ đồ sau: Sơ đồ 2.1. Mô hình tổ chức Kiểm toán nhà nước trực thuộc Chính phủ. CHÍNH PHỦ TỔNG KIỂM TOÁN Vụ giám định, kiểm tra chất lượng Kiểm toán Tạp chí Kiểm toán Trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ Kiểm toán đầu tư dự án II CÁC TỔ CHỨC SỰ NGHIỆP TRỰC THUỘC Trung tâm tin học Vụ pháp chế Vụ tổ chức cán bộ Văn phòng Kiểm toán các chương trình đặc biệt KTNN các khu vực Kiểm toán các tổ chức tài chính, ngân hàng Kiểm toán DNNN Kiểm toán đầu tư dự án II Kiểm toán NSNN II Kiểm toán NSNN I Tổng kiểm toán nhà nước Việt Nam do Thủ tướng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về hoạt động của Kiểm toán nhà nước. Tổng kiểm toán có nhiệm vụ và quyền hạn: - Lãnh đạo, quyết định và chịu trách nhiệm về công việc của Kiểm toán nhà nước, được tham dự những phiên họp của Chính phủ về xem xét, phân bổ, quyết toán Ngân sách Nhà nước và về những vấn đề có liên quan đến hoạt động của Kiểm toán nhà nước; - Chịu trách nhiệm về chất lượng, nội dung các văn bản pháp quy do Kiểm toán nhà nước soạn thảo trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển Kiểm toán nhà nước sau khi được phê duyệt; - Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể giải thể các tổ chức thuộc cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước; quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các tổ chức đó; - Quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp cụ thể để tăng cường kỉ cương, kỉ luật hành chính trong hoạt động Kiểm toán Nhà nước, chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền của cán bộ, công chức, viên chức thuộc Kiểm toán Nhà nước; - Thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn khác theo quy định của pháp luật; Giúp việc cho Tổng kiểm toán có các Phó tổng kiểm toán. Phó tổng kiểm toán do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Tổng kiểm toán. Phó tổng kiểm toán được Tổng kiểm toán phân công phụ trách một số mặt công tác, chịu trách nhiệm trước Tổng kiểm toán về nhiệm vụ mình được phân công. Khi Tổng kiểm toán vắng mặt, một Phó tổng kiểm toán được Tổng kiểm toán uỷ nhiệm lãnh đạo công tác của Kiểm toán nhà nước. Các bộ phận trong Kiểm toán nhà nước Việt Nam được thành lập, quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức theo các quyết định của Tổng kiểm toán. Theo quyết định của Tổng kiểm toán Nhà nước ngày 01/3/2004, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận trong Kiểm toán nhà nước Việt Nam được quy định như sau: ● Vụ Tổ chức cán bộ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Tổ chức cán bộ được quy định trong Quyết định số 98/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán nhà nước: - Trong công tác tổ chức bộ máy, Vụ Tổ chức cán bộ chủ trì nghiên cứu xây dựng các đề án, chuẩn bị các văn bản qui định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Kiểm toán Nhà nước cùng các bộ phận trình Tổng Kiểm toán Nhà nước để trình cấp có thẩm quyền ban hành; đưa ra phương án thành lập, sáp nhập, giải thể các tổ chức trong cơ cấu; hướng dẫn các đơn vị thuộc và trực thuộc Kiểm toán Nhà nước thực hiện các qui định của Nhà nước và của Kiểm toán Nhà nước trong phạm vi lĩnh vực tổ chức cán bộ; - Trong công tác biên chế và tiền lương, Vụ Tổ chức cán bộ quản lí thống nhất biên chế cán bộ, công chức trong cơ cấu; tổ chức thực hiện công tác báo cáo thống kê về biên chế, tiền lương theo qui định của Nhà nước; chuẩn bị các văn bản qui định về tiêu chuẩn nghiệp vụ của các loại chức danh lãnh đạo, công chức chuyên môn nghiệp Vụ Kiểm toán theo qui định về phân cấp quản lí của Nhà nước, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt ban hành; - Trong công tác quản lí nhân sự, Vụ Tổ chức cán bộ xây dựng kế hoạch tuyển dụng, bố trí, sử dụng, thôi việc và giải quyết chính sách đối với nhân sự; xây dựng các qui định về quản lí và phân cấp trách nhiệm quản lí nhân sự phù hợp với qui định của Nhà nước; quản lí thống nhất hồ sơ nhân sự và các tài liệu có liên quan đến quá trình công tác và học tập của nhân sự; - Trong công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, Vụ Tổ chức cán bộ xây dựng và tổng hợp quy hoạch đào tạo cán bộ, công chức trình Tổng Kiểm toán Nhà nước phê duyệt; phối hợp với Trung tâm Khoa học và bồi dưỡng cán bộ thực hiện nhiệm vụ; thực hiện công tác thống kê, tổng hợp về công tác đào tạo, bồi dưỡng; chủ trì lập và phân bổ kinh phí do Ngân sách Nhà nước cấp; - Vụ Tổ chức cán bộ kiểm tra đối với công tác tổ chức cán bộ và đào tạo; phối hợp với Ban Bảo vệ chính trị nội bộ trong việc giúp Ban cán sự Đảng Kiểm toán Nhà nước xây dựng, quản lí về tiêu chuẩn chính trị đối với cán bộ, xây dựng các qui chế quản lí cán bộ, giữ gìn chính trị nội bộ; - Vụ Tổ chức cán bộ thực hiện các nhiệm vụ về công tác thi đua, khen thưởng, kỷ luật, tuyên truyền, nghiên cứu khoa học và một số nhiệm vụ khác do Tổng Kiểm toán Nhà nước giao và uỷ quyền; ● Văn phòng Kiểm toán Nhà nước. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng Kiểm toán Nhà nước được quy định trong Quyết định số 99/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán nhà nước: - Trong công tác tổng hợp, hành chính, Văn phòng xây dựng chương trình kế hoạch công tác, theo dõi tình hình thực hiện các mặt công tác của Kiểm toán Nhà nước; sắp xếp, bố trí chương trình làm việc của Lãnh đạo Kiểm toán Nhà nước Kiểm toán Nhà nước; tham mưu cho Lãnh đạo Kiểm toán Nhà nước trong việc quản lí, điều hành trong nội bộ Kiểm toán Nhà nước; hướng dẫn, kiểm tra, tổng hợp công tác của các đơn vị trong cơ cấu; tổ chức thực hiện công tác hành chính, văn thư, lưu trữ, thư viện của cơ quan; - Trong công tác hợp tác quốc tế, Văn phòng nghiên cứu trình Tổng Kiểm toán Nhà nước các đề án hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế; quản lí thống nhất các vấn đề về hợp tác quốc tế của ngành; đầu mối tiếp xúc với khách nước ngoài đến làm việc với cơ quan, quản lí thống nhất mọi mặt đoàn ra, đoàn vào; - Trong công tác thi đua, thông tin tuyên truyền, Văn phòng nghiên cứu trình Tổng Kiểm toán Nhà nước phương án, hình thức khen thưởng đối với cán bộ; quản lí thống nhất công tác thi đua, khen thưởng trong của Kiểm toán Nhà nước; nghiên cứu trình Tổng Kiểm toán Nhà nước về tổ chức và hoạt động đối với công tác thông tin tuyên truyền; - Trong công tác tài chính - kế toán, quản trị, Văn phòng giúp Tổng Kiểm toán Nhà nước xây dựng, trình Chính phủ dự toán ngân sách hàng năm của Kiểm toán Nhà nước; quản lí tài chính, đầu tư xây dựng cơ bản, chế độ kế toán, sử dụng kinh phí được cấp trong toàn cơ cấu Kiểm toán Nhà nước; tổ chức quản lí tài sản và công tác thư ký, công đoàn trong bộ máy; - Văn phòng còn thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng Kiểm toán Nhà nước giao. ● Vụ giám định và kiểm tra chất lượng kiểm toán. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Giám định và kiểm tra chất lượng kiểm toán được quy định trong Quyết định số 100/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán: - Trong công tác lập kế hoạch kiểm toán, quản lí hoạt động kiểm toán, tổng hợp và lập báo cáo kết quả kiểm toán, Vụ Giám định giúp Tổng Kiểm toán Nhà nước tổng hợp và xây dựng kế hoạch kiểm toán hàng năm của Kiểm toán Nhà nước trình Thủ tướng Chính phủ, từ đó tham mưu cho Tổng Kiểm toán Nhà nước phân giao kế hoạch kiểm toán cho các đơn vị kiểm toán; quản lí, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm toán, từ đó đề ra phương án điều chỉnh việc thực hiện kế hoạch kiểm toán; làm đầu mối cung cấp kết quả kiểm toán cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và quản lí việc công khai, phát hành báo cáo kết quả kiểm toán; tổng hợp kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán, từ đó tham mưu trong việc sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách quản lí tài chính cho phù hợp; - Trong công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên, Vụ Giám định kiểm tra các đơn vị kiểm toán, đoàn kiểm toán, kiểm toán viên trong việc chấp hành quy chế tổ chức và hoạt động, việc quản lí hồ sơ, tài liệu kiểm toán; thẩm định báo cáo kết quả kiểm toán của các đơn vị kiểm toán và tham mưu cho Tổng Kiểm toán