MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
CHƯƠNG1- TỔNG QUANG VỀ CẠNH TRANH 2
I- Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 2
1. Khái niệm và đặc điểm vận động của thị trường 2
2. Quan niệm về cạnh tranh 2
3. Phân loại cạnh tranh 3
II- Doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh 3
1. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 3
2. Những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 3
3. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 5
4. Một số công cụ cạnh tranh chủ yếu của các doanh nghiệp 6
CHƯƠNG 2 - THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM 8
I- Vai trò và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam 8
1. Vai trò của ngành dệt may 8
2. Đặc điểm 8
II- Thực trạng của ngành dệt may Việt Nam 9
III- Những vấn đề tồn tại trong hoạt động kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam 12
1. Triển vọng, khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam 12
2. Những vấn đề tồn tại 15
CHƯƠNG 3- MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM 19
1. Một số biện pháp chung 19
2. Phương hướng và biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh 21
Kết luận 24
Tài liệu tham khảo 25
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1396 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của người tiêu dùng.
2. Đặc điểm :
Công nghiệp dệt may đã có ở Việt Nam khoảng một thế kỷ nay. Theo một số tài liệu ghi chép thì sự phát triển chính thức của ngành công nghiệp dệt may này bắt đầu từ khi khu công nghiệp dệt Nam Định được thành lập vào năm 1889. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, ngành công nghiệp này phát triển nhanh hơn, đặc biệt là ở miền Nam, tại đây các hãng dệt may với máy móc hiên đại của Châu Âu đã được thành lập. Trong thời kỳ này, tại miền Bắc, các Doanh nghiệp Nhà nước sử dụng thiết bị Trung Quốc, Liên Xô và Đông Âu cũng đã được thành lập. Mặc dù từ những năm 1970, sau khi thực hiện công cuộc đổi mới thì thời kỳ phát triển quan trọng hướng về xuất khẩu mới bắt đầu.
Công nghiệp dệt may có những đặc điểm cơ bản sau :
- Về tiêu thụ: Trong buôn bán thế giới, sản phẩm của ngành dệt may là một trong những hàng hoá đầu tiên tham gia vào mậu dịch quốc tế. Hàng dệt may có những đặc trưng riêng biệt ảnh hưởng rất nhiều đến sản xuất và buôn bán. Một số đặc trưng đó là :
+ Hàng dệt may có yêu cầu phong phú và đa dạng tuỳ thuộc vào đối tượng tiêu dùng - người tiêu dùng khác nhau sẽ có nhu cầu rất khác nhau về trang phục.
+ Hàng dệt may mang tính thời trang cao, phải thường xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng được nhu cầu thích đổi mới, độc đáo và gây ấn tượng của người tiêu dùng.
+ Vấn đề nhãn mác cũng là một trong những đặc trưng nổi bật trong buôn bán hàng dệt may trên thế giới. Mỗi nhà sản xuất cần tạo được nhãn hiệu hàng hoá của riêng mình, đó thường là sự chứng nhận chất lượng hàng hoá và uy tín của người sản xuất.
+ Trong buôn bán các sản phẩm dệt may cần chú ý đến yếu tố thời vụ, phải căn cứ vào chu kỳ thay đổi thời tiết trong năm ở từng khu vực thị trường mà cung cấp hàng hoá cho phù hợp.
- Về sản xuất : Công nghiệp dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn, vốn đầu tư ban đầu không quá lớn nhưng lại có tỷ lệ lãi cao. Chính vì vậy, sản xuất dệt may thường phát triển mạnh và có hiệu quả rất lớn đối với các nước đang phát triển và đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. Như vậy, không có nghĩa là sản xuất dệt may không còn tồn tại ở những nước công nghiệp phát triển mà thực tế ngành này tiến đến giai đoạn cao hơn, sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
- Về thị trường : Các sản phẩm dệt may là một trong những mặt hàng được bảo hộ chặt chẽ. Trước khi Hiệp định về hàng dệt may - kết quả quan trọng của vòng đàm phán Uruguay ra đời và phát huy tác dụng, việc buôn bán quốc tế các sản phẩm dệt may được điều chỉnh theo các thể chế thương mại đặc biệt và nhờ đó phần lớn các nước nhập khẩu thiết lập các hạn chế số lượng để hạn chế hàng dệt may nhập khẩu. Mặt khác, mức thuế phổ biến đánh vào hàng dệt may còn cao hơn so với các hàng hoá công nghiệp khác. Tất cả những rào cản đó ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và buôn bán hàng dệt may thế giới.
