Đề án Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế: Thực trạng và giải pháp khắc phục

MỤC LỤC

 

I. Những vấn đề lý luận cơ bản

1) Khái niệm lạm phát

2) Các loại lạm phát

3) Đo lường lạm phát

4) Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế

5) Nguyên nhân dẫn đến lạm phát

6) Những tác động của lạm phát đối với nền kinh tế và xã hội

7) Những biện pháp nhằm kiểm soát lạm phát

II. Đánh giá thực trạng hiện nay của Việt Nam

III. Quan điểm và các giải pháp khắc phục

 

 

doc16 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2700 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế: Thực trạng và giải pháp khắc phục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cụ kìm hãm sự phát triển kinh tế. Lý thuyết chi phí cho rằng lạm phát nảy sinh do mức tăng các chi phí sản xuất, kinh doanh đã nhanh hơn mức tăng năng suất lao động. Nguyên nhân của hiện tượng này là do tiền lương tăng lên, giá nguyên nhiên vật liệu tăng lên, công nghệ cũ kỹ không được đổi mới, thể chế cũng như cơ cấu kinh tế lạc hậu không được đổi mới… Giá dầu mỏ tăng cao trong những năm 70 đẩy lạm phát ở rất nhiều nước gia tăng là một minh chứng rõ ràng nhất. Vậy là khi chi phí tăng lên đến mức mà mức tăng năng suất lao động không bù đắp được mức tăng chi phí khiến cho giá cả tăng cao thì lạm phát xuất hiện. Lý thuyết cơ cấu được phổ biến ở nhiều nước đang phát triển. Theo lý thuyết này thì lạm phát nảy sinh do sự mất cân đối sâu sắc trong chính cơ cấu nền kinh tế, bao gồm mất cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa sản xuất và dịch vụ… Chính sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế đã làm cho nền kinh tế phát triển không hiệu quả, khuyến khích các lĩnh vực đòi hỏi chi phí tăng cao phát triển. Xét về mặt này lý thuyết cơ cấu trùng hợp với lý thuyết chi phí. Có rất nhiều các lý thuyết khác và các định nghĩa khác của các nhà kinh tế học về lạm phát, tuy nhiên hầu như tất cả đều thừa nhận rằng: lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế, do đó làm cho giá trị của đồng tiền giảm xuống. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá thị trường hay sự giảm sức mua của đồng tiền. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Tốc độ lạm phát được xác định bởi tốc độ thay đổi mức giá cả.Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ được người ta gọi là sự ổn định giá cả. Các loại lạm phát Căn cứ vào mức độ người ta chia lạm phát thành 3 loại: Lạm phát vừa phải: là loại lạm phát xảy ra với mức tăng chậm của giá cả được giới hạn ở mức độ một con số hay dưới 10% một năm. Trong điều kiện lạm phát vừa phải giá cả tăng chậm, ít thay đổi và được coi là ổn định. Đây là mức lạm phát khá phổ biến ở các nước TBCN phát triển. Lạm phát phi mã: là loại lạm phát xảy ra khi giá cả bắt đầu tăng với tỷ lệ hai chữ số một năm. Khi xuất hiện lạm phát phi mã, đồng tiền mất giá một cách nhanh chóng, lãi suất thực tế giảm tới mức âm, thị trường tài chính tàn lụi, người dân tránh giữ tiền mặt mà thi nhau tích trữ hàng hoá vàng bạc bất động sản. Tuy nhiên, mặc dù lạm phát phi mã có những ảnh hưởng không tốt đối với nền kinh tế, nhưng cũng có một số nước như Brazil, dù mắc chứng lạm phát phi mã mà tốc độ tăng trưởng vẫn tốt. Trường hợp này cho đến nay vẫn chưa đủ thông tin và các công trình nghiên cứu để giải thích cụ thể. Siêu lạm phát: là loại lạm phát xảy ra khi tốc độ tăng giá vượt xa mức lạm phát phi mã và vô cùng không ổn định. Khi xảy ra siêu lạm phát, tiền giấy được phát hành ồ ạt, giá cả tăng lên với tốc độ chóng mặt, không kiểm soát được. Siêu lạm phát được các nhà kinh tế học xem như là căn bệnh chết người đối với nền kinh tế. Trong thực tế đã có một vài minh chứng cho điều này, điển