Nhà nước thành lập Hội đồng kiểm toán; đề nghị Tổng Kiểm toán Nhà nước quyết định tạm đình chỉ công tác đối với đoàn kiểm toán hoặc tổ kiểm toán hoặc kiểm toán viên nếu xét thấy trong hoạt động kiểm toán có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc có hành động cản trở công tác kiểm toán; thông qua kết quả giám định và kiểm tra chất lượng kiểm toán đề xuất xây dựng và hoàn thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán viên, nâng cao chất lượng công tác kiểm toán; tham gia xây dựng và đề xuất ý kiến bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện quy trình, phương pháp chuyên môn nghiệp Vụ Kiểm toán trong từng lĩnh vực; - Trong công tác thanh tra, kiểm tra các công tác của Kiểm toán Nhà nước, Vụ Giám định kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao đối với các đơn vị, cá nhân thuộc Kiểm toán Nhà nước; tiếp dân và giải quyết khiếu nại tố cáo, đề xuất biện pháp xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật được làm rõ; - Vụ Giám định còn thực hiện một số nhiệm vụ và quyền hạn khác do Tổng Kiểm toán Nhà nước giao và uỷ quyền; định kỳ hoặc đột xuất báo cáo kết quả công tác cho Tổng Kiểm toán Nhà nước. ● Vụ Pháp chế. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Pháp chế được quy định trong Quyết định số 101/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán nhà nước: - Trong công tác xây dựng pháp luật, Vụ Pháp chế trình Tổng Kiểm toán Nhà nước chương trình xây dựng pháp luật của Kiểm toán Nhà nước và tổ chức thực hiện kế hoạch; chủ trì hoặc tham gia soạn thảo các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, các điều ước quốc tế trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước, làm đầu mối trong việc lấy ý kiến đối với các văn bản quy phạm pháp luật do Kiểm toán Nhà nước được giao chủ trì soạn thảo; làm đầu mối tổ chức việc xây dựng, phối hợp với các đơn vị có liên quan kiểm tra việc thực hiện quy trình và phương pháp chuyên môn nghiệp Vụ Kiểm toán; thẩm định về mặt pháp lý đối với các văn bản quy phạm pháp luật và một số văn bản khác khi được yêu cầu; chuẩn bị hồ sơ về các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; hướng dẫn các đơn vị tuân thủ quy trình, kỹ thuật soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật và văn bản khác; - Vụ Pháp chế tổ chức thực hiện công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động Kiểm toán Nhà nước, đề xuất phương án xử lý kết quả rà soát; chủ trì và phối hợp với các đơn vị liên quan đề xuất việc đình chỉ thi hành hoặc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ những văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ, ngành, địa phương và đơn vị kiểm toán ban hành trái với các văn bản quy phạm pháp luật về kiểm toán nhà nước; - Vụ pháp chế trực tiếp hoặc phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức của Kiểm toán Nhà nước; tuyên truyền pháp luật về kiểm toán nhà nước trên các phương tiện thông tin đại chúng, tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành có liên quan để phục vụ cho công tác của Kiểm toán Nhà nước, xây dựng tài liệu hỏi đáp pháp luật về tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước; - Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện pháp luật, tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật và đề xuất giải pháp tăng cường pháp chế trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước và tham gia ý kiến về việc xử lý các vi phạm pháp luật, các biện pháp khắc phục; tư vấn pháp luật về kiểm toán nhà nước; - Báo cáo kết quả công tác và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn khác do Tổng Kiểm toán Nhà nước giao và uỷ quyền. ● Kiểm toán Ngân sách Nhà nước I và II. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Kiểm toán Ngân sách Nhà nước được quy định trong Quyết định số 102/QĐ-KTNN và 103/QĐ-KTNN ngày 01/3/2004 của Tổng Kiểm toán nhà nước

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và giải pháp về mô hình tổ chức bộ máy Kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam.DOC
Tài liệu liên quan