II. Thực trạng của ngành dệt may Việt Nam :
Theo ước tính, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2000 có thể đạt 1650 – 1700 triệu USD, tăng 22% so với năm 1999. Với tốc độ phát triển của ngành dệt may như hiện nay thì việc đạt kim ngạch xuất khẩu từ 2000 – 2150 triệu USD vào năm 2002 là có thể trở thành hiện thực.
Hiện nay, hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu sang hơn 40 nước trên thế giới. Trong đó, xuất khẩu sang các nước EU chiếm 34% đến 38% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta. Trong 9 tháng đầu năm 1999, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tại thị trường hạn ngạch chiếm khoảng 39% tăng hơn 3% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó kim ngạch sang EU chiếm tới 80% trong tổng thị trường có hạn ngạch.
Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký kết ngày 15/12/1992 và có hiệu lực từ 1/1/1993 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong phát triển ngành dệt may nước ta, thể hiện rõ trong kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU liên tục tăng trong giai đoạn 1993-1997 (tốc độ tăng bình quân hơn 20%/năm), tiếp đến là hiệp định buôn bán dệt may Việt Nam – EU giai đoạn 1998 – 2000 được ký kết ngày 17/11/1997 cho phép nâng hạn ngạch dệt may từ Việt Nam sang EU tăng lên 40% so với giai đoạn 5 năm 1993-1997 với mức tăng trưởng 3%-6%/năm.
Từ 1995 trở lại đây, trong những thị trường lớn nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam, loại thị trường cần hạn ngạch gồm có 10 nước, trong đó có 9 nước thuộc EU. Những nước trong EU nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam là Đức (40%-45%), Pháp (12%-14%), Anh (7%-9%), Hà Lan (10%-14%), Bỉ (4%-5%), Italia (6%-7%),…
Trong những năm qua, thực trạng của ngành dệt may Việt Nam được tổng hợp qua ngững vấn đề sau :
1. Về sản lượng :
Số liệu có được chỉ ra rằng ngành công nghiệp dệt may chiếm khoảng 9% tổng sản lượng công nghiệp năm 1996, thấp hơn năm 1990. Mặc dù ngành dệt may đang tăng rất chậm, tỷ lệ ngành dệt trong tổng sản lượng của ngành công nghiệp (6,1%) lớn hơn ngành may (2,7%).
Ngoài ra, số liệu cũng cho thấy sản lượng sợi tăng chậm, mặc dù sản lượng năm 1996 thấp hơn năm 1990, sản lượng vải thể hiện một xu hướng cũng không sáng sủa, và bắt đầu từ năm 1993, sản lượng đã tăng lên một cách rõ rệt nhưng đến năm 1996 cũng chỉ đạt 75% của năm 1985 và chỉ bằng 90% của năm 1990. Sản lượng ngành may tăng vững chắc hơn, mặc dù tốc đọ tăng thấp hơn so với tỷ lệ tăng trưởng được thể hiện thông qua các số liệu xuất khẩu.
2. Về loại hình sở hữu :
Đối với ngành dệt, Doanh nghiệp Nhà nước chiếm khoảng 60% tổng sản lượng của ngành năm 1996, trong khi đó Doanh nghiệp tư nhân chiếm khoảng 24% và đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 16%.
Ngành may, đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ lệ tương tự là 15 %, trong khi đó Doanh nghiệp tư nhân có vị trí quan trọng hơn chiếm 49% và Doanh nghiệp Nhà nước chiếm 36%. Nét đặc trưng không bình thường của tỷ trọng chia theo loại hình sở hữu đó là khu vực tư nhân chiếm tỷ trọng nhỏ bé trong ngành dệt may của Việt Nam. Như vậy, việc cải cách Doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển một cách hiệu quả là một trong những thách thức lớn của ngành dệt may trong giai đoạn hiện nay.
