Đề án Mối quan hệ qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG & PHÁT TRIỂN KINH TẾ 2

I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 2

1. Đầu tư 2

1.1. Khái niệm 2

1.2. Phân loại 2

2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế 3

2.1. Khái niệm 3

2.1.1. Tăng trưởng kinh tế 3

2.1.2. Phát triển kinh tế 3

2.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển 3

II. MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG & PHÁT TRIỂN KINH TẾ 4

1. Tác động của đầu tư đến tăng trưởng & phát triển kinh tế 4

1.1. Đầu tư phát triển tác động đến tổng cung của nền kinh tế 4

1.1.1. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái cổ điển: 4

1.1.2. Quan điểm tăng trưởng kinh tế của Marx (1818-1883): 5

1.1.3. Lý thuyết tăng trưởng của trường phái tân cổ điển: 5

1.1.4. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái Keynes: 6

1.1.5. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái kinh tế hiện đại: 7

1.2. Đầu tư phát triển tác động đến tổng cầu của nền kinh tế 8

1.2.1. Kích cầu trong tăng trưởng kinh tế: 8

1.2.2. Quan điểm của Keynes về đầu tư với tổng cầu: 8

1.3. Tác động của đầu tư phát triển đến tăng trưởng kinh tế 9

1.3.1. Đầu tư phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế 10

1.3.2.Tác động của đầu tư phát triển đến khoa học công nghệ 10

1.3.3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế 11

2. Tác động ngược lại của tăng trưởng và phát triển đến đầu tư 12

2.1. Tăng trưởng&phát triển kinh tế góp phần cải thiện môi trường đầu tư 12

2.2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế làm tăng tỷ lệ tích luỹ, cung cấp thêm vốn cho đầu tư: 12

2.3. Tăng trưởng kinh tế góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, năng lực công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư phát triển 12

CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VỀ MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG & PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2001 - 2007 13

I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀ TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG & PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 - 2007 13

1. Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư 13

2. Tình hình tăng trưởng & phát triển kinh tế Việt Nam từ 2001-2007 15

II. MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG & PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM 16

1. Tác động của đầu tư đến tăng trưởng & phát triển kinh tế 16

1.1. Tác động của đầu tư đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam 16

1.3. Tác động của đầu tư phát triển đến khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế 20

1.4. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế 23

1.5. Đầu tư góp phần giải quyết các vấn đề xã hội 24

2. Tác động ngược lại của tăng trưởng & phát triển kinh tế đến đầu tư 26

2.1. Tăng trưởng & phát triển kinh tế góp phần cải thiện môi trường đầu tư 26

2.2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế làm tăng tỷ lệ tích luỹ, cung cấp thêm vốn cho đầu tư 29

2.3. Tăng trưởng kinh tế góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, năng lực công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư phát triển 30

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG & PHÁT TRIỂN KINH TẾ 32

I. MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM ĐẾN 2010 32

1. Mục tiêu phát triển kinh tế Việt Nam đến 2010: 32

2. Phương hướng đầu tư đến năm 2010 32

II. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ NHẰM THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG & PHÁT TRIỂN KINH TẾ 32

1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và bố trí kế hoạch đầu tư 32

2. Phân bổ và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả 33

2.1. Nguồn vốn trong nước 33

2.1.1. Vốn ngân sách nhà nước 33

2.1.2. Nguồn vốn từ dân cư và tư nhân 34

2.2. Nguồn vốn từ nước ngoài (gồm ODA và FDI) 35

3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng suất lao động 35

4. Đổi mới và hoàn thiện chính sách đầu tư vào công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh 36

5. Đổi mới công tác quản lý, kiểm tra, giám sát trong lĩnh vực đầu tư 37

III. GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠO ĐIỀU KIỆN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN 38

1. Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng nhằm thu hút đầu tư 38

1.1. Giải pháp thu hút đầu tư từ nguồn vốn trong nước 38

1.1.1.Chính sách tài chính: 38

1.1.2. Chính sách tiền tệ và tín dụng: 39

1.2. Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng nhằm tạo điều kiện thu hút đầu tư từ nước ngoài 40

1.1.1.Giải pháp thu hút nguồn vốn ODA 40

1.1.2.Giải pháp thu hút nguồn vốn FDI 40

2. Áp dụng chặt chẽ các biện pháp về quản lý môi trường. 43

KẾT LUẬN 44

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 45

 

