MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN I: KHÁI NIỆM CHUNG 3
1. Rủi ro kiểm toán. 3
1.1. Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và rủi ro kinh doanh. 3
1.2. Rủi ro tiềm tàng( Inherent Risk) - IR 5
1.3. Rủi ro kiểm soát( Control Risk) – CR 7
1.4. Rủi ro phát hiện( Detection Risk) - DR 10
1.5. Mô hình rủi ro kiểm toán. 11
2. Trọng yếu. 13
PHẦN II: MỐI QUAN HỆ GIỮA RỦI RO KIỂM TOÁN, TRỌNG YẾU VÀ GIÁ PHÍ KIỂM TOÁN 16
1. Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và giá phí kiểm toán. 16
1.1. Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và trọng yếu. 16
1.2. Mối quan hệ giữa giá phí kiểm toán và bằng chứng kiểm toán. 17
1.3. Mối quan hệ giữa rủi ro, trọng yếu và giá phí kiểm toán. 18
2. Ảnh hưởng cạnh tranh giá phí kiểm toán đến rủi ro kiểm toán, trọng yếu và chất lượng cuộc kiểm toán của các Công ty kiểm toán nhỏ ở Việt Nam. 20
3. Một số ý kiến đề xuất. 21
KẾT LUẬN 23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2372 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Mối quan hệ rủi ro kiểm toán, trọng yếu và giá phí kiểm toán đối với Công ty kiểm toán độc lập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cơ quan chức năng liên quan cần phải chú trọng để có thể đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tránh để tình trạng thiếu hụt nặng nề về nhân lực cũng như chất lượng kiểm toán. Vì điều nay có thể làm chậm tốc độ phát triển thậm chí có thể gây khủng hoảng kinh tế.
1.2. Rủi ro tiềm tàng( Inherent Risk) - IR
Theo chuẩn mực kiểm toán số 400 rủi ro tiềm tàng là “rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ”.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng, nhưng ta có thể xem xét trên các nhân tố cụ thể sau:
+ Nhân tố từ phía Ban giám đốc doanh nghiệp (khách hàng)
Sự liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu biết của Ban Giám đốc cũng như sự thay đổi thành phần Ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán. Nếu Ban giám đốc không liêm khiết việc thông đồng với kế toán hoặc ép kế toán phải ghi chép sai sự thật về tình hình tài chính của Công ty việc này rất khó phát hiện do có sự hợp lý hóa các chứng từ, sổ sách từ trên xuống dưới. Trong trường hợp này kiểm toán viên phải đánh giá khả năng xảy ra các sai phạm trọng yếu. Hoặc khi Ban giám đốc theo đuổi các biện pháp làm tăng lợi nhuận cho cổ phiếu phát hành trên thị trường chứng khoán họ sẽ có động thái để làm đẹp báo cáo tài chính. Do vậy kiểm toán viên cần phải tăng mức độ rủi ro tiềm tàng và cần xem cẩn trọng các khoản mục, nghiệp vụ trên báo cáo tài chính. Cuối cùng là thái độ hợp tác của nhà quản lý, nếu giữa kiểm toán viên và nhà quản lý có sự bất đồng, nhà quản lý không tích cực hợp tác thì kiểm toán viên cùng cần phải đánh giá trọng yếu ở mức cao.
+ Đặc điểm của ngành và hoạt động của Công ty.
Trong một doanh nghiệp rủi ro kiểm soát thấp hay cao phụ thuộc vào hệ thống kiểm soát nội bộ của Công ty đó. Nhưng trong một cuộc kiểm toán nếu xem xét hình thức hoạt động của doanh nghiệp theo tiêu thức tập trung và phân tán kiểm toán viên thường đánh giá các Công ty hoạt động theo hình thức tập trung hoặc gần nhau có mức rủi ro tiềm tàng thấp hơn khi các Công ty hoạt động theo hình thức phân tán. Ngoài ra, nếu công ty nhỏ, mới thành lập hay ít được biết đến kiểm toán viên cần phải tìm kiếm các thông tin về Công ty thông qua ngân hàng địa phương hoặc các cơ quan quản lý vì khả năng xảy ra rủi ro tại những Công ty này rất cao.