hình là cuộc siêu lạm phát nổ ra ở Đức năm 1920-1923. Ngoài phân loại lạm phát theo mức độ, người ta cũng có nhiều cách phân loại khác. Tuỳ theo tác động của lạm phát đối với nền kinh tế, người ta chia lạm phát thành lạm phát cân bằng có dự đoán trước và lạm phát không cân bằng không dự đoán trước được. Hay căn cứ vào quá trình bộc lộ hiện hình lạm phát người ta chia thành lạm phát ngầm và lạm phát công khai. Tuy nhiên, cách chia lạm phát theo mức độ vẫn là phổ biến nhất và chính xác nhất. Đo lường lạm phát Lạm phát được đo bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hoá và dịch vụ trong một nền kinh tế. Giá cả của các loại hàng hoá và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một mức giá cả trung bình, gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỉ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Không tồn tại một thước đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hoá trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát là: _ Chỉ số giá cả hàng tiêu dùng CPI ( Consumer Price Index ). CPI tính chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường, các nhóm chính đó là hàng lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà cửa, chất đốt, vật tư y tế. Để tính CPI, người ta phải dựa vào tỷ trọng của phần chi cho từng mặt hàng trong tổng chi tiêu cho tiêu dùng của thời kỳ có lạm phát. _ Chỉ số giá sản xuất PPI ( Producer Price Index ). Đây là chỉ số giá bán buôn. PPI được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn định. Chỉ số này rất có ích vì nó được tính chi tiết sát với những thay đổi của thực tế. _ Chỉ số giảm phát GDP: dựa trên việc tính toán tổng sản phẩm quốc nội. Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế ( GDP danh định ) với tổng giá trị của GDP năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực. Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế Lạm phát được coi là hiện tượng tất yếu của nền kinh tế đang phát triển trong khi phải đối phó với những mất cân đối mang tính cơ cấu. Các nhà khoa học tin rằng giữa lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ đánh đổi lẫn nhau. Lạm phát có thể coi là kẻ thù của tăng trưởng, tuy nhiên chúng lại là hai vấn đề luôn tồn tại song song với nhau. Mọi hoạt động kiềm chế lạm phát có xu hướng làm tăng thất nghiệp, gây ra tình trạng đình trệ sản xuất, do đó kìm hãm tăng trưởng kinh tế. Một đất nước dành ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế thì phải chấp nhận lạm phát đi kèm với nó. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát Có rất nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát, và trong thực tế cũng có một số cách phân loại lạm phát theo chính nguyên nhân gây ra nó. Dưới đây, em xin trình bày một số nguyên nhân gây ra lạm phát đã được khoa học tìm hiểu và nghiên cứu một cách cụ thể: _ Lạm phát để bù đắp những thiếu hụt về ngân sách: đây là nguyên nhân thông thường nhất, nhà nước sẽ phát hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp những thiếu hụt về ngân sách chi tiêu của nhà nước trong các lĩnh vực và để thực hiện nhu cầu khuếch trương nền kinh tế. Khi đó, vốn đầu tư và chi tiêu của Chính phủ được bù đắp bằng phát hành và bằng việc tăng mức thuế, nó sẽ làm nền kinh tế đi vào tình trạng mất cân đối vượt quá sản lượng tiềm năng của nó. Đến khi tổng mức cần của nền kinh tế vượt quá khả năng sản xuất của nó, giá cả hàng hoá tăng lên nhanh chóng sẽ dẫn đến lạm phát. _ Lạm phát do nguyên nhân chi phí: là khi chi phí sản xuất đẩy giá cả tăng lên ngay cả trong điều kiện các yếu tố sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ. Nguyên nhân này có thể do nhiều yếu tố tác động thành, như xu hướng tăng giá cả các loại hàng