3. Đầu tư nước ngoài :
Từ năm 1998, sau khi Việt Nam bước đầu thực hiện tự do hai chính sách về FDI, các dự án đầu tư nước ngoài được phê duyệt tăng lên nhanh chóng. Từ năm 1993 trở lại đây, đầu tư nước ngoài đạt trên 100 triệu USD/năm, nhưng năm 1997 và năm 1998 nguồn vốn này đã giảm. Hình thức 100% sở hữu nước ngoài đã hấp dẫn các nhà đầu tư. Kéo sợi, dệt vải và may mặc được coi là những bộ phận chính thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Các nước và vùng lãnh thổ Đông á là những nhà đầu tư chủ yếu, trong đó lớn nhất là Hàn Quốc, Malaysia, và Đài Loan chiếm 90% tổng đầu tư vào ngành dệt may.
Sau 10 năm ban hành Luật đầu tư nước ngoài, tính đến cuối năm 1998, 178 dự án dệt may được cấp giấy phép với vốn đầu tư đăng ký là 1.794,65 triệu USD, trừ 33 dự án đã giải thể trước thời hạn còn 145 dự án đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư là 1.628,192 triệu USD.
Về hình thức đầu tư, số dự án 100% vốn nước ngoài có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây, trong khi số dự án theo hình thức hợp tác kinh doanh trền cơ sở hợp đồng giảm đi.
Các dự án may cũng nằm chủ yếu ở các tỉnh phía Nam, trong đó thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu với 40 dự án với tổng số vốn đầu tư 104, 397 triệu USD; Đồng Nai 12 dự án với tổng số vốn đầu tư 36,679 triệu USD; Bình Dương 8 dự án với số vốn đầu tư 16,2 triệu USD,...
4. Về thiết bị :
Phần lớn số thiết bị ngành dệt hầu hết đã rất cũ và sự thiếu đồng bộ giữa các khâu. Thiết bị dệt còn quá ít so với thiết bị kéo sợi, phần lớn lại là máy dệt thoi khổ hẹp, chủng loại nghèo nàn, vải làm ra không đáp ứng nhu cầu thị trường,… Về thiết bị kéo sợi cũng có tới hơn 60% là cọc sợi chải thô, chỉ số chất lượng bình quân thấp chỉ có khoảng 26-30% là cọc sợi chải kỹ chỉ số cao dùng cho dệt kim và vải cao cấp, dây chuyền nhuộm hoàn tất cũng đã lạc hậu phần lớn là thiết bị khổ hẹp, tiêu hao nhiều hoá chất, thuốc nhuộm, dẫn đến chi phí cao.
Trong khi đó, trang thiết bị ngành may đã tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, nhất là về tính năng công dụng, từ máy đạp chân C22 của Liên Xô cũ, máy 8322 của Đức đến JUKI của Nhật Bản và FFAP của CHLB Đức. Số máy chuyên dùng cũng tăng lên đáng kể để đáp ứng với yêu cầu của sản xuất và của chủng loại mặt hàng như máy vắt năm chỉ, máy thùa đính, trần dầy pasant, may cạp bốn kim, bàn là treo, bàn là hơi có đệm hút chân không,...
5. Về lương :
Đầu những năm 1990, mức lương trong ngành công nghiệp dệt là một trong những mức lương thấp nhất ở các nước Châu á. Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ lương ở Việt Nam đã tăng (lương TB là 58USD/ tháng ), cao hơn Trung Quốc. Gần đây, sự giảm giá của một số đồng tiền tại Đông Nam á làm cho mức lương của một số nước trở nên thấp hơn mức lương của Việt Nam, đặc biệt năm 1998, mức lương của Inđônêxia thấp hơn một nửa mức lương của Việt Nam.