Kết quả hoạt động của các doanh nghiệp rất nhạy cảm với các nhân tố kinh tế như: sự thay đổi tỉ giá hối đoái, các sản phẩm được Nhà nước bảo hộ, các chính sách của Nhà nước…Khi đó, nhà quản lý có thể sẽ có những động thái làm sai lệch báo cáo tài chính. Do vậy, mức độ rủi ro tiềm tàng sẽ tăng lên.
Nhân tố ngành cũng cung cấp cho kiểm toán viên những thông tin hữu ích cho việc đánh giá rủi ro tiềm tàng. Trước tiên, xác định vị thế của Công ty trong ngành, từ đó kiểm toán viên có thể đánh giá mức độ lợi nhuận tương đối của Công ty tương ứng với thị phần trên thị trường. Thứ hai, cần xác định tỉ suất tăng trưởng của ngành, các ngành có tỉ lệ tăng trưởng mạnh thường có rủi ro tiềm tàng cao hơn. Cuối cùng, cần đánh giá vị trí của ngành trong toàn bộ nền kinh tế. Những ngành nhỏ thường có khả năng xảy ra các sai phạm trọng yếu về báo cáo tài chính hơn các ngành lớn và có vị trí quan trọng trong nền kinh tế.
+ Trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ:
Báo cáo tài chính có thể chứa đựng những sai sót, như: Báo cáo tài chính có những điều chỉnh liên quan đến niên độ trước; báo cáo tài chính có nhiều ước tính kế toán, hoặc trong năm tài chính có sự thay đổi chính sách kế toán. Trong trường hợp này kiểm toán viên nên đánh giá tăng rủi ro tiềm tàng.
Việc xác định số dư và số phát sinh của các tài khoản và nghiệp vụ kinh tế, như: Số dư các tài khoản dự phòng, nghiệp vụ kinh tế đối với chi phí phát sinh sau ghi nhận ban đầu TSCĐ tính vào chi phí hay tính tăng nguyên giá TSCĐ,...;
Mức độ dễ bị mất mát, biển thủ tài sản, như: phát sinh nhiều nghiệp vụ thu, chi tiền mặt, tạm ứng tiền với số lượng lớn, thời gian thanh toán dài...;
Mức độ phức tạp của các nghiệp vụ hay sự kiện quan trọng đòi hỏi phải có ý kiến của chuyên gia, như: xảy ra kiện tụng hoặc trộm cắp,...;
Việc ghi chép các nghiệp vụ bất thường và phức tạp, đặc biệt là gần thời điểm kết thúc niên độ;
Các nghiệp vụ kinh tế, tài chính bất thường khác.
1.3. Rủi ro kiểm soát( Control Risk) – CR
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 hệ thống kiểm soát nội bộ là “hệ thống kiểm soát nội bộ: Là các qui định và các thủ tục kiểm soát do đơn vị được kiểm toán xây dựng và áp dụng nhằm bảo đảm cho đơn vị tuân thủ pháp luật và các qui định, để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót; để lập báo cáo tài chính trung thực và hợp lý; nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của đơn vị. Hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán và các thủ tục kiểm soát”.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 rủi ro kiểm soát là “rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời”.
Các yếu tố cơ bản của hệ thống kiểm soát nội bộ: Môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán, thủ tục kiểm soát, kiểm toán nội bộ.
Môi trường kiểm soát: Là những nhận thức, quan điểm, sự quan tâm và hoạt động của thành viên Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc đối với hệ thống kiểm soát nội bộ và vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ trong đơn vị.
Môi trường kiểm soát có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của các thủ tục kiểm soát. Môi trường kiểm soát mạnh sẽ hỗ trợ đáng kể cho các thủ tục kiểm soát cụ thể. Tuy nhiên môi trường kiểm soát mạnh không đồng nghĩa với hệ thống kiểm soát nội bộ mạnh. Môi trường kiểm soát mạnh tự nó chưa đủ đảm bảo tính hiệu quả của toàn bộ hệ thống kiểm soát nội bộ.