 

 

doc48 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 4827 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Mối quan hệ qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và FDI. Với mức thu hút vốn chiếm 45,6 % GDP, hệ số sử dụng vốn (ICOR) của Việt Nam năm 2007 khoảng gần 5 (tức là để tăng 1 đơn vị GDP thì cần tăng thêm 5 đơn vị vốn đầu tư). Hệ số này cao hơn rất nhiều so với của Trung Quốc cách đây 10 năm (ICOR Trung Quốc giai đoạn 1991-1993 là 4,1). Với cùng với tỷ lệ đầu tư so với GDP tương đương với Việt Nam, Trung Quốc đạt được mức tăng trưởng 9-10%, trong khi Việt Nam chỉ có thể duy trì ở mức khoảng 8%. Nếu so sánh với các nước Đông Bắc Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan thì hệ số ICOR của Việt Nam còn cao hơn rất nhiều. Bảng 4: Đầu tư, tăng trưởng và hệ số ICOR của một số nước châu Á Nước và vùng lãnh thổ Đầu tư (%GDP) Tăng trưởng GDP (%) ICOR Việt Nam(00-07) 38,0 7,6 5,0 Trung Quốc(91-03) 39,1 9,5 4,1 Đài Loan (81-90) 21,9 8,0 2,7 Hàn Quốc (81-90) 29,6 9,2 3,2 Nhật Bản (61-70) 32,6 10,2 3,2 Nguồn : www.fpts.com Thông thường, chỉ số ICOR của các nước chỉ 2 - 3/1, chỉ số ICOR Việt Nam xấp xỉ 5 là quá cao và là sự cảnh báo về tăng trưởng thiếu bền vững do sử dụng vốn đầu tư chưa hiệu quả . Việc sử dụng vốn đầu tư không hiệu quả ở nước ta hiện nay là do các nguyên nhân sau: - Cơ chế phân bổ và sử dụng vốn đầu tư, đăc biệt vốn đầu tư công bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước còn chưa hợp lý. - Thất thoát lãng phí trong việc sử dụng vốn đầu tư Quan hệ giữa ICOR và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong thời gian qua được thể hiện trong hình dưới đây: 1.2. Tác động của việc sử dụng vốn đầu tư đến chất lượng tăng trưởng kinh tế thông qua việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế Có thể đánh giá tác động của việc sử dụng vốn đầu tư trên một số góc độ sau: Đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành * Tích cực - Đầu tư cho công nghiệp gia tăng & chiếm tỷ trọng lớn - Ưu tiên đầu tư cho một số ngành sản xuất cơ bản tạo thế và đà cho sự phát tăng trưởng kinh tế - Có những cải thiện đáng kể trong đầu tư phát triển nông nghiệp & nông thôn * Hạn chế: - Đầu tư cho nông nghiệp còn chưa thoả đáng Trong cơ cấu nông nghiệp : Nông nghiệp thuần tuý vẫn là cơ bản : 83,2% Thuỷ sản chỉ chiếm : 10,5% Lâm nghiệp : 6,3 - Đầu tư cho công nghiệp chỉ chủ yếu tập trung tăng công suất, chưa chú ý đến chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ chưa quan tâm đúng mức - Đầu tư cho dịch vụ chưa chú trọng & phát huy được các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao, chưa đáp ứng được nhu cầu hội nhập. Đầu tư cho khoa học công nghệ, giáo dục, đào tạo, y tế vẫn chưa thoả đáng như thể hiện trong bảng. Với mức đầu tư thấp như vậy, những chuyển biến cơ bản về chất lượng là khó đạt được và việc chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại hoá cũng vẫn còn nhiều thách thức. Bảng 5: Cơ cấu đầu tư phân theo ngành kinh tế Đơn vị : % Năm 2000 2003 2004 2005 2006 2007 Nông nghiệp 13,8 8,5 7,9 7,5 7,4 6,5 Công nghiệp 39,2 41,3 42,8 42,6 42,2 43,5 Dịch vụ 47,0 50,2 49,3 49,9 50,4 50,0 Nguồn: Tính toán theo số liệu từ niên giám thống kê năm 2007 Đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ * Tích cực - Bước đầu phát huy được lợi thế vùng, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá - Xây dựng được các vùng kinh tế trọng điểm, chiếm 50% GDP, 75–80% giá trị gia tăng sản phẩm công nghiệp, 60-65% giá trị sản phẩm dịch vụ của cả nước. (Bảng 7) * Hạn chế - Đầu tư giữa các vùng còn mất cân đối - Mối liên kết giữa các vùng còn chưa cao - Hiệu lực và hiệu