6. Về năng suất :
Năng suất trong ngành dệt may Việt Nam được tính bằng giá trị gia tăng theo lao động là rất thấp trong đầu những năm 1990 so với các nước trong nghiên cứu, đặc biệt so với Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore. Trong những năm gần đây, giá trị gia tăng theo lao động của nước ta đã đuổi kịp Trung Quốc. Cuộc khủng hoảng tài chính làm thay đổi giá trị gia tăng tính theo USD trong năm 1997 và 1998, đặc biệt đối với Inđônêxia, năng suất lao động được tính giá trị gia tăng theo lao động bằng USD đã giảm đột ngột .
Chỉ số về chi phí cho một lao động có thể được xem như là đại diện cạnh tranh quốc tế về chi phí. Chỉ số này của Việt Nam cao hơn so với Trung Quốc, Iđônêxia, Malaixia và Hàn Quốc, nó chỉ ra rằng ngành dệt của Việt Nam cạnh tranh thấp hơn so với các nước đã nói trên.
7. Về xuất khẩu và thị trường xuất khẩu :
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, giá trị xuất khẩu của ngành dệt may vẫn tăng lên mạnh mẽ, điều này một lần nữa lại cho thấy mối liên quan chặt chẽ giữa cải cách kinh tế với kết quả xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 43 triệu USD trong năm 1988 lên 1,3 tỷ USD vào năm 1996. Tuy điểm khởi đầu của ngành là rất nhỏ bé nhưng những thành tích đạt được là rất ấn tượng. Dệt may là ngành chế tác có giá trị xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam do lợi nhuận lớn, trong thời kỳ đầu xuất khẩu, nó tạo nên 60% tổng giá trị xuất khẩu. Như đã dự báo, tỷ lệ này giảm dần xuống khi quá trình đa dạng hoá xuất khẩu bắt đầu có kết quả. Tuy vậy ngành dệt may vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong năm 1996, ngành chiếm 1/5 tổng kim ngạch.
Với những thành tựu đã đạt được cũng cần lưu ý một thực tế là từ đầu những năm 1990, Việt Nam đã phải chuyển quan hệ thương mại từ khối các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế trước đây (COMECOM) sang hướng khác. Đây là điều quan trọng cần tính đến trong ngành dệt may với quy định chặt chẽ trên thị trường quốc tế hiện nay. Trong thời kỳ hậu COMECOM, vào tháng 12 năm 1992, Việt Nam đã đàm phán Hiệp định về buôn bán hàng dệt đầu tiên và đã ký một khuôn khổ về buôn bán hàng dệt với EU, cho phép lần đầu tiên Việt Nam được hưởng hạn ngạch MFA ( Hiệp định đa sợi ). Tuy nhiên, ngành dệt Việt Nam vẫn chưa tiếp cận được với thị trường Mỹ rộng lớn, và là một nhà xuất khẩu non trẻ, nên ngành dệt Việt Nam buộc phải tiến vào các thị trường phi hạn ngạch có tính cạnh tranh rất cao, chủ yếu là ở Đông á.
III. Những vấn đề tồn tại trong hoạt động kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam :
1. Triển vọng, khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam :
11. Quan điểm và mục tiêu phát triển ngành dệt may :
Theo quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 4.9.1998, mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 là : Hướng ra xuất khẩu nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ, đảm bảo cân đối trả nợ và tái sản xuất mở rộng các cơ sở sản xuất của ngành, thoả mãn nhu cầu trong nước về số lượng, chất lượng, giá cả và chủng loại, từng bước đưa ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thực hiện đường lối CNH-HĐH đất nước.
Quan điểm chung về phát triển ngành dệt may Việt Nam là :
+ Công nghiệp dệt may phải được ưu tiên phát triển và được coi là một trong những ngành trọng điểm trong quá trình CNH-HĐH đất nước.
+ Phát triển công nghiệp dệt may theo hướng hiện đại hoá và đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu nội địa, thay thế nhập khẩu kết hợp với hướng ra xuất khẩu, hoà nhập vào sự phát triển thị trường khu vực và thế giới.