Hệ thống kế toán: Là các qui định về kế toán và các thủ tục kế toán mà đơn vị được kiểm toán áp dụng để thực hiện ghi chép kế toán và lập báo cáo tài chính.
Thủ tục kiểm soát: Là các quy chế và thủ tục do Ban lãnh đạo đơn vị thiết lập và chỉ đạo thực hiện trong đơn vị nhằm đạt được mục tiêu quản lý cụ thể.
Theo Liên đoàn kế toán quốc tế, kiểm toán nội bộ là “một hoạt động đánh giá được lập ra trong một doanh nghiệp như một loại dịch vụ cho doanh nghiệp đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát thích hợp và hiệu quả của hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ”.
Trước tiên, kiểm toán viên phải tìm hiểu về hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng. Hệ thống kiểm soát nội bộ có tồn tại hay không? Nếu tồn tại thì nó có hiệu lực không? Và có được thực hiện kiểm soát thường xuyên, liên tục hay không? Rủi ro kiểm soát được đánh giá thông qua sự hiểu biết về thống kiểm soát nội bộ. Nếu hệ thống kiểm soát vận hành hữu hiệu thì rủi ro kiểm soát được đánh gía thấp và ngược lại.
Sau đó kiểm toán viên tiến hành đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát cho từng mục tiêu kiểm soát cụ thể. Công việc này được tiến hành riêng rẽ cho từng loại nghiệp vụ kinh tế cụ thể theo các bước sau:
- Nhận diện các mục tiêu kiểm soát mà theo đó quá trình đánh giá vận dụng.
- Nhận diện các quá trình kiểm soát đặc thù.
- Nhận diện và đánh giá các nhược điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ.
- Đánh giá rủi ro kiểm soát.
Đánh giá ban đầu có thể sử dụng yếu tố định tính là thấp, trung bình, cao hoặc sử dụng tỷ lệ phần trăm. Đây là công việc mang tính chất định tính do vậy đòi hỏi kiểm toán viên phải có trình độ.
Mức độ rủi ro kiểm soát ban đầu sẽ được chỉnh sửa cho hợp lý sau khi kiểm toán viên tiến hành các thủ nghiệm kiểm soát ở giai đoạn tiếp theo của cuộc kiểm toán.
Trong một số trường hợp để hạn chế rủi ro tiềm tàng, Ban giám đốc đã thiết lập các thủ tục kiểm soát. Khi đó, rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Do vậy kiểm toán viên phải tiến hành đánh giá đồng thời cả rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát khi xác định mức rủi ro phát hiện.
Kiểm toán viên có thể quyết định đánh giá mức rủi ro kiểm soát là lớn nhất bởi vì họ cho rằng các chính sách hoặc cac thủ tục kiểm soát không hiệu quả mà do vậy không thể đảm bảo các thông tin tài chính chính xác. Ngoài ra, kiểm toán viên cũng có thể đánh giá mức rủi ro kiểm soát lớn nhất nếu họ tin rằng việc thực hiện các thủ nghiệm cơ bản hiệu quả hơn việc thực hiện các thủ tục kiểm soát chi tiết kiểm soát nội bộ.
Khi kiểm toán viên đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức thấp hơn mức cao nhất, nghĩa là họ đã quyết định dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng. Họ sẽ sử dụng hệ thống kiểm soát nội bộ để giảm bớt các thủ nghiệm cơ bản.
1.4. Rủi ro phát hiện( Detection Risk) - DR
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 rủi ro phát hiện là “rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không phát hiện được”.
Rủi ro phát hiện có thể phân chia thành: Rủi ro chọn mẫu và rủi ro do kiểm toán viên không phát hiện ra sai sót.
Rủi ro chọn mẫu là do trong thực tế với nguồn kinh phí có hạn và thời gian thực hiện ngắn kiểm toán viên không thể kiểm tra tất cả các khoản mục, nghiệp vụ trên báo cáo tài chính. Do vậy kiểm toán viên chỉ có thể kiểm tra một phần của tổng thể và suy rộng ra toàn bộ. Nghĩa là sẽ có trường hợp mẫu chọn không đại diện cho tổng thể, dẫn đến kiểm toán viên không thể phát hiện ra sai phạm và có kết luận kiểm toán không chính xác.