hoá và tiền lương công nhân trước khi nền kinh tế đạt được một khối lượng việc làm nhất định, hay do chính yếu tố cạn kiệt và khan hiếm nguồn nguyên liệu cơ bản như dầu mỏ, sắt thép… Khi đó, vốn bỏ ra sẽ kém hiệu quả, sản phẩm làm ra không tăng hoặc tăng chậm hơn so với tốc độ tăng của chi phí, khiến giá cả hàng hoá tự động tăng nhanh dẫn đến lạm phát. _ Lạm phát ỳ: là lạm phát chỉ tăng với một tỉ lệ không đổi hàng năm trong một thời gian dài. Một đất nước tồn tại lạm phát ỳ nghĩa là nền kinh tế nước đó đạt được sự cân bằng mong đợi, tỉ lệ lạm phát là tỉ lệ được trông đợi và nằm trong kết cấu biểu hiện một sự cân bằng trung hoà và nó chỉ biến đổi khi có sự biến động kinh tế xảy ra. Nếu như không có sự biến động nào thì lạm phát sẽ tiếp tục tăng theo tỉ lệ cũ. _ Lạm phát cầu kéo: xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ vượt quá mức sản lượng đã đạt hoặc vượt quá tiềm năng. Khi xuất hiện lạm phát cầu kéo, người ta nhận thấy lượng tiền đổ vào lưu thông và khối lượng tín dụng tăng đáng kể vượt quá mức cung của hàng hoá. Bản chất của hiện tượng này là chi tiêu quá nhiều tiền để mua một hay những loại hàng hoá có mức cung hạn chế trong điều kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng. _ Lạm phát chi phí đẩy ( hay còn gọi là lạm phát đình trệ ): xảy ra ngay cả khi sản lượng chưa đạt được mức tiềm năng, kể cả ở những nước phát triển cao, đó là một đặc điểm của lạm phát hiện nay. Kiểu lạm phát này là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng, tăng thêm thất nghiệp. Nguyên nhân vẫn do các cơn sốc giá của thị trường nguyên liệu đầu vào, đặc biệt là các vật tư cơ bản như xăng, điện, dầu… hay do sự tăng giá của vật tư vì thiên tai, chiến tranh, biến động chính trị. Trong trường hợp này, tuy tổng cầu không đổi nhưng cung lại giảm đáng kể, khiến giá cả tăng nhanh. Những tác động của lạm phát đối với nền kinh tế và xã hội Qua nghiên cứu cho thấy, một nền kinh tế muốn ổn định phải luôn giữ được mức lạm phát vừa phải. Nếu tồn tại mức lạm phát phi mã trong một thời gian dài hoặc trở thành siêu lạm phát thì sẽ có hậu quả khó lường đối với nền kinh tế. Nó ảnh hưởng tới mọi mặt của nền kinh tế, đặc biệt sẽ để lại một số hậu quả nghiêm trọng sau: _ Về kinh tế, lạm phát làm sai lệch các số liệu thống kê đưa đến mọi dự báo khó chính xác, mọi dự phóng trở nên nguy hại dẫn đến lệch hướng chỉ đạo và lãnh đạo, làm kích hoạt khuynh hướng thâm dụng lao động thay vì thâm dụng tư bản, đổi mới công nghệ, thay thế trang thiết bị lạc hậu, sẽ dẫn đến chi phí sản xuất cao, giá thành cao, năng suất kém, sản phẩm kém cạnh tranh, làm suy yếu năng lực cạnh tranh của quốc gia trên trường quốc tế. _ Xã hội không thể tính toán hay điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của mình một cách bình thường được do tiền tệ luôn co giãn lên xuống thất thường, không giữ được chức năng thước đo giá trị. _ Phân phối lại thu nhập làm một số người nắm giữ các mặt hàng có giá cả tăng đột biến giàu lên nhanh chóng, còn những người có các hàng hoá mà giá cả của chúng không tăng hoặc tăng chậm, cùng những người giữ tiền sẽ trở thành nghèo khó. _ Kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hoá,vàng bạc, bất động sản, gây ra tình trạng khan hiếm hàng hoá trên thị trường, làm giá cả càng được tăng cao thêm, không thể kiểm soát lại được. _ Đối với ngân hàng, lạm phát làm các hoạt động bình thường của ngân hàng bị phá vỡ, ngân hàng không thu hút được những khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội. _ Ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội của người dân, đặc biệt là công nhân viên chức. Lạm phát đẩy giá cả hàng hoá tăng cao, trong khi việc tăng lương không thể theo kịp sẽ buộc nhân dân