+ Phát triển công nghiệp dệt may theo hướng đa dạng sở hữu và tập trung vào các Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tiến hành cổ phần hóa các Doanh nghiệp may và một số Doanh nghiệp dệt.
+Phát triển công nghiệp dệt may gắn liền với sự phát triển của ngành kinh tế khác: Trồng bông, dâu tơ tằm, ngành hoá chất, cơ khí,…
Trên cơ sở quan điểm và mục tiêu phát triển chung, các mục tiêu cụ thể đặt ra cho ngành dệt may từ nay đến năm 2010 như sau :
Bảng 1 : Chỉ tiêu sản xuất và xuất khẩu đến năm 2010
Đơn vị
Năm
2000
2005
2010
+Sản xuất
Vải lụa
Triệu mét
800
1330
2000
Sản phẩm dệt kim
Triệu sản phẩm
70
150
210
Sản phẩm may(quy chuẩn)
Triệu sản phẩm
580
780
1200
+Kim ngạch xuất khẩu
Triệu USD
2000
3000
4000
Hàng dệt
Triệu USD
370
800
1000
Hàng may
Triệu USD
1630
2200
3000
Nguồn : Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010, Bộ công nghiệp.
Để đạt được những mục tiêu này, từ nay tới năm 2005, ngành dệt may phải có mức tăng trưởng bình quân 13%/năm, từ năm 2005 đến 2010 tăng trưởng 14%/năm.
Trên cơ sở hiện trạng củng cố và phát triển các trung tâm công nghiệp dệt của cả nước là vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long, Đồng bằng Sông Hồng và vùng duyên hải Miền Trung, các cơ sở may dự kiến được phân bổ rộng rãi trên địa bàn cả nước, ưu tiên phát triển cơ sở may xuất khẩu tại những vùng gần bến cảng, sân bay, trục giao thông chính thuận lợi cho xuất khẩu.
12.Về khả năng cạnh tranh của hàng dệt may :
Ngành dệt may Việt Nam được đánh giá là ngành có lợi thế so sánh cao nhờ các yếu tố sau :
+ Nguồn lao động dồi dào và giá nhân công rẻ : có thể nói đây là lợi thế nổi bật của ngành dệt may Việt Nam. Tính đến năm 1997, dân số Việt Nam đã lên tới 73,355 triệu người trong đó có trên 42 triệu người đang trong độ tuổi lao động. Người lao động Việt Nam có truyền thống cần cù, khéo léo, ham học hỏi, tiếp thu nhanh các kỹ thuật và công nghệ mới. Mức lương hiện nay ở Việt Nam vẫn còn ở mức khá thấp so với các nước trên thế giới cũng như các nước trong khu vực.
Lao động dồi dào và tiềm năng lương thấp là lợi thế mạnh cơ bản của Việt Nam trong giai đoạn này để tiếp nhận sự chuyển dịch của ngành dệt may của các nước phát triển và các nước NICs , thu hút vốn đầu tư cho sự phát triển của ngành.
+ Vị trí địa lý và điều kiện giao lưu hàng hoá : Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam á, khu vực trong những năm đầu thập kỷ 90 có tốc tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới, mức tăng trưởng kinh tế bình quân 6-8%/năm, trong những năm qua và cũng là khu vực có dân số đông nhất thế giới. Nền kinh tế phát triển nhanh dẫn đến mức tiêu thụ hàng tiêu dùng trong đó hàng dệt may tăng với tốc độ vượt xa tốc độ tăng tiêu thụ của các nước Châu Mỹ hay Châu Âu.
Vị trí của Việt Nam cũng thuận tiện cho việc phát triển giao lưu hàng hải quốc tế với các khu vực trên thế giới với bờ biển dài, có nhiều hải cảng nước sâu và có khí hậu tốt cũng như có điều kiện phát triển đường bộ và đường sắt theo dự án xây dựng đường sắt xuyên Âu - á theo dự án của ADB.