quả của công tác quy hoạch còn chưa cao Bảng 6: Tỷ trọng vốn đầu tư của 3 vùng kinh tế trọng điểm trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội Đơn vị : % Vùng kinh tế 2001 2002 2003 Cả nước 100 100 100 Ba vùng kinh tế trọng điểm 53,62 53,83 54,12 Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 20,08 19,95 19,40 Vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung 5,31 5,20 5,22 Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam 28,23 28,68 29,50 Nguồn : Viện chiến lược phát triển, Bộ KH và ĐT Đầu tư với chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế * Kết quả - Nguồn vốn đầu tư đã được đa dạng hoá - Cơ chế bao cấp trong đầu tư phát triển từng bước được hạn chế và xoá bỏ - Vốn nhà nước chủ yếu tập trung vào các mục tiêu chủ yếu của kế hoạch * Hạn chế - Đầu tư của khu vực nhà nước vẫn chưa hiệu quả, thất thoát lãng phí còn phổ biến - Thị trường vẫn chưa phát triển 1.3. Tác động của đầu tư phát triển đến khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Các kết quả khảo sát cho thấy, so với 4 – 5 năm trước đây, trình độ công nghệ và đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp đã có chuyển biến tích cực. Một lượng vốn đầu tư không nhỏ đã được rót vào việc nhập khẩu cũng như nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ trong thời gian qua. Riêng trong năm 2006, nguồn vốn đầu tư được bỏ ra cho hoạt động khoa học công nghệ đã là 2,536 tỷ đồng. Tuy chỉ chiếm 1,37% tổng vốn đầu tư nhưng nó cũng tạo ra cho Việt Nam một bước tiến dài trong việc nghiên cứu, tiếp thu công nghệ. Một số khu công nghệ cao đã lần lượt ra đời như: Khu công nghệ cao Thành Phố Hồ Chí Minh, Khu công nghệ cao Hòa Lạc... Hệ thống thông tin liên lạc ngày càng được hoàn thiện, viễn thông và công nghệ thông tin phát triển không ngừng với ngày càng nhiều vốn được rót vào từ cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước, đặc biệt giờ đây Việt Nam đã có thể xuất khẩu phần mềm với doanh số 110 triệu đôla năm 2006. Qua đó ta có thể thấy, đi cùng sự gia tăng mạnh mẽ đầu tư vào nền kinh tế Việt Nam là sự phát triển vũ bão của năng lực công nghệ quốc gia. Tuy nhiên, nhận thức về đầu tư đổi mới công nghệ còn hạn chế, cơ chế chính sách cho đầu tư đổi mới công nghệ chưa hoàn thiện và đồng bộ. “Khi doanh nghiệp Việt Nam đi được 10 mét thì công nghệ thế giới đã vượt chặng đường 20 mét rồi”. Điều đó giải thích vì sao chỉ số tăng trưởng của ta so với thời gian trước vượt bậc mạnh mẽ, nhưng so với các nước lại tụt hậu trên bảng xếp hạng thế giới. Kết quả điều tra cho thấy mức độ hiện đại của các doanh nghiệp như sau: 39% thuộc về những năm 1980 57% thuộc về những năm 1990 10% thuộc về thời kì 1970 Trong đó, 70% công nghệ chỉ đạt mức đồng bộ trung bình, 7% là chắp vá. Điều này dẫn đến mức độ làm chủ công nghệ trong hầu hết các doanh nghiệp ở mức rất thấp, hầu hết còn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu và thiết bị công nghệ nhập khẩu. Hầu hết các doanh nghiệp tiến hành đổi mới công nghệ mang tính thụ động do yêu cầu trong quá trình sản xuất mà chưa có kế hoach dài hạn. Thêm vào đó, phương thức tiến hành chủ yếu là bắt chước, thiết kế lại của nước ngoài (52%), nhập khẩu công nghệ (56%), còn mối quan hệ với các cơ quan nghiên cứu khoa học là rất yếu (31% do hợp tác với trong nước và 8% hợp tác với nước ngoài), và thuê tư vấn trong nước rất ít (5%). Đi sâu vào phân tích, có thể thấy rằng cơ chế chính sách thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ còn nhiều bất cập. Khi sức ép hội nhập đang ngày càng lớn thì những nhân tố mang tính ngoại cảnh của nhà nước, của thị trường tạo được tiền đề lớn cho doanh nghiệp. Với thang điểm 