Rủi ro do kiểm toán viên không phát hiện được sai sót là rủi ro xảy ra khi kiểm toán viên áp dụng sai thủ tục kiểm soát hoặc hiểu sai kết quả kiểm toán. Rủi ro không phát hiện sai sót có thể xảy ra ngay cả khi kiểm toán viên kiểm tra 100% tổng thể. Tuy nhiên rủi ro này có thể được hạn chế bằng cách đào tạo đội ngũ kiểm toán viên, thực hiện lập kế hoạch kiểm toán một cách chi tiết, hợp lý và phân công những kiểm toán viên có kinh nghiệm giám sát chặt chẽ các trợ lý kiểm toán và các kiểm toán viên có năng lực yếu.
Bằng cách sử dụng mô hình rủi ro kiểm toán, các kiểm toán viên đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát để xác định mức rủi ro phát hiện. Tuy nhiên, kiểm toán viên không nên dựa hoàn toàn vào những đánh giá trước đó để thực hiện các hiện các thử nghiệm cơ bản. Bởi vì những đánh giá định tính của kiểm toán viên không thể đảm bảo độ chính xác. Trong trường hợp kiểm toán viên phát hiện ra bằng chứng cho thấy rằng mức độ rủi ro tiềm tàng và kiểm soát ban đầu là không chính xác thì kiểm toán viên nên đánh giá lại phạm vi của các thủ tục đã thực hiện. Và nếu bằng chứng đó chỉ rằng rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đã được đánh giá quá thấp thì kiểm toán viên nên tiến hành thêm các thủ tục kiểm toán nhằm đạt được mức rủi ro phát hiện mong muốn.
1.5. Mô hình rủi ro kiểm toán.
Chuẩn mực kiểm toán chỉ ra rằng kiểm toán viên nên lập kế hoạch thu thập để có thể đạt được mức rủi ro kiểm toán mong muốn nhưng lại không cung cấp những hướng dẫn cụ thể để có thể đánh giá mức độ rủi ro kiểm toán. Do vậy, xác định rủi ro kiểm toán và sử dụng mô hình kiểm toán phụ thuộc rất lớn vào kiểm toán viên.
Mô hình kiểm toán có thể được sử dụng để đánh giá không chỉ cho toàn bộ báo cáo tài chính mà còn có thể sử dụng cho từng khoản mục, nghiệp vụ. Mô hình kiểm toán dùng để đánh giá báo cáo tài chính được phản ánh như sau:
AR = IR × CR × DR
Trong đó:
AR: là rủi ro kiểm toán
IR: là rủi ro tiềm tàng
CR: là rủi ro kiểm soát
DR: là rủi ro phát hiện
Mô hình rủi ro kiểm toán tuy đơn giản nhưng có ý nghĩa rất lớn cho kiểm toán viên trong việc lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán sao cho hợp lý và đủ để bảo đảm duy trì rủi ro phát hiện ở mức thấp cho phép. Vận dụng mô hình trên kiểm toán viên có thể đưa ra bảng xác định mức rủi ro phát hiện để có thể dễ dàng thực hiện các cuộc kiểm toán.
Từ mô hình trên ta có công thức tính rủi ro phát hiện như sau:
DR =
Các loại rủi ro có thể đánh giá cụ thể bằng các con số theo tỉ lệ phần trăm hoặc được đánh giá khái quát theo yếu tố định tính như “thấp”, “trung bình”, “ cao”. Dưới đây là bảng xác định mức rủi ro phát hiện theo yếu tố định tính.