+ Khả năng cung cấp nguyên liệu :
Việt Nam có rất nhiều vùng có điều kiện khí hậu thổ nhưỡng phù hợp cho sự phát triển cây bông. Chương trình phát triển cây bông đến năm 2010 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã được đưa vào thực hiện và có kết quả bước đầu. Nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa truyền thống của Việt Nam đã được phát triển với việc áp dụng kỹ thuật mới, cho ra đời các sản phẩm có chất lượng cao, được ưu chuộng trên thế giới tuy sản lượng còn thấp. Việt Nam cũng có nhiều tiềm năng để phát triển sản xuất sợi tổng hợp và vải không dệt với triển vọng hình thành và phát triển các cơ sở hoá dầu.
+Khả năng đổi mới thiết bị công nghệ :
Theo đánh giá của UNDP, trang thiết bị ngành dệt may Việt Nam mới chỉ ở mức 2/7, rất lạc hậu so với thiết bị ngành dệt thế giới. Ngành dệt đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn kéo dài nên khó có khả năng đổi mới nhanh thiết bị công nghệ, đòi hỏi phải có những chương trình đầu tư lớn, đổi mới trang thiết bị về cơ bản.
Tuy nhiên, trong những năm qua, trang thiết bị ngành may đã có những thay đổi đáng kể với các thiết bị công nghệ mới của các nước tiên tiến, có thể sản xuất những mặt hàng chất lượng quốc tế.
Phần lớn các Doanh nghiệp may có quy mô vừa và nhỏ, có khả năng thích nghi linh hoạt, dễ dàng đổi mới trang thiết bị , công nghệ theo điều kiện biến động của thị trường.
+ Các chính sách hỗ trợ của Chính phủ :
Ngành dệt may với đặc điểm có hàm lượng lao động lớn và có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu cao, được xếp vào lĩnh vực khuyến khích đầu tư phát triển. Nhiều chính sách thương mại và đầu tư được ban hành trong thời gian qua đã có tác dụng thiết thực trong việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, tháo gỡ những khó khăn của Doanh nghiệp dệt may và thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực này. Những quy định mới của Chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho các Doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, tháo gỡ phần nào những khó khăn về tài chính của Doanh nghiệp cũng như khuyến khích về đầu tư vào ngành dệt may, giải quyết được những khó khăn trong tổ chức kinh doanh xuất khẩu và khuyến khích các Doanh nghiệp tìm kiếm thị trường xuất khẩu.
+ Khả năng cạnh tranh :
Xuất phát từ những lợi thế trên, mặc dù sản phẩm dệt may của Việt Nam hầu như chưa được biết đến trên thị trường thế giới nhưng sản phẩm may xuất khẩu của Việt Nam được đánh gía cao về nhiều phương diện. Chất lượng sản phẩm tốt và ổn định, thời gian giao hàng được xem vào loại khá tốt so với các nước Châu á.
2. Những vấn đề tồn tại :
Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành dệt may Việt Nam đang phải đương đầu với nhiều khó khăn và thách thức từ nhiều phía :
- Ngành dệt có tốc độ tăng trưởng thấp, không theo kịp tốc độ tăng trưởng của ngành may. Chất lượng và chủng loại vải không đáp ứng được yêu cầu may hàng năm, ngành may phải nhập khẩu 80% vải nguyên liệu.
Trang thiết bị lạc hậu, trên 50% thiết bị đã sử dụng trên 20 năm lại thiếu vốn đổi mới thiết bị công nghệ, không đáp ứng được yêu cầu của ngành may về chất lượng cũng như chủng loại sản phẩm. Nguyên liệu cho ngành dệt vừa thiếu vừa không đảm bảo chất lượng.
Vì vậy, sản phẩm dệt Việt Nam vừa đơn điệu về chủng loại, chất lượng thấp, giá thành cao, kém sức cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế.