5 về ý nghĩa quyết định, thì các chính sách của nhà nước chỉ đạt mức trung bình (2,6điểm); quy định thuế (2,9 điểm); ưu đãi vốn (3,1 điểm), môi trường đầu tư (2,9 điểm).... Trong khi đó, các yếu tố bên trong doanh nghiệp như nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm (4,1 điểm), nâng cao năng suất lao động (4,1 điểm), đa dạng hoá cạnh tranh (3,9 điểm), mở rộng thị trường xuất khẩu (3,1 điểm). Về phía nhà nước, có thực tế là, thủ tục xét duyệt đối tượng hưởng ưu đãi vẫn phức tạp, rườm rà, còn chứa đựng nhiều yếu tố tiêu cực, các chính sách không phù hợp hoặc chưa thực sự hấp dẫn các doanh nghiệp. Trong khi đó, còn quá nhiều rào cản được coi là có “ý nghĩa quyết định” đến quá trình đầu tư đổi mới công nghệ. Đứng đầu là thiếu vốn (3,7), thiếu thông tin công nghệ (3,3), thiếu thông tin thị trường (3,3), sợ rủi ro đầu tư (2,7) và nhiều nhất là đối mặt với những phức tạp, khó khăn về thủ tục, chính sách. Nhìn tổng thể, so sánh các tiêu chí của Việt Nam với Thái Lan và Trung Quốc cho thấy giữa công nghệ nước ta và hai nước trong khu vực này có khoảng cách rõ rệt. Diễn đàn Kinh tế thế giới xếp hạng về công nghệ của Việt Nam đứng thứ 92/104 nước, trong khi Thái Lan là 43, Trung Quốc là 62, trong đó chỉ số sáng tạo lần lượt là 79, 37 và 70; chỉ số công nghệ thông tin la 86, 55 và 62; chỉ số chuyển giao công nghệ là 66, 4 và 37. Từ thực tế trên thấy rằng cơ chế chính sách sử dụng vốn có ảnh hưởng rất lớn đến đầu tư đổi mới công nghệ và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam thời gian qua. Năng lực cạnh tranh quốc gia thấp và khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực có xu hướng tăng. Việt Nam hiện đang ở trong tình trạng năng lực cạnh tranh thấp và có xu hướng tụt hạng so với thời kỳ trước năm 1996. Vào năm 2003, Việt Nam đứng thứ 60 trên thế giới về năng lực cạnh tranh, tăng 5 bậc so với năm 2002, nhưng giảm 7 bậc so với thứ hạng 53 của năm 2000 và giảm 21 bậc so với thứ hạng năm 1998. Năm 2006, Việt Nam xếp thứ 77/125 quốc gia, tụt 3 hạng so với năm 2005. Nếu so sánh năng lực cạnh tranh của Việt Nam với một số nước ASEAN, thì Singapore xếp thứ 26, Thái Lan xếp thứ 35, Indonesia xếp thứ 50, Philipin xếp thứ 71, Campuchia xếp thứ 103. Như vậy, Việt Nam chỉ xếp trên Campuchia. Các nước Lào, Brunây, Mianma chưa được xếp hạng về năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam thấp thể hiện ở một số điểm sau: - Chất lượng và khả năng cạnh tranh về mặt quản lý còn yếu kém. Đội ngũ chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế về kỹ năng và kiến thức quản lý. - Năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao làm yếu khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. So sánh giữa sản phẩm trong nước với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia... thì các sản phẩm sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam có giá thành cao hơn từ 1,58 đến 9,25 lần mặc dù giá nhân công lao động thuộc loại thấp so với các nước trong khu vực. - Năng lực cạnh tranh về tài chính vẫn còn yếu kém. Quy mô vốn và năng lực tài chính của nhiều doanh nghiệp còn rất nhỏ bé, vừa kém hiệu quả, vừa thiếu tính bền vững. - Nhận thức và sự chấp hành luật pháp của các doanh nghiệp còn hạn chế. - Sự yếu kém về thương hiệu đã góp phần làm giảm khả năng cạnh tranh. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được các thương hiệu mạnh, chưa khẳng định được uy tín và khả năng của mình. Năng lực cạnh tranh thấp và có xu hướng tụt bậc này cho thấy, Việt Nam đang đứng trước rất nhiều nguy cơ có thể bị tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trước yêu cầu của hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải nâng cao khả năng cạnh tranh thì mới có đủ sức để đứng vững trên thương trường. Trong đó, năng lực của các nhà quản lý doanh nghiệp là một trong những nhân tố quan trọng nhất. Doanh nhân ngày nay cần có những năng lực tổng hợp, đặc biệt chú trọng bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng về xây dựng và phát triển thương hiệu, về chiến lược cạnh tranh. 1.4. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế Vấn đề phát triển con người và phát triển nguồn nhân lực là một trong những vấn đề được quan tâm nhiều nhất ở nước ta hiện nay. Đất nước đang bước vào một giai đoạn phát triển mới với rất nhiều cơ hội và thách thức, nhưng với thực trạng nguồn nhân lực, nếu không được đầu tư một cách hiệu quả, rất có thể nền kinh tế của chúng ta sẽ trở nên lạc hậu so với thế giới. Lao động là yếu tố dồi dào nhất của Việt Nam, hiện lại đang có xu hướng dư thừa bởi số người đến độ tuổi bổ sung vào đội quân lao động hằng năm vẫn khá lớn (hơn 1 triệu người). Tuy nhiên, yếu tố này đã không được sử dụng hiệu quả để tạo ra tăng trưởng GDP lớn hơn. Nguồn nhân lực của nước ta đã không được sử dụng hết, thậm chí lãng phí. Cụ thể là: + Tỷ lệ thất nghiệp tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao. + Tỷ lệ lao động được đào tạo (tốt nghiệp đại học, cao đẳng và dạy nghề) không có việc làm hoặc việc làm không đúng chuyên môn còn rất lớn, gây lãng phí rất nhiều về chi phí đào tạo của gia đình và xã hội, dẫn đến cơ cấu lao động mất cân đối, thừa thầy thiếu thợ. Nhiều lao động trẻ được đào tạo, có trình độ kỹ thuật, có sức khỏe vẫn bị thất nghiệp. Ngoài ra, chương trình đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Học sinh học lý thuyết nhiều, nhưng khả năng vận dụng thực tiễn rất yếu. Học sinh chuyên các ngành khoa học cơ bản không được khuyến khích nên thiếu hụt nghiêm trọng. Như vậy, nguồn lực năng động nhất, cũng là lợi thế phát triển quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững của Việt Nam đang bị lãng phí rất lớn, khó phục vụ hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế. Vì thế, năng suất lao động của Việt Nam hiện rất thấp so với các nước trong khu vực. 1.5. Đầu tư góp phần giải quyết các vấn đề xã hội Đầu tư góp phần xoá đói giảm nghèo Với chính sách đổi mới, mở cửa và kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định về tăng trưởng kinh tế với mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Năm 1999, Việt Nam được Ngân hàng Thế giới đánh giá là một trong những điển hình về xoá đói giảm nghèo trên thế giới. Dưới đây là tỷ lệ hộ nghèo phân theo thành thị, nông thôn & phân theo vùng Bảng 7 : Tỷ lệ hộ nghèo phân theo thành thị, nông thôn & phân theo vùng Đơn vị : % Năm 2004 2006 2007 Cả nước 18,1 15,5 14,8 Phân theo thành thị - nông thôn Thành thị 8,6 7,7 7,4 Nông thôn 21,2 18 17,7 Phân theo vùng lãnh thổ Đồng bằng sông Hồng 12,9 10,1 9,6 Đông Bắc 23,2 22,2 21,4 Tây Bắc 46,1 39,4 38,1 Duyên hải Nam Trung Bộ 21,3 17,2 16,3 Tây Nguyên 29,2 24,0 23,0 Đông Nam Bộ 6,1 4,6 4,1 Đồng bằng sông Cửu Long 15,3 13 12,4 Nguồn : Niên giám thống kê 2007 Đầu tư góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp Tính riêng giai đoạn 2001-2006, giai đoạn tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh với sự ra đời của hàng loạt các khu công nghiệp, các nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí... tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam đã giảm từ 6,42% xuống chỉ còn 4,82%. Có thể dễ dàng nhận thấy điều này qua bảng số liệu dưới đây: Bảng 8 : Tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2007 Năm Vốn đầu tư (Ngàn tỷ) Tỷ lệ thất nghiệp (%) 2001 170,5 6,28 2002 200,1 6,01 2003 239,2 5,78 2004 290,9 5,60 2005 343,1 5,31 2006 404,7 4,82 2007 521,7 4,64 Nguồn : Niên giám thống kê 2007 Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp đã giảm xuống đáng kể, nhưng nhìn chung vẫn còn cao. Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói của một bộ phận dân cư và sau đó phân hoá giàu nghèo trong xã hội. Với thành quả tăng trưởng kinh tế từ khi thực hiện đổi mới, mỗi năm hàng triệu việc làm mới được tạo ra. Tuy nhiên, do tăng trưởng chủ yếu về mặt số lượng nên chưa đáp ứng được yêu cầu, cơ cấu lao động mới vẫn chưa chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Lao động trong lĩnh vực nông nghiệp (bao gồm cả nông, lâm, ngư nghiệp) chiếm đến 66,1 %, mới giảm được 7 % so với thời kỳ đầu đổi mới, bình quân mỗi năm chỉ giảm được khoảng 0,6 %. Với tốc độ này, đến năm 2010 tỷ lệ lao động trong nông nghiệp vẫn chiếm khoảng trên 60% (mục tiêu đặt ra cho năm 2010 là 60 %). Tỷ lệ lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng mới chỉ chiếm 12,9 %, chỉ tăng khoảng 1,7% so với năm 1990. Với tốc độ chuyển dịch chậm chạp như vậy thì đến năm 2010 tỷ lệ này cũng sẽ chỉ đạt khoảng 15 %, thấp xa so với mục tiêu đặt ra cho năm 2010 là 26-27 %. Phân hoá giàu nghèo và phân phối thu nhập chưa đảm bảo công bằng còn do chênh lệch năng suất lao động giữa các khu vực sản xuất chủ yếu còn rất đáng kể. Bình quân năng suất lao động khu vực nông nghiệp chỉ đạt khoảng 4,5 triệu đồng/năm, trong khi năng suất lao động của hai khu vực công nghiệp và dịch vụ đã đạt 28,7 triệu đồng/năm gấp 6,5 lần khu vực nông nghiệp. Chất lượng tăng trưởng thấp còn thể hiện trên cả khía cạnh chất lượng lao động chậm được cải thiện. Hiện vẫn còn tới 80% lực lượng lao động chưa qua đào tạo. Cơ cấu lao động được đào tạo cũng chưa thật hợp lý: theo số liệu của năm 2002, số học sinh học nghề, công nhân kỹ thuật là 370,8 nghìn, trong khi số học sinh trung học là 225,4 nghìn, còn lại là sinh viên đại học và cao đẳng với con số 899,5 nghìn. Tình trạng “ Thừa thầy thiếu thợ” trong cơ cấu đào tạo vẫn là gánh nặng của nền kinh tế, trong đó, có nguyên nhân do sự yếu kém trong công tác quy hoạch và chính sách đầu tư còn chưa hợp lý. 2. Tác động ngược lại của tăng trưởng & phát triển kinh tế đến đầu tư 2.1. Tăng trưởng & phát triển kinh tế góp phần cải thiện môi trường đầu tư Trong hơn 20 năm thực hiện công cuộc Đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Vai trò và vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế  không ngừng được củng cố và tăng cường. Ngay trong năm 2007, năm thứ hai thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường và phát triển bền vững. Chính sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế đã tạo ra hành lang pháp lý và môi trường đầu tư thuận lợi, mở cửa cho các hoạt động đầu tư mới ở Việt Nam. Điều này thể hiện trên một số khía cạnh sau : Thứ nhất, sự ra đời và hoàn thiện luật đầu tư nước ngoài đã góp phần thúc đẩy lượng vốn đầu tư vào Việt Nam Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam trỗi dậy nhờ thực hiện chủ trương Đổi mới sau một thời gian dài lâm vào khủng hoảng trầm trọng, Chính phủ Việt Nam đã kiên trì thực hiện lộ trình cải cách luật pháp tạo ra một sân chơi bình đẳng cho tất cả mọi thành phần kinh tế, trong đó điều đặc biệt có ý nghĩa quan trọng là Việt Nam coi đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế đa thành phần. Sự thay đổi về tư duy và nhận thức này chi phối toàn bộ hành vi ứng xử đối với đầu tư nước ngoài. Từ một Luật Đầu tư nước ngoài áp dụng riêng cho các nhà đầu tư nước ngoài, kể cả những quy định phân biệt đối xử giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, từng