Bảng xác định mức rủi ro phát hiện
Đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro kiểm soát
Cao
Trung bình
Thấp
Đánh giá của kiểm toán toán viên về rủi ro tiềm tàng
Cao
Tối thiểu
Thấp
Trung bình
Trung bình
Thấp
Trung bình
Cao
Thấp
Trung bình
Cao
Tối đa
Trong đó:
Mỗi loại rủi ro kiểm soát và rủi ro tiềm tàng đều được chia thành các mức rủi ro: thấp, trung bình, cao;
Loại rủi ro phát hiện được chia thành các mức: tối thiểu, thấp, trung bình, cao, tối đa;
Vùng tô đậm thể hiện mức độ rủi ro phát hiện.
2. Trọng yếu.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 và 320 trọng yếu “là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin hoặc một số liệu trong báo cáo tài chính”.
Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hay thông tin đó thiếu chính xác thì sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính. Mức độ trọng yếu tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của thông tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng yếu của thông tin phải được xem xét cả trên tiêu chuẩn định lượng và định tính.
Trọng yếu, xét trong quan hệ với nội dung kiểm toán, là khái niệm chung chỉ rõ tầm cỡ và tính hệ trọng của phần nội dung cơ bản của kiểm toán có ảnh hưởng đến tính đúng đắn của việc nhận thức, đánh giá đối tượng kiểm toán và việc sử dụng thông tin đã đánh giá đó để đưa ra quyết định quản lý. Trên góc độ của người sử dụng thông tin, nói một cách giản đơn, một thông tin quan trọng và cần phải được trình bày nếu có khả năng ảnh hưởng tới quyết định của người sử dụng.
Rõ ràng thực trạng hoạt động tài chính cũng như hiệu quả nghiệp vụ là vấn đề rất rộng và trên thực tế không thể kiểm toán được tất cả các thông tin đã thu được và chưa thu được của hoạt động tài chính và nghiệp vụ phải kiểm toán. Hơn nữa, người sử dụng cũng chỉ quan tâm tới bản chất của thực trạng tài chính và hiệu quả hoạt động. Điểm gặp nhau giữa kiểm toán và quản lý này dẫn tới tính tất yếu phải lựa chọn nội dung kiểm toán tối ưu vừa đánh giá đúng bản chất của đối tượng kiểm toán, vừa đáp ứng kịp thời nhu cầu của người quan tâm với giá phí kiểm toán thấp trên cơ sở thực hiện tốt chức năng kiểm toán.
Vấn đề này chỉ giải quyết trên cơ sở lựa chọn đúng và đủ những điểm cốt yếu, cơ bản,…phản ánh bản chất của đối tượng kiểm toán. Điều đó, cũng đồng nghĩa với việc có thể lược bỏ những vấn đề không cơ bản, không bản chất và từ đó ảnh hưởng tới việc nhận thức đầy đủ và đúng đắn đối tượng kiểm toán. Ngược lại, nếu bỏ qua những điểm cốt yếu trong khi hướng chú ý nhiều vào những điểm không có vị trí xứng đáng và không thuộc bản chất của đối tượng sẽ có những nhận thức sai đối tượng và từ đó có quyết định sai trong quản lý. Giải quyết tốt mối quan hệ này chính là chìa khóa tháo gỡ sự cách biệt về kì vọng giữa nhưng người quan tâm.
Để giải các yêu cầu trên, trong khái niệm trọng yếu đã báo cáo tài chính hàm hai mặt liên quan tới nhận thức đối tượng: Qui mô hay tầm cơ (mặt lượng) và vị trí hay tính hệ trọng (mặt chất) của phần nội dung cơ bản.
Về qui mô: Rất nhiều kế toán viên và kiểm toán viên mong muốn có một bản chỉ dẫn ban hành để định hướng rõ cụ thể về mặt lượng đối với tính trọng yếu. Tuy nhiên, trong kiểm toán khó có thể ấn định con số cụ thể về tầm cỡ chô những điểm cốt yếu của nội dung kiểm toán, đặc biệt khi có yếu tố tiềm ẩn. Vì vậy, ranh giới giữa quy mô khác nhau của đối tượng kiểm toán được xét chủ yếu trong mối quan hệ với mức độ ảnh hưởng của các khoản mục, các nghiệp vụ đến kết luận kiểm toán từ đó, tới việc ra quyết định của người sử dụng thông tin đã được kiểm toán.