phải giảm nhu cầu tiêu thụ hàng hoá của mình. Đồng thời trong xã hội sẽ có hiện tượng mọi người không muốn giữ và cất giữ đồng tiền mất giá, dùng tiền vào mua bất cứ mặt hàng nào thậm chí là không có nhu cầu sử dụng, gây ảnh hưởng rất lớn trong xã hội. Chính từ những ảnh hưởng xấu trên của lạm phát đối với nền kinh tế và xã hội, chúng ta đã nhận thức được tầm quan trọng của việc kiểm soát lạm phát và giữ lạm phát ở một mức vừa phải. Tuy nhiên, việc kiềm chế lạm phát không có nghĩa là phải đưa chỉ số lạm phát về mức bằng không, mà phải duy trì ổn định một mức lạm phát phù hợp với sự phát triển kinh tế, vì lạm phát không phải hoàn toàn là có hại. Nếu giữ được mức lạm phát phù hợp, nó sẽ đóng vai trò là công cụ thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng kinh tế chứ không còn là nỗi lo lắng hay mối nguy hại cho nền kinh tế nữa. Những biện pháp nhằm kiểm soát lạm phát Có rất nhiều những biện pháp đã được các nước đưa ra trong thời kỳ nền kinh tế bị khủng hoảng bởi lạm phát phi mã hay siêu lạm phát. Từ đó, các nhà chuyên môn đã rút ra được những biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu giảm tức thời “cơn sốt lạm phát”, trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài. _ Các biện pháp tình thế này thường được Chính phủ các nước áp dụng, trước hết là phải giảm lượng tiền giấy trong nền kinh tế như ngừng phát hành tiền vào lưu thông. Biện pháp này gọi là chính sách đóng băng tiền tệ. Tỷ lệ lạm phát tăng cao, ngay lập tức ngân hàng trung ương phải dùng các biện pháp có thể đưa đến tăng cung ứng tiền tệ như ngừng thực hiện các nhiệm vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng, dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, không phát hành tiền bù, đắp bội chi ngân sách Nhà nước. Áp dụng các biện pháp làm giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế như: ngân hàng trung ương bán ra các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, bán ngoại tệ và vay, phát hành các công cụ của Chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế bù đắp cho bội chi ngân sách Nhà nước, tăng lãi suất tiền gửi đặc biệt là lãi suất tiền gửi tiết kiệm dân cư. Các biện pháp này rất có hiệu lực, trong một thời gian ngắn nó có thể giảm bớt được một khối lượng khá lớn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế quốc dân, do đó giảm được sức ép lên giá cả hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. Ở Việt Nam, các biện pháp này đã được áp dụng khá thành công vào cuối những năm 80, đầu những năm 90. Thi hành “chính sách tài chính thắt chặt” như tạm hoãn những khoản chi chưa cần thiết trong nền kinh tế, cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu đến mức có thể được. Tăng quỹ hàng hoá tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu thông bằng cách khuyến khích tự do mậu dịch, giảm nhẹ thuế quan và các biện pháp cần thiết khác để thu hút hàng hoá từ ngoài vào. Đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài. Cải cách tiền tệ. Đây là biện pháp cuối cùng phải xử lý khi tỷ lệ lạm phát lên quá cao mà các biện pháp trên đây chưa mang lại hiệu quả mong muốn. _ Sau khi đã kiểm soát được lạm phát, phải tiếp tục thực hiện các biện pháp chiến lược có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, tạo ra nguồn sức mạnh kinh tế lâu dài của đất nước, làm cơ sở cho sự ổn định tiền tệ một cách bền vững. Đó là thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thông hàng hoá, chú trọng các ngành các hoạt động làm tăng thu ngoại tệ như xuất khẩu hàng hoá, phát triển du lịch… Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu thường xuyên của ngân sách Nhà nước trên cơ sở đó giảm bội chi ngân sách. Tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách Nhà nước trên cơ sở tăng các khoản thu cho ngân sách Nhà nước một cách hợp lý, chống thất thu, đặc biệt là thất thu về thuế, nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách Nhà nước. Đánh giá thực trạng hiện nay của Việt Nam Trong khi nghiên cứu về vấn đề này, các nhà kinh tế học đã cho thấy rằng tồn tại một mức ngưỡng mà dưới đó lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối tương quan dương và trên đó lạm phát gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng. Một phát kiến rất có ý nghĩa là mức ngưỡng đó khác nhau giữa các khối nước. Ở các nước công nghiệp, mức ngưỡng này rất thấp chỉ ở khoảng 1-3%, trong khi ở các nước đang phát triển mức ngưỡng này ở khoảng 7-11%. Bằng chứng thực nghiệm ở Việt Nam dường như cũng phù hợp với kết quả trên. Vào những năm 80, lạm phát đã khiến nền kinh tế lâm vào khủng hoảng. Song từ năm 1992, khi chúng ta đã kiềm chế được lạm phát tốc độ tăng trưởng kinh tế không ngừng được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 1992-1997 là 8,8%, trong khi tỷ lệ lạm phát bình quân là 9,7%. Tóm lại, cả lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế được biểu diễn bằng hình chữ “U” ngược. Điều đó hàm ý rằng ở mỗi nước tồn tại một phạm vi lạm phát an toàn khi mà lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ cùng chiều. Trong trường hợp đó, lạm phát là cái giá phải trả cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, lạm phát lên mức quá cao chắc chắn sẽ ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Trong cả hai trường hợp lạm phát quá cao hay quá thấp Chính phủ đều phải có những điều chỉnh hợp lý sao cho có lợi cho tăng trưởng kinh tế dài hạn trong khi vẫn đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Hiện nay, nước ta đang ở trong một tình trạng khá khó khăn và phức tạp. Trong khi nước ta đang chú trọng đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, lạm phát đã tăng theo một cách tự nhiên. Chỉ số lạm phát của nước ta đã lên đến mức hai con số kể từ năm 2007 và vẫn tiếp tục tăng một cách mạnh mẽ trong những tháng đầu năm 2008. Cuối năm 2007, chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam là 12,63%, và theo dự đoán của các chuyên gia kinh tế, với đà hiện nay, việc chỉ số giá tiêu dùng của năm 2008 vượt quá 12,63% sẽ không xa vời. Cũng theo tính toán, chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2008 tăng 9,19%, là quý có mức tăng cao nhất tính từ năm 1995 trở lại đây, và đã vượt xa chỉ tiêu của cả năm. Trong kế hoạch tăng trưởng kinh tế xã hội năm 2008, Việt Nam đặt mục tiêu tăng GDP 8,5-9% và giữ CPI thấp hơn mức này. Thông thường như các năm trước đây, giá tiêu dùng tháng 3 thường giảm, nhưng tháng 3 năm nay không những không giảm mà còn tăng với mức độ cao. Theo tiến sĩ Nguyễn Minh Phong, trưởng phòng nghiên cứu kinh tế, Viện nghiên cứu kinh tế xã hội Hà Nội, cho rằng, với mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng trong 3 tháng đầu năm, CPI cả năm có thể chạm mức 15%. Đó là một con số không nhỏ, và có thể nó sẽ trở thành yếu tố cản trở chính đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam trong những năm tiếp theo, nếu như Đảng và nhà nước ta không có những biện pháp đúng đắn kịp thời ngăn chặn và kiểm soát tốc độ lạm phát hiện nay. Về nguyên nhân, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó có cả nguyên nhân trong nước và quốc tế. Nền kinh tế nước ta không khỏi chịu ảnh hưởng của tình hình chung của thế giới như lạm phát giá lương thực, giá dầu tăng cao, kinh tế Mĩ suy thoái, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng quá nhanh hút mạnh các nguồn năng lượng, nguyên liệu… Thực tế cho thấy, cơn sốt giá nguyên liệu