bước Việt Nam hoàn thiện hệ thống luật pháp và tiến đến ban hành trong năm 2005 một bộ Luật Đầu tư thống nhất áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với Luật này Việt Nam đã tạo ra một môi trường đầu tư bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh theo cơ chế thị trường đối với tất cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Luật Đầu tư và các quy định của Chính phủ cam kết không quốc hữu hoá và trưng thu tài sản của nhà đầu tư (trừ trường hợp vì lợi ích công cộng, song có bồi thường công bằng, thoả đáng), bảo đảm nguyên tắc mở cửa thị trường trong các ngành sản xuất và dịch vụ phù hợp với lộ trình quy định tại các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, trong đó có các cam kết của Việt Nam khi ra nhập WTO. Thí dụ, dịch vụ bảo hiểm, Việt Nam cam kết cho phép nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm nước ngoài được thành lập công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên WTO và được quyền cung cấp các dịch bảo hiểm bắt buộc kể từ ngày 01/01/2008,…Nhà đầu tư nói chung và nhà đầu tư chiến lược nói riêng thường nhìn xa trông rộng, không chỉ vì những lợi ích trước mắt mà họ muốn làm ăn lâu dài, do vậy những cam kết lộ trình như vậy tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam. Luật Doanh nghiệp ban hành năm 2005 là một Luật duy nhất áp dụng chung cho cả các doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây thật sự là bước đột phá cho các nhà đầu tư nước ngoài có thể lựa chọn loại hình doanh nghiệp để kinh doanh dưới sự bảo trợ của Luật này. Điều quan trọng là Luật Doanh nghiệp không phân biệt đối xử đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng trong việc tiếp cận đất đai, nguồn tài chính và lao động cũng như được hưởng các ưu đãi đầu tư như nhau.Những đạo luật mà Việt Nam đã ban hành, những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã chấp nhận phù hợp với chủ trương, chính sách đổi mới đất  nước, do vậy Việt Nam có cam kết chính trị rất cao để triển khai thực hiện trong thực tế. Hơn nữa, Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, do vậy việc thực hiện các quy định của luật pháp là tất yếu. Đối với nhà đầu tư, điều quan trọng là lường trước những rủi ro trong các hoạt động kinh doanh của mình, do vậy Việt Nam bảo đảm tính ổn định của pháp luật, nếu những quy định sau ưu đãi hơn quyết định trước thì nhà đầu tư được hưởng những quy định ưu đãi hơn không tuỳ thuộc vào văn bản đã ký trước đó. Về lĩnh vực đầu tư, Việt Nam quy định nhà đầu tư có thể bỏ vốn vào bất kỳ lĩnh vực nào mà luật pháp không cấm. Hình thức đầu tư đã không ngừng đuợc cải thiện từ hình thức liên doanh là chủ yếu, nay đã có thêm nhiều hình thức mới như mua lại và sáp nhập (M&A), mua cổ phần, góp vốn để tham gia quản lý xí nghiệp hoặc đầu tư gián tiếp. Loại hình doanh nghiệp cũng đuợc mở rộng đáng kể, không chỉ giới hạn ở hình thức thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn mà có thể áp dụng các hình thức khác như công ty cổ phần, công ty hợp doanh,... Có thể nói chưa bao giờ nhà đầu tư ở Việt Nam đứng trước những cơ hội rộng lớn như hiện nay để thực hiện ý tưởng chiến lược và kế hoạch đầu tư của mình. Xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế thấp, lại trải qua nhiều năm trong cơ chế kế hoạch tập trung, bao cấp, Việt Nam phải vượt qua nhiều khó khăn để thắng sức ỳ của thói quen và tâm lý trong quá trình cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Hiện nay, cơ chế một cửa đã được thiết lập ở hầu hết các cơ quan Trung ương, các tỉnh và thành phố trong việc giải quyết các thủ tục hành chính như thủ tục gia nhập thị trường đã được tinh giản đáng