Cũng có khi kiểm toán viên sử dụng con số tuyệt đối để đánh giá tính trọng yếu. Một con số tuyệt đối là số thể hiện mức quan trọng mà không cần cân nhắc thêm bất cứ yếu tố nào khác. Song rất ít kiểm toán viên sử dụng con số tuyệt đối như một tiêu chuẩn để đánh giá tính trọng yếu vì với một con số cụ thể, giả sử 10.000 USD, có thể trọng yếu đối với Công ty này nhưng lại là quá nhỏ đối với Công ty khác.
Ngoài ra, khi xem xét qui mô tính trọng yếu kiểm toán viên cần chú ý không chỉ quy mô tuyệt đối hay tương đối mà còn phải cân nhắc ảnh hưởng lũy kế của đối tượng xem xét. Chẳng hạn, có nhiều sai phạm khi xem xét chúng một cách riêng rẽ thì không đủ trọng yếu do qui mô nhỏ. Nhưng nếu kiểm toán viên cộng dồn tất cả những sai phạm sẽ phát hiện sự liên quan và tính hệ thống của sai phạm và khi đó phát hiện tính trọng yếu của chúng.
Về tính chất: Khái niệm trọng yếu gắn liền với tính hệ trọng của vấn đề xem xét. Một yếu tố định tính quan trọng cần xem xét đó là bản chất khoản mục hoặc vấn đề đang được đánh giá.
PHẦN II
MỐI QUAN HỆ GIỮA RỦI RO KIỂM TOÁN, TRỌNG YẾU VÀ GIÁ PHÍ KIỂM TOÁN
1. Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và giá phí kiểm toán.
1.1. Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và trọng yếu.
Trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán việc đánh giá trọng yếu là rất quan trọng, việc đánh giá này có thể giúp kiểm toán viên định hình các mức trọng yếu cụ thể cho từng khoản mục nghiệp vụ và xác định áp dụng thủ tục chọn mẫu hay phân tích. Hơn nữa việc đánh giá này còn giúp kiểm toán viên xác định các kĩ thuật kiểm toán thích hợp và cách thức phối, kết hợp các kĩ thuật đó với nhau để có thể đạt được mức rủi ro mong muốn. Do vậy kiểm toán viên phải xem xét kĩ lưỡng các nhân tố có thể làm phát sinh sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính.
Trong một cuộc kiểm toán nói chung và kiểm toán tài chính nói riêng, mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau: mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại mức trọng yếu càng thấp thì rủi ro kiểm toán càng cao. Kiểm toán viên phải cân nhắc đến mối quan hệ này khi xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán một cách thích hợp, như: khi lập kế hoạch kiểm toán, nếu kiểm toán viên xác định mức trọng yếu có thể chấp nhận được là thấp thì rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên.
Việc đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán của kiểm toán viên ở các thời điểm khác nhau có thể khác nhau. Mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán ban đầu có thể sẽ khác so với các thời điểm khác do sự phát sinh trong quá trình kiểm toán thực tế hoặc sự thay đổi về sự hiểu biết của kiểm toán viên về đơn vị được kiểm toán dựa trên kết quả kiểm toán đã thu thập được, như trường hợp lập kế hoạch kiểm toán trước khi kết thúc năm tài chính, kiểm toán viên đã đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán căn cứ trên dự tính trước kết quả hoạt động và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Do vậy, nếu đến cuối năm tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có sự thay đổi đáng kể kiểm toán viên phải xác định lại mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán cho phù hợp...
Xác định rủi ro và trọng yếu là việc rất phức tạp, đòi hỏi kiểm toán viên phải có trình độ, kinh nghiệm và hiểu biết về môi trường kinh doanh, loại hình hoạt động, tình hình hoạt động của khách hàng... Ở Việt Nam hiện nay đã có một số Công ty xây dựng được quy trình ước lượng trọng yếu và rủi ro. Tuy nhiên, do đối tượng kiểm toán rất đa dạng, phong phú nên việc áp dụng không phải dễ dàng. Hơn nữa, với mỗi loại hình kinh doanh, và quy mô sản xuất đòi hỏi những mức độ trong yếu cũng như khả năng xảy ra rủi ro là khác nhau. Do vậy, quy trình vẫn dừng lại ở mức hướng dẫn chi tiết hơn. Công việc đánh giá chính vẫn đòi hỏi rất lớn vào trình độ, kinh nghiệm của kiểm toán viên.