đã ảnh hưởng rất lớn đến thị trường trong nước. Với việc giá dầu trên thế giới tăng lên mức 115$/thùng làm giá tiêu dùng tăng không phải chỉ có 0,4-0,5% như dự đoán ban đầu trong tháng 3, mà cao hơn rất nhiều, vì ngoài việc tính trực tiếp còn phải xét đến ảnh hưởng gián tiếp, khi mà xăng dầu là đầu vào của hầu hết các ngành kinh tế và đời sống. Thêm vào đó, việc giá lương thực tăng cao, ở miền Nam là 10%, còn ở miền Bắc là 20-30% do thời tiết làm chết lúa chết mạ, giá vật liệu xây dựng tăng mạnh, trong đó sắt, thép, gạch tăng phi mã đã đẩy tốc độ tăng giá tiêu dùng lên mức không còn kiểm soát được. Mặt khác, do kinh tế Mĩ có xu hướng tăng trưởng chậm lại và đang trên đà suy thoái ( từ 4,5% xuống còn 3,7% năm 2007 và có xu hướng tiếp tục giảm trong năm 2008 ) nên dòng vốn đầu tư quốc tế có xu hướng chảy ngước về các nước châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam, khiến nguồn ngoại tệ đổ vào Việt Nam tăng, gây áp lực lên tỷ giá và song hành là lạm phát. Trong nước, trước áp lực tăng trưởng và trung hoà các dòng vốn nước ngoài nhằm duy trì ổn định tỷ giá đã khiến lượng tiền cung ứng của Việt Nam tăng bình quân trên 30%/năm ( riêng năm 2007 tăng trên 40% ), trong khi đó lãi suất cơ bản VND vẫn duy trì ở mức 8,25%/năm. Như vậy nếu trừ đi lạm phát của năm 2007 đã lên tới 12,6% thì lãi suất thực của VND đang là - 4,35%. Lãi suất âm khiến tín dụng tăng trưởng nóng do các nhà đầu tư tăng vay vốn ngân hàng để đầu tư hoặc đầu cơ vào nhà đất, chứng khoán,... tạo ra cơn sốt về tín dụng. Theo thống kê tốc độ tăng tín dụng của năm 2007 đã lên tới 46,4% trong khi tăng trưởng chỉ có 8,5%. Như vậy, một phần tín dụng không tạo ra giá trị tăng thêm đã tạo ra những cơn sốt bất thường trên hai thị trường bất động sản và chứng khoán đã góp phần kích hoạt giá cả tăng theo. Cùng với đó, việc giảm thuế theo cam kết WTO cũng đã khiến cho nhu cầu về các mặt hàng giảm thuế tăng lên, dẫn đến nhập khẩu tăng và đã gián tiếp đẩy giá tăng theo. Về vấn đề này, đã có nhiều cán bộ nhà nước lên tiếng phản ánh rất rõ qua báo chí, tình hình nhập siêu của nước ta đã nằm ngoài tầm kiểm soát của Bộ Công thương, khi mà mới chỉ trong 4 tháng đầu năm đã nhập siêu trên 11 tỉ USD. Với nhập siêu như vậy, sẽ không dự trữ ngoại tệ nào chịu nổi, nếu như có biến động. Trong thực tế của nước ta năm 2007, khi lạm phát tăng lên mức hai con số, Chính phủ và Nhà nước đã đưa ra và thực hiện những biện pháp nhằm làm giảm tốc độ tăng của lạm phát, tuy nhiên do chưa xác định đúng và đầy đủ nguyên nhân nên Việt Nam đã lạm dụng nhiều giải pháp tình thế, không cơ bản để chống lạm phát, dẫn đến tình trạng không hiệu quả và không kìm hãm được tỷ lệ lạm phát tăng phi mã trong năm 2008. Những chính sách không mang lại hiệu quả là do Nhà nước ta đang điều hành một nền kinh tế thiếu đồng bộ, thiếu sự phối hợp giữa các ngành, dẫn đến một số quyết định đưa ra không đúng thời điểm. Ví như việc thu hút lượng lớn USD đổ vào nền kinh tế là một cơ hội tốt đối với nền kinh tế đang cần vốn, nhưng những quyết định đi kèm theo để chống thừa USD thiếu VND thì không kịp thời và đồng bộ, hay những điều chỉnh của Bộ Tài chính như hy sinh 1000 tỉ đồng để giảm thuế đối với hàng trăm mặt hàng giữa năm 2007, đến cuối năm 2007, khi giá tiêu dùng vẫn tăng thì lại “lôi” rổ hàng hoá tính CPI ra điều chỉnh lại tỉ trọng… mà lạm phát vẫn hoàn lạm phát. Một nguyên nhân khác dẫn đến sự điều chỉnh chưa hợp lý của Chính phủ là do công tác dự báo của các bộ ngành còn yếu kém. Nguồn vốn nước ngoài được thu hút quá nhiều vào Việt Nam, một quốc gia đang được nhận định là “ngôi sao đang lên”, lên đến 20 tỉ USD trong năm 2007 và là 11 tỉ USD trong bốn tháng đầu năm 2008. Đó là một con số quá lớn, cần