- Những bất ổn trong nền kinh tế của nhiều nước trong khu vực như Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia,... những nước đứng đầu trong đầu tư vào ngành dệt Việt Nam do tác động của khủng hoảng tài chính khu vực khiến các nước này giãn tiến độ đầu tư, chậm chễ trong cung cấp nguyên phụ liệu,... cũng gây khó khăn đáng kể cho các Doanh nghiệp dệt có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
- Không chỉ phải nhập nguyên liệu do ngành dệt nội địa không đủ khả năng cung cấp, hầu hết các phụ liệu khác ngành may xuất khẩu cũng phải nhập ngoại, một phần do sản xuất phụ liệu trong nước chưa được chú trọng đúng mức, hiện mới chỉ cung được một số loại như chỉ của Coats-Tootal, dây kéo của Phong Phú, nhãn mác của Việt Tiến,… với số lượng hạn chế, một phần do khách hàng nước ngoài yêu cầu phải sử dụng phụ liệu do bên họ cung cấp. Vì vậy, các Doanh nghiệp thường rơi vào thế bị động do nguồn cung cấp nguyên phụ liệu chậm chễ, thiếu đồng bộ hay không đảm bảo quy cách phẩm chất.
- Trình độ thiết kế kiểu mẫu còn rất yếu kém. Trong khi đó, khâu thiết kế mẫu đem lại giá trị gia tăng cao, xuất khẩu trực tiếp chỉ chiếm khoảng 20% hạn ngạch xuất khẩu. Do đó, kim ngạch xuất khẩu tuy lớn nhưng phần ngoại tệ thực tế thu được lại nhỏ. Bên cạnh việc thực hiện các hợp đồng gia công lại không ổn định, phụ thuộc vào giá nhân công và tình hình cung cấp nguyên phụ liệu.
- Mặc dù gia công cho nước ngoài hiệu quả thấp, thường bị thua thiệt nhưng hiện nay khoảng 90 % các Doanh nghiệp may vẫn tiếp tục gia công cho nước ngoài. Có nhiều nguyên nhân của tình trạng này :
+ Các Doanh nghiệp không có đơn đặt hàng, không có tên tuổi và uy tín trên thị trường. Hầu hết các hạn ngạch được sử dụng để làm gia công cho nước ngoài, về thực chất là chuyển nhượng hạn ngạch. Ngay cả mặt hàng Việt Nam xuất theo hình thức FOB cũng mang nhãn hiệu của các nước khác : Pierne Cardin, Youth, Polo, Hangsin,...
+ Gia công xuất khẩu ít rủi ro cả về sản xuất lẫn tiêu thụ sản phẩm, lại không đòi hỏi phải có nhiều vốn.
+ Các chính sách quản lý ( thuế, thủ tục hải quan,…) chưa thực sự có tác dụng khuyến khích xuất khẩu trực tiếp.
- Về thị trường xuất khẩu, hàng dệt may cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, cả thị trường hạn ngạch và thị trường phi hạn ngạch.
Từ năm 1993, sau khi hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam – EU được ký kết, nhiều Doanh nghiệp, tỉnh, thành phố đã đầu tư mới để sản xuất hàng xuất khẩu sang EU. Tuy nhiên, hầu hết năng lực thiết bị mới đầu tư của ngành may là dây chuyền sản xuất “Cat” nóng, dẫn đến tình trạng hạn ngạch cho các mặt hàng này thì thiếu trong khi các “cat” lạnh, các mặt hàng đã được bỏ hạn ngạch cũng như sản phẩm xuất sang thị trường phi hạn ngạch không được đầu tư đúng mức.
Xuất khẩu sản phẩm dệt may của Việt Nam sang EU thường chịu điều kiện ràng buộc về nhập khẩu nguyên phụ liệu từ thị trường này với mức giá cao hơn giá các sản phẩm tương đương của các nước trong khu vực, làm ảnh hưởng đến khả năng về giá của sản phẩm Việt Nam.
Xuất khẩu theo hạn ngạch của Việt Nam sang một số thị trường hạn ngạch khác như Canada, Thổ Nhĩ Kỳ,… còn rất thấp trong khi xuất khẩu sang hầu hết các thị trường không hạn ngạch đã giảm trong năm 1998 và còn nhiều khó khăn trong năm 1999 và thời gian tiếp theo.