1.2. Mối quan hệ giữa giá phí kiểm toán và bằng chứng kiểm toán.
Mối quan hệ giữa giá phí kiểm toán với chi phí để thu thập các bằng chứng kiểm toán là mối quan hệ giữa doanh thu và chi phí trong doanh nghiệp. Do vậy, nếu mức giá phí kiểm toán thấp mà các khoản mục đòi hỏi chi phí kiểm toán cao thì kiểm toán viên phải sẽ buộc phải giảm số lượng bằng chứng thu thập để đảm bảo lợi ích của Công ty kiểm toán. Họ không thể thực hiện các kĩ thuật và thủ tục một cách đầy đủ nếu chi phí bỏ ra để thực hiện lớn hơn số tiền mà họ nhận được do cung cấp dịch vụ kiểm toán. Ngược lại, nếu với mức giá phí thu được cao họ có thể thực hiện thu thập đầy đủ số lượng các bằng chứng và đảm bảo hiệu lực của những bằng chứng đó.
Tuy nhiên mối quan hệ giữa bằng chứng kiểm toán và giá phí kiểm toán cần được đặt trong quan hệ với lợi ích của cả Công ty kiểm toán và khách hàng kiểm toán. Công ty kiểm toán muốn có được các hợp đồng kiểm toán còn khách hàng luôn muốn mức chi phí là nhỏ nhất. Do vậy, yêu cầu đặt ra là phải làm sao thu thập được bằng chứng đầy đủ, hiệu lực nhưng chi phí thấp nhất.
Thông thường để có được bằng chứng kiểm toán đầy đủ với chi phí kiểm toán thấp nhất, kiểm toán viên bắt đầu với trắc nghiệm đạt yêu cầu qua trắc nghiệm phân tích đến trắc nghiệm độ tin cậy trong trắc nghiệm công việc và trắc nghiệm trực tiếp số dư. Trong một số trường hợp trắc nghiệm công việc có thể được thực hiện trước nếu như hợp đồng kiểm toán và việc thực hiện hợp đồng kiểm toán được thực hiện trước khi lập báo cáo tài chính.
Tuy nhiên, chất lượng của bằng chứng kiểm toán không chỉ phụ thuộc vào giá phí kiểm toán mà còn phụ thuộc vào trình độ và kinh nghiệm của kiểm toán viên. Nếu kiểm toán viên có trình độ chuyên môn cao thì có thể giảm thiểu chi phí kiểm toán bởi việc kết hợp các phương pháp kĩ thuật kiểm toán hiệu quả. Hơn nữa, với trình độ và kinh nghiệm kiểm toán viên có thể ước tính sai sót chính xác hơn giúp công việc kiểm toán diễn ra nhanh chóng, thuận lợi giảm các chi phí phát sinh.
1.3. Mối quan hệ giữa rủi ro, trọng yếu và giá phí kiểm toán.
Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán, trọng yếu và giá phí kiểm toán là mối quan hệ gắn bó hữu cơ. Hiểu rõ mối quan hệ trên sẽ giúp cho kiểm toán xác định nhưng bước công việc tư khi tiếp nhận thư mời đến khi thực hiện một cách hiệu quả và kinh tế. Ta có thể dễ dàng nhận thấy rủi ro kiểm toán và trọng yếu là mối quan hệ ngược chiều theo lý luận bên trên.
Mặt khác, rủi ro kiểm toán và chi phí kiểm toán cũng có mối quan hệ tỉ lệ nghịch. Vì trong chi phí kiểm toán thì chi phí mà kiểm toán viên tiến hành để thu thập bằng chứng kiểm toán chiếm một tỉ trọng lớn. Do vậy, muốn có được rủi ro kiểm toán ở mức thấp hơn thì kiểm toán viên sẽ phải tiến hành những thủ tục kiểm toán phức tạp hơn, phạm vi rộng hơn và thời gian kéo dài hơn. Điều này tất yếu sẽ dẫn đến chi phí thu thập bằng chứng kiểm toán cao hơn hay làm cho chi phí kiểm toán cao hơn và ngược lại.