phải biết tận dụng thì mới đem lại hiệu quả, tuy nhiên với con số ngoại tệ lớn như vậy mà các cán bộ cao cấp của Bộ Công thương vẫn cho là vẫn nằm trong tầm kiểm soát, và không gây ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế. Lẽ ra với số vốn đó, Việt Nam đã có thể đẩy nhanh các dự án quan trọng, xây dựng một hệ thống hạ tầng cơ sở sản xuất và đẩy mạnh công nghiệp hoá một cách tích cực, thì thay vào đó, chúng đổ vào chứng khoán, đầu cơ đất đai… Theo số liệu thống kê, trong năm 2007, lượng ngoại tệ được dùng làm vốn hiện thực của Nhà nước chỉ là con số khiêm tốn 4,5 tỉ USD. Quan điểm và các giải pháp khắc phục Đối với Việt Nam hiện nay, tăng trưởng kinh tế và lạm phát đều đang ở mức cao. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải có sự chọn lựa hợp lý. Vì nếu muốn giảm tốc độ lạm phát thì chắc chắn tăng trưởng sẽ chậm lại và có thể không đạt được số liệu dự kiến đầu năm. Không thể cùng một lúc đạt được hai mục đích vừa có một chỉ số tăng trưởng kinh tế cao vừa đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát như chỉ tiêu đã đặt ra trước đây. Vấn đề này cần được nhìn nhận thẳng thắn và nhanh chóng, không nên để có những ý kiến khác nhau như hiện nay, khi có người vẫn cho rằng vẫn lấy tăng trưởng là mục tiêu quan trọng nhất, trong khi lạm phát đã dần trở thành nguyên nhân kìm hãm phát triển. Hiện nay, Chính phủ và các bộ ngành đang chứng tỏ quyết tâm kiềm chế và kiểm soát lạm phát rất cao. Có những biện pháp mới được đưa ra, tuy nhiên cần phải được thực hiện một cách đồng bộ thì chúng mới có hiệu quả. Một trong những biện pháp cần thiết nhất trong thời điểm này, khi Nhà nước đang đề cao mục tiêu chống lạm phát, là lập tức lên một dự án 10-20 dự án cần tạm hoãn hoặc thậm chí có thể huỷ bỏ nếu tình hình trở nên xấu hơn. Việc lựa chọn các dự án này sẽ dựa trên phân tích cẩn thận chi phí - lợi nhuận. Điều này sẽ làm cho tốc độ tăng trưởng kém hơn, nhưng chất lượng tăng trưởng lại cao hơn. Trong những ngày qua, Chính phủ đã nói nhiều tới việc cắt giảm đầu tư công, nhưng theo các chuyên gia kinh tế nhận định, chỉ có hành động quyết liệt như trên mới tạo tín hiệu tốt cho công cuộc chống lạm phát. Đây cũng là tiền đề để lái đầu tư công theo hướng minh bạch và có trách nhiệm giải trình hơn. Chính phủ và Nhà nước cần thực hiện tốt chính sách tiền tệ, đẩy mạnh giám sát tài chính. Cần giảm bớt cung tiền bằng cách khi vốn nước ngoài đổ vào, ngân hàng Nhà nước bỏ VND ra mua USD để tăng dự trữ ngoại tệ, nhưng lượng tiền cung ứng ra để mua USD sẽ thông qua hình thức phát hành các giấy tờ có giá như: trái phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng… sẽ giảm bớt được lượng tiền mặt trong lưu thông, hạn chế tăng giá và lạm phát. Song song với đó, ngân hàng Nhà nước nghiên cứu tăng lãi suất cơ bản phù hợp với từng thời kỳ nhằm đảm bảo cơ chế lãi suất thực dương. Để tránh gây sốc cho thị trường, ngân hàng Nhà nước cần có lộ trình đưa lãi suất lên thực dương trong năm 2008 bằng cách tăng nhiều lần, có thời gian thích hợp và thăm dò phản ứng của thị trường. Việc tăng lãi suất sẽ tác động làm giảm tín dụng nóng, giảm lạm phát vì lãi suất tăng, doanh nghiệp sẽ giảm huy động vốn qua ngân hàng mà thay vào đó là huy động vốn trên thị trường chứng khoán thông qua phát hành trái phiếu công ty và phát hành cổ phiếu. Đồng thời, nếu phải uống cùng một “liều thuốc” lãi suất như mọi doanh nghiệp khác, chứ không phải được ưu đãi về vốn vay như trước nay, các tập đoàn và công ty Nhà nước sẽ có trách nhiệm hơn trong các hoạt động đầu tư của mình để đảm bảo có lợi nhuận sau khi đã trả vốn vay. Khi đó, Nhà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế Thực trạng và giải pháp khắc phục.DOC
Tài liệu liên quan