- Về cơ chế quản lý nhập khẩu : Sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may được xác định là lĩnh vực được ưu tiên đầu tư phát triển với nhiều chính sách ưu đãi về đầu tư, về tín dụng, về thuế doanh thu cũng như thuế nhập khẩu, có tác dụng thiết thực trong khuyến khích xuất khẩu và gia công xuất khẩu, tháo gỡ các khó khăn cho Doanh nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất và kinh doanh hàng dệt may xuất khẩu.
Tuy nhiên, bên cạnh những thay đổi đáng kể trong công tác quản lý XNK, nhiều chính sách biện pháp vẫn còn bất cập, gây khó khăn cho các Doanh nghiệp sản xuất – XNK hàng dệt may. Nhiều quy định trở nên không còn hợp lý trong điều kiện sản xuất kinh doanh đã thay đổi như quy định về tỷ lệ xuất khẩu theo giấy phép đầu tư, chính sách phân bổ hạn ngạch,...Trong khi thị trường xuất khẩu đang gặp nhiều khó khăn, những quy định này trở thành trở ngại lớn đối với các Doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các quy định mới được ban hành thường không được thông tin đầy đủ, kịp thời đến các Doanh nghiệp hoặc không có một thời gian đệm hợp lý cho các nhà đầu tư chuẩn bị trước khi các quy định mới có hiệu lực.
Có thể nói, sản phẩm dệt may của Việt Nam vẫn kém cạnh tranh hơn nhiều nước trong khu vực về nhiều mặt :
a. Về giá : giá hàng dệt kim của Việt Nam tương đối có sức cạnh tranh do Việt Nam chủ động được từ sản xuất sợi đến may thành phẩm nhưng giá hàng dệt thoi của Việt Nam được đánh giá là quá đắt. Một mặt do từ nguyên phụ liệu đến công nghệ, thiết bị hầu hết phải nhập khẩu , một mặt do Việt Nam chỉ làm những khâu cắt, ráp , đóng góp … có giá trị gia tăng thấp.
Bảng 2 : Bảng so sánh hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản
(Yên / sản phẩm )
Tên nước
Hàng dệt
Hàng dệt thoi
Các loại khác
Việt Nam
390
1185,2
1345
Trung Quốc
436
867
1030
Inđônêsia
534
574
839,4
Thái Lan
397
1274,8
1438,6
Hàn Quốc
452
1376,4
1616
b. Về cơ cấu sản phẩm : sản phẩm dệt may Việt Nam vẫn còn đơn điệu. Khả năng đa dạng hoá mặt hàng không theo kịp với sự thay đổi của yêu cầu thị trường, đặc biệt là với các trang phục cao cấp.
c. Về thị trường : Việt Nam đang tham gia vào thị trường thế giới khi thị trường đã khá định hình, phải cạnh tranh với các nước có cùng loại sản xuất xuất khẩu nhưng có trình độ phát triển cao hơn, có tên tuổi và uy tín trên thị trường, lại được ưu đãi hơn trong các hiệp định song phương hay đa phương về hàng dệt may với các nước nhập khẩu.
d. Về môi trường kinh doanh : Theo đánh giá của các nhà đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài, Việt Nam kém hấp dẫn hơn nhiều nước trong khu vực do các thủ tục quản lý hành chính trong đầu tư nước ngoài. Thời gian cấp giấy phép đầu tư thường bị phụ thuộc vào nhiều cấp quản lý. Khó khăn trong việc chuyển đổi ngoại tệ để mua vật liệu từ nước thứ ba trong khi nguồn cung cấp trong nước hạn chế và chất lượng không đảm bảo.
Bên cạnh các chính sách khuyến khích đầu tư, so với nhiều nước trong khu vực, cơ sở hạ tầng của Việt Nam kém cạnh tranh hơn về nhiều phương diện : Các dịch vụ tài chính, ngân hàng kém phát triển, điều kiện giao thông vận tải kho tàng, bến bãi vừa thiếu vừa yếu kém, chi phí điện nước, liên lạc viến thông cao,…Với mặt hàng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35278.doc