Biểu đồ mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và bằng chứng kiểm toán (chi phí).
Số lượng bằng chứng kiểm toán(Chi phí)
Mức rủi ro kiểm toán
Rủi ro đạt tới
Rủi ro mong muốn
Hơn nữa, theo phân tích trong phần trước chi phí kiểm toán không thể vượt quá mức giá phí kiểm toán để đảm bảo lợi ích cho Công ty kiểm toán. Do vậy khi chi phí kiểm toán tăng thì Công ty kiểm toán tất yếu sẽ phải tăng mức giá phí để tránh thua lỗ. Do vậy, rủi ro kiểm toán chịu sự chi phối của giá phí kiểm toán.
Qua đó, ta thấy rõ ràng là trọng yếu và giá phí kiểm toán là những nhân tố quyết định rủi ro kiểm toán mà cụ thể ở đây là rủi ro phát hiện. Sự tác động tổng hợp của trọng yếu và giá phí kiểm toán sẽ tạo ra mức rủi ro trong cuộc kiểm toán. Trọng yếu được áp đặt bởi sự hiểu biết, kinh nghiệm của kiểm toán viên về đối tượng kiểm toán còn giá phí kiểm toán lại liên quan đến lợi ích của Công ty kiểm toán nói chung và kiểm toán viên nói riêng. Do vậy, mối quan hệ giữa lợi ích và sự hiểu biết của kiểm toán viên sẽ quyết định đến rủi ro kiểm toán, chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính.
2. Ảnh hưởng cạnh tranh giá phí kiểm toán đến rủi ro kiểm toán, trọng yếu và chất lượng cuộc kiểm toán của các Công ty kiểm toán nhỏ ở Việt Nam.
Hiện nay, tại thị trường Việt Nam, Các Công ty kiểm toán nhỏ xuất hiện nhanh chóng làm cho thị trường kiểm toán toán trở nên sôi động. Tuy nhiên, số người quan tâm hay số người sử dụng báo cáo tài chính đã kiểm toán để đưa ra quyết định đầu tư đang tăng nhanh nhưng chưa thực sự nhiều. Do vậy, chất lượng của báo cáo tài chính chưa thực sự ảnh hưởng lớn và rộng rãi. Chính vì thế các doanh nghiệp không muốn bỏ ra một số tiền lớn để thực hiện kiểm toán trong khi lợi ích của nó mang lại không nhiều và các kiểm toán viên cũng chưa thấy rõ được trách nhiệm của mình khi đưa ra các kết luận kiểm toán. Do vậy, để cạnh tranh tồn tại các Công ty kiểm toán nhỏ đã giảm giá phí đến mức rất thấp để giành giật khách hàng. Sự cạnh tranh không lành mạnh này đã ảnh hưởng gián tiếp đến chất lượng của báo cáo kiểm toán. Chất lượng kiểm toán có thể bị ảnh hưởng theo hai hướng.
Thứ nhất, để vẫn đưa ra ý kiến kiểm toán chính xác kiểm toán viên giảm rủi ro phát hiện bằng cách áp đặt quy mô trọng yếu cao hơn để có thể xảy ra ít sai sót trong quá trình kiểm toán. Như vậy, chất lượng ý kiến kiểm toán không cao do vậy sẽ rất rủi ro các người sử dụng báo cáo tài chính trong việc ra quyết định đầu tư. Do chưa có được sự thống nhất giữa các kiểm toán viên về trọng yếu. Sai phạm đến mức độ nào thì là trọng yếu? Ảnh hưởng có báo cáo tài chính đến mức độ nào sẽ làm thay đổi quyết định đầu tư của họ? Những vấn đề trên chỉ mang tính chất tương đối. Do hiện nay
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36024.doc