kể, cho phép doanh nghiệp đa dự án và mở rộng diện áp dụng chế độ đăng ký thay cho cấp phép và ứng dụng công nghệ thông tin để cải tiến mạnh mẽ quy trình và thủ tục này. Trong quá trình thực hiện đầu tư, những tranh chấp giữa các bên có thể xảy ra, tuy không mong muốn song không thể loại trừ. Để khắc phục tình trạng này, Việt Nam đã đề ra cơ chế giải quyết tranh chấp để nhà đầu tư lựa chọn trọng tài trong nước hoặc trọng tài quốc tế với mục đích bảo đảm tốt nhất quyền lợi cho các nhà đầu tư.Trong giai đoạn phát triển hiện nay đang diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau và với doanh nghiệp nước ngoài. Trong cuộc cạnh tranh này, môi trường đầu tư mà Nhà nước tạo ra là yếu tố tiên quyết. Chính phủ Việt Nam đã làm tất cả để môi trường Đầu tư ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, thông thoáng, minh bạch hơn và cạnh tranh hơn. Riêng hai năm 2006 và 2007, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng vượt bậc với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn, chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp nặng và dịch vụ.Vốn đầu tư nước ngoài theo cơ cấu ngành, vùng cũng có những thay đổi tích cực. . Mặc dù cơ hội thu hút đầu tư đang mở rộng, song Việt Nam hiện còn gặp nhiều khó khăn, thách thức liên quan đến hạ tầng kinh tế còn nhiều yếu kém; chi phí sản xuất gia tăng trong bối cảnh giá cả gia tăng chưa có dấu hiệu suy giảm; khan hiếm lao động có tay nghề và cán bộ có trình độ quản lý tiên tiến; tổ chức và cán bộ ở các địa phương còn nhiều bất cập; thủ tục hành chính còn nhiều phức tạp, gây phiên hà, nhũng nhiễu nhà đầu tư và doanh nghiệp. Thứ hai, nền kinh tế chính trị Việt Nam ổn định tạo môi trường đầu tư an toàn cho các nhà đầu tư Trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới có nhiều biến động, Việt Nam vẫn được đánh giá là một trong những quốc gia nền kinh tế chính trị ổn định. Mặc dù các thế lực thù địch vẫn luôn chờ cơ hội để chống phá cách mạng Việt Nam, nhưng với sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc và các chính sách tôn giáo mềm dẻo, linh hoạt, Việt Nam vẫn giữ vững ổn định chính trị xã hội, tạo môi trường hoà bình, thuận lợi cho hoạt động đầu tư nói riêng và các hoạt động kinh tế nói chung. Một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam, Nhật Bản khẳng định Việt Nam có đầy đủ khả năng để thu hút đầu tư của Nhật Bản, đó là nhờ yếu tố con người, chất lượng nguồn nhân lực, sự ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Trong số 10 nước Đông Nam Á, Việt Nam được coi là nước có môi trường đầu tư thuận lợi nhất ở khía cạnh ổn định chính trị và xã hội. Con người Việt Nam luôn có thái độ hợp tác chân thành và muốn làm bạn với tất cả các nước. Đó là điều cơ bản và then chốt để họ khẳng định niềm tin hợp tác với Việt Nam. 2.2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế làm tăng tỷ lệ tích luỹ, cung cấp thêm vốn cho đầu tư Khi nền kinh tế phát triển thì nó sẽ tác động đến tất cả các mặt của đời sống xã hội, trong đó nhân tố chịu ảnh hưởng rất lớn và trực tiếp từ sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế là “ Nguồn vốn đầu tư”. Nguồn vốn đầu tư là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết đến hiệu quả của hoạt động đầu tư ở mỗi một quốc gia. Nguồn vốn đầu tư có dồi dào thì hoạt động đầu tư mới đạt được hiệu quả cao và ngược lại. Đứng trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, thì ngồn vốn đầu tư được chia thành nguồn vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Trong phần dưới đây chúng ta chúng ta

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDE TAI NHOM 3 DA SUA.doc
  • ppt3.ppt
Tài liệu liên quan